Có một bài thơ tôi viết
Trong bóng tối
Của thành phố này
Đấy không phải là đêm
Tôi vẫn nhìn thấy những đám mây nặng
Bò trên những mái nhà thành phố
Và vẫn nhìn thấy
Một người đàn bà
Tắm trong một toilet không có rèm che
Kỳ cọ như tuốt hết da thịt mình
Và vẫn nhìn thấy
Cuộc làm tình ban ngày
Của những kẻ thất nghiệp
Trong chính công sở của họ
Và vẫn nhìn thấy
Nơi ngã tư một chiếc xe tải
Cán nát một cô gái
Nhưng bó hoa cô cầm trên tay
Vẫn nở nốt bông cuối cùng
Và vẫn nhìn thấy
Linh hồn những người đã chết
Xếp hàng trước cổng trụ sở Tòa án thành phố
Và vẫn nhìn thấy phía khuất con đường
Một người đàn bà băng qua
Với một cái bụng lớn
Chứa một đứa trẻ không rõ mặt
Và vẫn nghe rõ
Một tiếng nổ
Và nhìn thấy viên đạn
Chầm chậm khoan thủng một cái đầu
Bên cạnh
10h13’
Không có lý do gì cho sự ra đời của
một bài thơ
Nhưng bài thơ đã bắt đầu viết
Bằng chữ đầu của một cái tên
Thường tuyệt vọng khi đi qua nơi này
Một ô cửa rụt rè mở
Và một tiếng rạn vỡ đâu đấy
Trên da thịt không ướp lạnh của H
H ngủ muộn. 10h13 phút chưa dậy.
Những sự sống trôi qua chiếc giường.
Những cái chết trôi qua chiếc
giường.
Và H nhìn thấy trong giấc ngủ
Một tấm thân đàn ông nóng rừng rực
Trôi qua chiếc giường và dừng lại
ở một khoảng trên đầu
lúc 10h13 một người đàn bà khác
khỏa thân trong một chiếc giường
đặt ở giữa thành phố
bên một cái chết mặc trang phục Đại
lễ
đố ai tìm
thấy tôi ở đây
Chiếc xe màu xanh sau mưa
Đến trước ngày tôi sinh
Cậu bé chạy trong ban mai
Xuyên qua dòng thác ánh sáng
Kiêu hãnh và đẹp hơn sự nẩy mầm
Chưa đến giờ bị phủ ngập bóng tối
Chiếc xe, đóa hoa biếc
Cậu bé không nhận ra
Những bông Cát đằng trôi trong buổi
trưa
Theo một hơi thở dịu dàng nhất thế
gian
Và đôi mắt đẹp hơn hồ nước trên núi
cao
Sao không lại gần nữa.
Gần nữa. Và gần nữa
Vừa chạy tìm chỗ nấp
Vừa cố ý nói : “ đố ai tìm thấy tôi ở đây”
Cô bé Hạnh Nguyên mỉm cười
Ngắm người đàn bà và người đàn ông
Sẽ sinh ra cô
Đang chạy trốn
Vừa chạy vừa ngoái lại nói :
“đố
ai tìm thấy tôi ở đây”
một ghi chép
tháng Sáu
Vuông vải trắng khổng lồ trùm kín
chúng ta
Ai đó tìm cách xé rách
Những
con ong hợp kim sục vòi
Tìm
kiếm chút mật
Trong
những thân thể hoảng loạn
Chúng
ta đang thuộc về một ngày cuối tháng 6
Một
đám mây bay ở rất xa
Cất
tiếng gọi
Chúng
ta biết làm gì lúc này
Cuộc
ái ân không thể kéo dài
Cuốn
sách đã đọc hết
Đặt
giữa chúng ta một chiếc bàn không có mặt bàn
Một
đám mây bay ở rất xa
Cất
tiếng gọi
Nhưng
chỉ có một người trả lời
Với
cái miệng giàn dụa
Thức
ăn của bữa trưa
công việc của tháng Mười Một
Cuối cùng ngươi
cũng phải cất giọng, hỡi những lừa, lạc đà, những ngựa của con đường vô định
