Thứ Tư, 6 tháng 12, 2017

TẬP THƠ CÂY ÁNH SÁNG - NGUYỄN QUANG THIỀU (HÀ NỘI ) 50-58


nhật ký ghi dưới gốc cây gần quảng trường

Có một bài thơ tôi viết
Trong bóng tối
Của thành phố này

Đấy không phải là đêm
Tôi vẫn nhìn thấy những đám mây nặng
Bò trên những mái nhà thành phố
Và vẫn nhìn thấy
Một người đàn bà
Tắm trong một toilet không có rèm che
Kỳ cọ như tuốt hết da thịt mình
Và vẫn nhìn thấy
Cuộc làm tình ban ngày
Của những kẻ thất nghiệp
Trong chính công sở của họ
Và vẫn nhìn thấy
Nơi ngã tư một chiếc xe tải
Cán nát một cô gái
Nhưng bó hoa cô cầm trên tay
Vẫn nở nốt bông cuối cùng
Và vẫn nhìn thấy
Linh hồn những người đã chết
Xếp hàng trước cổng trụ sở Tòa án thành phố
Và vẫn nhìn thấy phía khuất con đường
Một người đàn bà băng qua
Với một cái bụng lớn
Chứa một đứa trẻ không rõ mặt
Và vẫn nghe rõ
Một tiếng nổ
Và nhìn thấy viên đạn
Chầm chậm khoan thủng một cái đầu
Bên cạnh










10h13’

Không có lý do gì cho sự ra đời của một bài thơ
Nhưng bài thơ đã bắt đầu viết
Bằng chữ đầu của một cái tên
Thường tuyệt vọng khi đi qua nơi này

Một ô cửa rụt rè mở
Và một tiếng rạn vỡ đâu đấy
Trên da thịt không ướp lạnh của H

H ngủ muộn. 10h13 phút chưa dậy.
Những sự sống trôi qua chiếc giường.
Những cái chết trôi qua chiếc giường.
Và H nhìn thấy trong giấc ngủ
Một tấm thân đàn ông nóng rừng rực
Trôi qua chiếc giường và dừng lại
ở một khoảng trên đầu

lúc 10h13 một người đàn bà khác
khỏa thân trong một chiếc giường
đặt ở giữa thành phố
bên một cái chết mặc trang phục Đại lễ





đố ai tìm thấy tôi ở đây

Chiếc xe màu xanh sau mưa
Đến trước ngày tôi sinh

Cậu bé chạy trong ban mai
Xuyên qua dòng thác ánh sáng
Kiêu hãnh và đẹp hơn sự nẩy mầm
Chưa đến giờ bị phủ ngập bóng tối

Chiếc xe, đóa hoa biếc
Cậu bé không nhận ra
Những bông Cát đằng trôi trong buổi trưa
Theo một hơi thở dịu dàng nhất thế gian
Và đôi mắt đẹp hơn hồ nước trên núi cao

Sao không lại gần nữa.
Gần nữa. Và gần nữa
Vừa chạy tìm chỗ nấp
Vừa cố ý nói : “ đố ai tìm thấy tôi ở đây”

Cô bé Hạnh Nguyên mỉm cười
Ngắm người đàn bà và người đàn ông
Sẽ sinh ra cô
Đang chạy trốn
Vừa chạy vừa ngoái lại nói :
“đố ai tìm thấy tôi ở đây”





một ghi chép tháng Sáu

Vuông vải trắng khổng lồ trùm kín chúng ta
Ai đó tìm cách xé rách

Những con ong hợp kim sục vòi
Tìm kiếm chút mật
Trong những thân thể hoảng loạn
Chúng ta đang thuộc về một ngày cuối tháng 6

Một đám mây bay ở rất xa
Cất tiếng gọi

Chúng ta biết làm gì lúc này
Cuộc ái ân không thể kéo dài
Cuốn sách đã đọc hết
Đặt giữa chúng ta một chiếc bàn không có mặt bàn

Một đám mây bay ở rất xa
Cất tiếng gọi

Nhưng chỉ có một người trả lời
Với cái miệng giàn dụa
Thức ăn của bữa trưa



công việc của tháng Mười Một

Cuối cùng ngươi cũng phải cất giọng, hỡi những lừa, lạc đà, những ngựa của con đường vô định
Những sư tử, những báo gấm, những hổ của rừng mang dáng vẻ kỳ vĩ đang mục ruỗng từ bên trong
Những dê, những chim ưng, những ong của mùa đông khan hiếm phấn hoa
Những chim non của tổ chim xác xơ vì gió, những bướm của những cái kén thẫm tối
Những cá của nước xiết, những côn trùng của lá mục
Và những chúng ta của ngôn từ chết mai táng trong thân xác chuyển động

Không thể nào còn nghe thấy lời của tháng Mười vừa mới lướt trên những cái lưỡi ướt và nóng
Tháng Mười Một mạnh hơn tất cả bởi sự trần trụi hơn cả những bộ xương bò nấu phở
Chưa có chút dấu vết gì của tháng Mười Hai. Đừng lục tìm trong cổ thư
Lưỡi dao sự thật của tháng Mười Một rạch một đường dọc những cái lưỡi phản bội
lại những ngôn từ nổ ra từ đó với một cái bóng hoang tưởng rướn chạy

Kìa những cái cây lộng lẫy và kiêu hãnh trong gió gào rít giữa đêm
Và một kẻ đang gắng sức tìm lối đến Thiên đường nhưng lại không ngước được mắt lên
Bởi gã bị đôi giày mới mua ở cửa hiệu bán đồ Trung Quốc xoá mất đôi mắt
Và sự nhầm lẫn tồi tệ khi đưa tay lần tìm tháng Mười Hai theo thứ tự của số đếm

Từ thế gian tội lỗi và lú lẫn đến Thiên đường không phải là những bậc cầu thang ốp bằng loại đá Tây Ban Nha gã lựa chọn
Gã không phải là một kẻ điên. Gã làm âm bản của chúng ta. Một lần nữa
Chúng ta lại không nhận ra một sự thật là không có cái gì gọi là tháng Mười Hai lúc này
Và những công việc của tháng Mười Một vẫn tiếp tục cho đến khi bắt đầu một lối rẽ


bài ca trước phần mộ Diễm Châu

Người không bao giờ lạc trong Paris sầm uất, nhưng đã đi nhầm
Trong một khu phố nhỏ ở Hà Nội
Dừng lại như một kẻ vừa thức dậy sau một cái chết ngắn không rõ lý do
Và đi tiếp với đôi môi chuyển động khó nhọc. Một cây cổ thụ nhận ra.

Ông già của những ký ức màu Cúc Quỳ. Cậu bé của những ý tưởng vô tận.
Lá thư cuối cùng phong bì màu vàng nhạt gửi đến một thị trấn hỏi thăm một con ruột nhút nhát.
Chạy băng qua khoảng đèn bị bỏ quên trong đêm xa xôi. Chợt dừng lại.
Vọng đến một tiếng rên. Đi bộ đến đoạn đường luôn nhầm lẫn.

Diễm Châu. Trong khoảng sáng mù những ngọn đèn đường cố hương. Diễm Châu.
Trong những dãy ghế một thánh đường cũ luôn bị đe doạ bởi gã đàn ông trà trộn trong đám con chiên. Diễm Châu.
Một thi sĩ. Diễm Châu. Diễm Châu. Âm tiết mãi mãi mới lạ.
Nở ra như một bông Bạch Đơn trong khu vườn cất giấu di sản những tiếng khóc thầm.

Chợt ngủ quên trong thế giới những câu thơ. Máu, nước mắt, những cơn ho, sự khó thở và những vẻ đẹp.
Diễm Châu, mãi là cặp từ không dễ dàng phát âm trong đầu lưỡi của những kẻ độc tài.
Và trong giấc ngủ vĩnh viễn ấy dựng lên một tấm bảng đen. Một thế gian.
Một bàn tay run rẩy chầm chậm viết cặp từ ấy và không bao giờ xoá.

Thị xã Hà Đông, đêm 2 tháng 1 năm 2007







những con mồi

Đêm qua những con cá bơi quanh chiếc giường
Ngửi chúng ta rồi bỏ đi
Và bực dọc nói:
Chúng ta không bao giờ ăn những con  mồi  chết

Chúng ta có chết không ?
Một người thức giấc hỏi.
Nhưng chẳng có câu trả lời nào.
Ngoài bóng một bác sỹ tâm thần ghi bệnh án
In trên bức tường phía đông

Trên đầu chúng ta những con cá
Bơi lùi về qúa khứ
Chúng muốn xem lại hồ sơ những chiếc lưỡi câu
Nhưng chỉ còn lại một nhà kho mục nát
Trong đó một chiếc đồng hồ
Chạy từ lúc chúng ta chưa biết đền thời gian


Giữa bất tận những con mồi
Bầy cá nhắm mắt
Chỉ mở ra khi nghe lệnh
Nhưng một con không chịu nhắm mắt
Trong suốt cuộc săn tìm
Rời bỏ bầy quay lại
Và nói với một con mồi :
Ngươi đã hết thời gian chết


0h7’

Chạy kiệt sức không ra khỏi cơn đau đầu
Tôi mơ trở về khu vườn ở Dedham tôi mơ chìm trong cỏ
những con bướm tháng Tư bay rợp mặt

Luôn luôn một hơi thở gấp phía sau
Nhưng không bao giờ lên tiếng
Đúng giờ phút này áp chặt vào ô kính một tấm thân trần truồng
Như ai đó dán một tờ giấy trang trí
Một tấm rèm bằng da người

Một ngôi sao phía xa
mặt chiếc nhẫn của H
Không. Đốm lửa đầu điếu thuốc
Tôi đang hút in trên kính.

Nhận ra không phải cơn đau đầu
Ai đó đặt một cái đầu nặng hơn
Vào trong đầu tôi
Và một cái đầu khác nặng hơn nữa
Vào trong cái đầu vừa đặt



lịch sử một tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ

Người hướng dẫn: Được dệt thủ công bởi một người đàn bà mù Thổ Nhĩ Kỳ
Người mua: Mua lại từ một ông già da đen Cuba ở Havana năm 1986
Chủ nhân: Quà tặng của con trai tôi. Được treo trên bức tường này 21 năm.

Lúc gần sáng tiếng những cành khô gãy
Những con nai cái mùa động đực
Chủ nhân bức thảm 87 tuổi tỉnh giấc uống trà nguội
Những con nai đực ngùn ngụt
Ngôi nhà như không bao giờ mở cửa
Một bà già đi tiểu lần thứ 5, nói:
“Mẹ đau lắm”

21 năm tấm thảm không thay đổi chỗ treo
Người đàn ông 50 tuổi thường trở về và đứng
Trong ngôi nhà nửa bóng tối
Tràn ngập tấm thảm tiếng hô hoán
Và phía sau tấm thảm
Một lưỡi dao lạnh lùng đợi
Và một cái chảo sùng sục sôi

Người hướng dẫn: Những ngón tay người đàn bà mù Thổ Nhĩ Kỳ giờ bị liệt
Người mua: Ông già da đen Cuba đã tự vẫn
Chủ nhân: Tôi chỉ nhớ gương mặt con trai tôi khi nó mở bức thảm ra

Có một người lúc nào cũng rét
Đứng nhìn tấm thảm
Hai bàn chân bị đông cứng trong vũng máu
Ở chân tường

Người hướng dẫn: (đã bỏ nghề)
Người mua: Hình như không phải tấm thảm tôi đã mua
Chủ nhân: Tôi nhìn thấy những người thân đã chết chạy nấp sau những gốc cây trong tấm thảm

Bây giờ là năm thứ 22.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

BÀI MỚI ĐẮNG

Truyện ngắn: BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN _ NGUYỄN HẢI ĐĂNG

Bên cánh gà chánh điện phần 1 BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN Xe dừng lại với tiếng xột xoạt trên mặt đường, như bao chuyến xe đã ghé qua từ thuở ...