Những sư tử,
những báo gấm, những hổ của rừng mang dáng vẻ kỳ vĩ đang mục ruỗng từ bên trong
Những dê, những
chim ưng, những ong của mùa đông khan hiếm phấn hoa
Những chim non
của tổ chim xác xơ vì gió, những bướm của những cái kén thẫm tối
Những cá của
nước xiết, những côn trùng của lá mục
Và những chúng
ta của ngôn từ chết mai táng trong thân xác chuyển động
Không thể nào
còn nghe thấy lời của tháng Mười vừa mới lướt trên những cái lưỡi ướt và nóng
Tháng Mười Một
mạnh hơn tất cả bởi sự trần trụi hơn cả những bộ xương bò nấu phở
Chưa có chút
dấu vết gì của tháng Mười Hai. Đừng lục tìm trong cổ thư
Lưỡi dao sự
thật của tháng Mười Một rạch một đường dọc những cái lưỡi phản bội
lại những ngôn
từ nổ ra từ đó với một cái bóng hoang tưởng rướn chạy
Kìa những cái
cây lộng lẫy và kiêu hãnh trong gió gào rít giữa đêm
Và một kẻ đang
gắng sức tìm lối đến Thiên đường nhưng lại không ngước được mắt lên
Bởi gã bị đôi
giày mới mua ở cửa hiệu bán đồ Trung Quốc xoá mất đôi mắt
Và sự nhầm lẫn
tồi tệ khi đưa tay lần tìm tháng Mười Hai theo thứ tự của số đếm
Từ thế gian tội
lỗi và lú lẫn đến Thiên đường không phải là những bậc cầu thang ốp bằng loại đá
Tây Ban Nha gã lựa chọn
Gã không phải
là một kẻ điên. Gã làm âm bản của chúng ta. Một lần nữa
Chúng ta lại
không nhận ra một sự thật là không có cái gì gọi là tháng Mười Hai lúc này
Và những công
việc của tháng Mười Một vẫn tiếp tục cho đến khi bắt đầu một lối rẽ
bài ca trước phần mộ Diễm Châu
Người không bao
giờ lạc trong Paris
sầm uất, nhưng đã đi nhầm
Trong một khu phố
nhỏ ở Hà Nội
Dừng lại như
một kẻ vừa thức dậy sau một cái chết ngắn không rõ lý do
Và đi tiếp với
đôi môi chuyển động khó nhọc. Một cây cổ thụ nhận ra.
Ông già của
những ký ức màu Cúc Quỳ. Cậu bé của những ý tưởng vô tận.
Lá thư cuối
cùng phong bì màu vàng nhạt gửi đến một thị trấn hỏi thăm một con ruột nhút
nhát.
Chạy băng qua
khoảng đèn bị bỏ quên trong đêm xa xôi. Chợt dừng lại.
Vọng đến một
tiếng rên. Đi bộ đến đoạn đường luôn nhầm lẫn.
Diễm Châu.
Trong khoảng sáng mù những ngọn đèn đường cố hương. Diễm Châu.
Trong những dãy
ghế một thánh đường cũ luôn bị đe doạ bởi gã đàn ông trà trộn trong đám con
chiên. Diễm Châu.
Một thi sĩ.
Diễm Châu. Diễm Châu. Âm tiết mãi mãi mới lạ.
Nở ra như một
bông Bạch Đơn trong khu vườn cất giấu di sản những tiếng khóc thầm.
Chợt ngủ quên
trong thế giới những câu thơ. Máu, nước mắt, những cơn ho, sự khó thở và những
vẻ đẹp.
Diễm Châu, mãi
là cặp từ không dễ dàng phát âm trong đầu lưỡi của những kẻ độc tài.
Và trong giấc
ngủ vĩnh viễn ấy dựng lên một tấm bảng đen. Một thế gian.
Một bàn tay run
rẩy chầm chậm viết cặp từ ấy và không bao giờ xoá.
Thị xã Hà Đông,
đêm 2 tháng 1 năm 2007
những con mồi
Đêm
qua những con cá bơi quanh chiếc giường
Ngửi
chúng ta rồi bỏ đi
Và
bực dọc nói:
Chúng ta không bao giờ ăn những
con mồi
chết
Chúng
ta có chết không ?
Một
người thức giấc hỏi.
Nhưng
chẳng có câu trả lời nào.
Ngoài
bóng một bác sỹ tâm thần ghi bệnh án
In
trên bức tường phía đông
Trên
đầu chúng ta những con cá
Bơi
lùi về qúa khứ
Chúng
muốn xem lại hồ sơ những chiếc lưỡi câu
Nhưng
chỉ còn lại một nhà kho mục nát
Trong
đó một chiếc đồng hồ
Chạy
từ lúc chúng ta chưa biết đền thời gian
Giữa
bất tận những con mồi
Bầy
cá nhắm mắt
Chỉ
mở ra khi nghe lệnh
Nhưng
một con không chịu nhắm mắt
Trong
suốt cuộc săn tìm
Rời
bỏ bầy quay lại
Và
nói với một con mồi :
Ngươi đã hết thời gian chết
0h7’
Chạy kiệt sức
không ra khỏi cơn đau đầu
Tôi mơ trở về
khu vườn ở Dedham
tôi mơ chìm trong cỏ
những con bướm
tháng Tư bay rợp mặt
Luôn luôn một
hơi thở gấp phía sau
Nhưng không bao
giờ lên tiếng
Đúng giờ phút
này áp chặt vào ô kính một tấm thân trần truồng
Như ai đó dán
một tờ giấy trang trí
Một tấm rèm
bằng da người
Một ngôi sao
phía xa
mặt chiếc nhẫn
của H
Không. Đốm lửa
đầu điếu thuốc
Tôi đang hút in trên kính.
Nhận ra không phải cơn đau đầu
Ai đó đặt một cái đầu nặng hơn
Vào trong đầu tôi
Và một cái đầu khác nặng hơn nữa
Vào trong cái đầu vừa đặt
lịch sử một tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ
Người hướng dẫn: Được dệt thủ công bởi một người đàn bà mù Thổ Nhĩ Kỳ
Người mua: Mua lại từ một ông
già da đen Cuba ở Havana năm 1986
Chủ nhân: Quà tặng của con
trai tôi. Được treo trên bức tường này 21 năm.
Lúc gần sáng tiếng những cành khô gãy
Những con nai cái mùa động đực
Chủ nhân bức thảm 87 tuổi tỉnh giấc uống trà nguội
Những con nai đực ngùn ngụt
Ngôi nhà như không bao giờ mở cửa
Một bà già đi tiểu lần thứ 5, nói:
“Mẹ đau lắm”
21 năm tấm thảm không thay đổi chỗ treo
Người đàn ông 50 tuổi thường trở về và đứng
Trong ngôi nhà nửa bóng tối
Tràn ngập tấm thảm tiếng hô hoán
Và phía sau tấm thảm
Một lưỡi dao lạnh lùng đợi
Và một cái chảo sùng sục sôi
Người hướng dẫn: Những ngón tay người đàn bà mù Thổ Nhĩ Kỳ giờ bị liệt
Người mua: Ông già da đen Cuba
đã tự vẫn
Chủ nhân: Tôi chỉ nhớ gương
mặt con trai tôi khi nó mở bức thảm ra
Có một người lúc nào cũng rét
Đứng nhìn tấm thảm
Hai bàn chân bị đông cứng trong vũng máu
Ở chân tường
Người hướng dẫn: (đã bỏ nghề)
Người mua: Hình như không phải
tấm thảm tôi đã mua
Chủ nhân: Tôi nhìn thấy những
người thân đã chết chạy nấp sau những gốc cây trong tấm thảm
Bây giờ là năm thứ 22.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét