Khi
hoàng hôn xuống những đồi thông thì gió nổi lên. Tiếng gió u u không dứt cho
đến tận sáng sớm hôm sau. Đối với ông Miêng, giấc ngủ không còn quan trọng nữa.
Ông có thể thức suốt đêm hoặc ngồi trong ngôi nhà dưới chân đồi hoặc đi lang
thang trong rừng thông sẫm tối và sạch sẽ. Buồn ngủ lúc nào thì ông ngủ lúc đó.
Có ngày ông ngủ suốt buổi chiều trên lớp lá thông dày ở đỉnh đồi. Ông tin, một
ngày nào đó ông sẽ ngủ mãi mãi trên thảm lá thông này. Ý nghĩ ấy làm ông hạnh
phúc. Chính trên những quả đồi này, năm 1972, cả tiểu đội của ông chỉ còn sót
lại một người. Đó chính là ông. Sau trận đánh chiều đó, ông ngất đi vì ba vết
thương trên người. Khi ông tỉnh dậy trời đã khuya. Đêm ấy trời đầy sao. Cả vùng
đồi im phắc. Ông gượng ngồi dậy. Và trong ánh sáng mờ của sao và vầng trăng đầu
tháng, ông nhận ra đồng đội ông đang nằm như ngủ bình yên trên đỉnh đồi. Ông đã
cất tiếng gọi. Tất cả đã hi sinh. Tiếng gọi của ông đêm ấy vang trên những quả
đồi trơ trụi và vọng mãi đến bây giờ.
Sau
chiến tranh, ông về thăm quê ít ngày rồi quyết định trở lại vùng đồi này. Trở
lại vùng đồi , ông mang theo một người đàn bà trẻ. Người đàn bà đó là vợ ông.
Người đã chờ đợi ông suốt mười mấy năm cuối cùng của cuộc chiến tranh.
Ngày
ông dắt vợ đến vùng đồi người đàn bà trẻ ngơ ngác nhìn đồng đất hoang vu và hỏi:
-
Chúng mình đến đây để làm gì hở anh?
-
Để sống.
Ông
Miêng nói một câu ngắn gọn như vậy. Rồi những ngày sau đó ông dựng một ngôi nhà
nhỏ dưới chân đồi. Chính quyền địa phương không một chút đắn đo đã cho phép ông
được sống ở đó. Một năm sau ngày đến vùng đồi, ông bắt đầu trồng thông. Ông nói
với vợ:
-
Anh sẽ trồng thông kín những quả đồi này.
-
Bao giờ mới kín được? Người vợ lo lắng hỏi.
-
Anh không biết - Ông nói - Nhưng anh sẽ trồng và sẽ trồng kín.
Những
đên sáng trăng, ông thường ngồi im lặng nhìn lên đỉnh đồi. Mây lững lờ bay qua
đỉnh đồi, và ông nghe tiếng ông gọi đồng đội mình. Những đêm như thế, ông
thường đi lên đỉnh đồi và trở về nhà rất khuya. Vợ ông sợ hãi hỏi:
-
Anh lên đó làm gì?
-
Anh lên thăm bạn anh.
-
Có ma nào ở trên đó mà anh thăm. Anh làm sao thế? Em sợ lắm.
Anh
ôm chặt vợ vào lòng và rì rầm:
-
Tất cả đang ngủ trên đó.
Vợ
chồng Miêng sống trên vùng đồi như sống trên một vùng đảo hoang. Có những tuần
lễ không một bóng người đi qua. Người dân ở đó không biết làm gì ở vùng đồi sỏi
đá và còn sót lại cả mìn từ chiến tranh này. Ông Miêng trồng tất cả những thứ
gì có thể mọc được trên đất đồi này quanh ngôi nhà nhỏ và nuôi tất cả những gì
có thể sống được ở đây. Sau một năm, vùng đồi đỡ hoang vu hơn bởi những màu
xanh đầu tiên được nhen lên và bởi tiếng gà tiếng chó. Ngày đầu tiên ông Miêng
đến Công ty giống cây trồng của tỉnh xin
cây thông non để trồng. Nhân viên công ty nói giá mỗi cây thông non cho ông
biết. Và nhanh hơn máy, anh ta tính cho ông một món tiền khổng lồ mà ông Miêng
phải trả.
“Tôi
không có tiền. Tôi chỉ xin để trồng thôi”. Ông Miêng nói. Anh ta tròn mắt: “Thế
thì ông lấy lá thông mà trồng”. Nghe vậy, ông Miêng bỏ đi. Ông xin gặp lãnh đạo
tỉnh. “Tôi giúp tỉnh trồng thông kín những quả đồi đó. Tôi chỉ trồng thôi. Tôi
không lấy công, không lấy gì hết”. Lãnh đạo tỉnh nhìn ông khó hiểu. Ông nói:
“Tất cả đồng đội tôi đã hy sinh trên quả
đồi kia. Bấy giờ họ đang ngủ ở đó. Khi nào thông mọc kín những quả đồi thì tôi
sẽ trở về quê”. Lãnh đạo tỉnh ôm lấy ông. Sau đó Sở Lâm nghiệp chỉ đạo công ty cấp
cây giống cho ông. Ông Miêng bỏ hết số tiền ông có mua một chiếc xe trâu để chở
cây giống và giúp ông những việc khác. Mỗi tháng, ông đánh xe trâu đưa vợ xuống
thị xã một lần để mua sắm những thứ cần thiết cho hai vợ chồng hoặc mang bán
một ít gia cầm. Những buổi chiều bớt việc, ông thường dắt con trâu đi lang
thang quanh vùng đồi để tìm cho nó một đám cỏ ngon.
Có
lúc, con trâu dừng bước ngẩng cao đầu nhìn về dãy Trường Sơn xanh mờ. Nó bứt
dứt lắc chiếc mõ tre đeo nơi cổ. Tiếng mõ tre vang lên đơn độc và khắc khoải.
Nhiều đêm con trâu đánh sừng suốt đêm vào những gióng tre chắn cửa. Và tiếng nó
thở hắt ra như một tiếng thở dài. Những lúc ấy, ông Miêng tỉnh giấc. Ông cầm
chiếc đèn bão ra chuồng trâu. Con trâu ngước đôi mắt ươn ướt nhìn ông. Ông bước
lại bên con trâu, vuốt ve cái khoáy trắng trên trán con trâu và thì thầm: “Khi
thông phủ kín những quả đồi, tao sẽ thả mày về với rừng”.
Hai
năm sau, những cây thông được trồng đã bắt đầu rít gió. Đêm đêm, gió u u thổi
qua rừng thông non trên sườn đồi. Và trong tiếng gió thổi lúc gần sáng có tiếng
trâu khua sừng và thở gấp vừa náo nức vừa buồn bã. Những đám mây mang hình
người lơ lửng trôi qua những đỉnh đồi trong ánh trăng. Nhiều đêm như thế, vợ
ông đã khóc và đòi ông dời bỏ vùng đồi về quê.
Rồi
vợ ông mang thai, ông ôm vợ và nói: “Chúng mình sẽ có một thằng con trai. Vùng
đồi này sẽ có thêm một người và ông có thêm một người trồng thông”. Nhưng ngày
vợ ông sinh là ngày khủng khiếp nhất đời ông. Đứa bé không thành người. Nó chết
ngay sau khi được sinh ra. Ông đã bọc đứa con trong chiếc áo lính bạc trắng của
mình và đi quá nửa ngày đường xe trâu đưa đứa bé về vùng đồi. Ông chôn đứa bé
trên đỉnh đồi nơi cả tiểu đội của ông đã nằm ở đó. Những ngày sau đó thỉnh
thoảng ông để cho vợ đánh chiếc xe trâu lọc cọc về thị xã chơi với người quen
cho khuây khoả. Còn ông lại lao vào trồng thông từ người sáng đến tối. Vợ ông
xuống thị xã và đôi khi ở lại vài ba ngày. Nhiều đêm chị hoảng hốt đòi ông trở
về quê. Nhưng ông chỉ im lặng. Ông quyết liệt trồng thông phủ kín những quả đồi
và quyết liệt có con. Vợ ông mỗi ngày một ít nói và đánh xe trâu về thị xã
nhiều hơn. Cho đến một ngày, ông không thấy vợ trở về. Ông về thị xã tìm vợ. Vợ
ông để lại chiếc xe trâu ở nhà người quen cùng với lời xin ông tha thứ và vĩnh
biệt ông. Vợ ông đã không chịu nổi cuộc sống ngày dương đêm âm của vùng đồi.
Và chị quá sợ hãi phải sinh nở với ông
bởi ông chỉ có thể sinh ra những đứa trẻ không thành người. Chị đã bỏ ông, bỏ
vùng đồi đi theo một người đàn ông khác mà chị gặp trong những lần đánh xe trâu
về thị xã.
Ông
chết lặng khi nghe tin ấy. Và lần đầu tiên trong đời ông thấy mình như không
còn một chút sức lực nào nữa. Ông tựa vào con trâu và run lẩy bẩy. Ông không đi
tìm vợ. Ông cũng không có ý đánh xe trở về vùng đồi. Ra khỏi thị xã. Ông nằm
xuống thùng xe và mặc cho con trâu kéo cỗ xe đi về đâu thì đi. Ông nằm trên
đống cỏ đã héo khô trên thùng xe, người như lên cơn sốt. Mặt trời dần tắt. Bóng
tối phủ dần lên con đường. Con trâu vẫn kiên nhẫn bước đi từng bước.
Khi
con trâu lắc mõ và rống lên một tiếng dài thì ông mới tỉnh khỏi cơn sốt của đau
đớn. Ông ngồi dậy và sửng sốt nhận ra cỗ xe đã dừng trước ngôi nhà của ông dưới
chân đồi. Ngôi nhà nằm im lìm trong bóng tối. Hai con chó thấy ông về mừng rỡ
tru lên khe khẽ. Ông mệt mỏi bước xuống khỏi thùng xe. Gió đêm bắt đầu thổi.
Những lá thông rung lên. Ông lặng lẽ bước lên đỉnh đồi. Hai con chó lặng lẽ theo
sau ông. Ông đến ngồi xuống nấm mộ nhỏ của đứa con xấu số bên một gốc thông.
Ông khóc.
Đêm
đó, ông lên cơn sốt thật. Trong cơn sốt mê sảng ông thấy đồng đội mình ôm súng
nằm phủ kín quả đồi. Ông đi lang thang trên những quả đồi và gọi tên đồng đội.
Không ai trả lời ông. Tất cả đã ngủ mãi mãi trên những quả đồi kia. Ông nằm bệt
trên giường hai ngày liền. Một nhân viên trạm cây giống lên thăm ông. Thấy ông ốm, anh ta vội đi đón
một cô y tá đến chăm sóc ông. Mấy ngày sau ông khỏi và lại đánh xe đến trạm cây
giống lấy cây thông con. Ông lại trồng thông từ sáng đến tối mịt. Lúc nào đói
thì nấu ăn, lúc nào mệt thì nằm ngủ, không theo qui luật nào cả.
Cứ
khoảng một tháng, ông Miêng lại đánh xe về thị xã. Sau khi mua sắm những thứ
cần thiết cho sinh hoạt và công việc, ông ghé qua nhà quen của vợ chồng ông.
“Có
thấy cô ấy về đây không?”
Khi
gặp người quen, ông thường hỏi câu đó. Người đàn bà nhìn ông vừa ái ngại vừa
như có lỗi và lắc đầu. Và trước khi bước lên xe để trở về, ông đều nói: “Có gặp
vợ tôi thì bảo với cô ấy là tôi vẫn đợi cô ấy”.
Mỗi
lần từ thị xã trở về, ông Miêng thường ghé thăm cô y tá đã chăm sóc ông cái bận
ông ốm. Cô y tá tên là Hoa, làm việc ở một trạm xá xã gần đó. Ông thường mang
cho chị lúc thì một ít trái cây, lúc thì một hai chục trứng gà. Hai người ngồi
nói chuyện vẩn vơ về vùng đồi. Dần dần họ trở nên thân thiết. Những lúc rảnh
rỗi, Hoa đạp xe lên thăm ông. Ông Miêng dẫn chị lên đỉnh đồi để chỉ cho chị
những cây thông mới trồng.
Những
cây thông cứ từng ngày mọc lên trên những quả đồi sỏi đá. Ngày nào đến thăm
ông, chị cũng ở lại ăn cơm chiều với ông. Hai người ngồi ăn cơm bên ngọn đèn
chai trong tiếng gió thổi qua đồi thông.
Một
buổi chiều đưa Hoa lên đỉnh đồi, ông Miêng đã nói với chị: “Không có người thì
chẳng làm sao, nhưng đã có người đến đây rồi thì tôi thấy mình lẻ loi quá”.
Nghe ông Miêng nói vậy, Hoa im lặng và đi xuống chân đồi. Ông Miêng bước theo
và nói khẽ: “Ngày nào không có Hoa tôi thấy trống vắng quá”. Hoa càng bước vội
hơn. Đến ngôi nhà của ông Miêng dưới chân đồi, Hoa vội vàng lấy xe đạp và nói:
“Em phải về”. Ông Miêng vội hỏi: “Sao không ở lại ăn cơm với tôi?” Hoa không
trả lời, chị đạp xe xuống con đường đất đỏ chạy ven chân đồi.
Một
tuần sau đó, Hoa không lên đồi thăm ông Miêng. Ông nóng ruột xuống làng tìm
chị. Họ ngồi im lặng trước nhau. Hoa không nói một câu gì cho tới khi ông Miêng
đứng dậy ra về. Hoa tiễn ông ra đến đầu ngõ và bỗng nói: “Anh đừng giận em.
Chiều mai em lên”
Buổi
chiều hôm sau, Hoa lên thăm ông Miêng. Đó là một buổi chiều hạnh phúc trào lên
bất tận với ông Miêng. Ông dùng xe trâu đưa chị đi thăm xung quanh vùng đồi.
Ông nói say sưa và náo nức về vùng đồi. Hoa nghe ông và đôi mắt giàn dụa. Những
ngày sau đó, cứ khi nào rảnh rỗi công việc ở trạm xá xã, Hoa lại đến với ông
Miêng. Chị dọn dẹp nhà cửa cho ông và cuốc những vạt đất ven chân đồi trồng
chuối và rau.
Một
buổi chiều đang trồng thông non trên sườn đồi, ông Miêng giật mình nghe một
tiếng nổ dưới chân đồi. Ông nhìn xuống và kinh hoàng nhận ra Hoa nằm úp mặt
trên đất. Khói đen như trùm kín người chị. “Hoa!”. Ông Miêng rú lên và lao
xuống chân đồi. Những cây thông non mới trồng gãy gập dưới chân ông. Khi ông
chạy đến chỗ Hoa nằm thì khói đã tan hết. Chị nằm sấp trên mặt đất đồi, một bàn
tay vẫn nắm chặt chiếc cán cuốc. Một quả mìn còn lại trong chiến tranh đã cướp
đi mạng sống của chị. Ông Miêng từ từ quỵ xuống bên chị. Bỗng ông ngửa mặt lên
trời và rống lên. Bầu trời trên đầu ông trong và xanh thẳm. Khói mìn đã tan đi
trong gió. Cả vùng đồi yên tĩnh lạ thường.
Ông
Miêng bế Hoa lên “Hoa ơi là Hoa”. Ông gọi và bế Hoa về phía ngôi nhà của mình.
Ông múc nước trong chiếc lu sành rửa mặt mũi, chân tay cho chị. Rồi ông đặt chị
nằm ngay ngắn trên chiếc giường của mình. Ông mở hết cửa cho gió đồi buổi chiều
lùa ào ạt vào ngôi nhà. Ông ngồi xuống bên chị và kể lể cho chị nghe về cuộc
đời ông cho đến khi bóng tối phủ kín ngôi nhà…
Sau
ngày vợ ông bỏ đi và Hoa bị chết bởi mìn, ông Miêng bỏ rất nhiều thói quen của
cuộc sống hàng ngày. Chỉ còn một vùng đồi và những cây thông non là niềm vui
của ông. Đêm đêm ông lẩn thẩn với những công việc không đâu vào đâu. Gần sáng
ông thức giấc, ông ra hiên nhà ngồi nghe gió réo u u qua rừng thông đã lên cao.
Có một thời Sở Lâm nghiệp mời ông làm đội trưởng đội trồng rừng của tỉnh. Ông
từ chối. Ông muốn sống một mình trên vùng đồi này. Ông muốn tự tay trồng kín
thông trên những quả đồi sỏi đá và đầy mảnh bom đạn cùng với những quả mìn còn
sót lại đâu đó trong đất đồi. Đêm đêm, ông sống cùng tiếng gió từ những đồi thông.
Thỉnh thoảng ông lại nghe thấy chính tiếng ông gọi đồng đội xưa kia vọng về. Đồng
đội ông đã yên nghỉ mãi mãi trên những ngọn đồi kia. Và ông cũng mong được yên
nghỉ vĩnh viễn nơi đó. Hàng tháng ông vẫn đánh xe xuống thị xã. Và lần nào ông
cũng cho xe đi qua cửa nhà người quen của vợ ông. Ông cho trâu dừng lại. Ông
nhìn vào ngôi nhà rồi lại bỏ đi. Với vợ ông, ông không hề thù oán, ông chỉ thấy
buồn. Người đàn bà ấy đã chờ đợi ông suốt mười năm không một điều tiếng gì.
Nhưng chỉ ba năm sống với ông trên vùng đồi này, chị đã không chịu đựng nổi.
Nói đúng hơn là chị khiếp sợ. Chị khiếp sợ phải sinh cho chồng những đứa con
bất thành nhân dạng.
Bây
giờ thông đã mọc kín và cao trên những quả đồi. Tóc ông Miêng đã bạc trắng tuy
ông mới ngoài sáu mươi tuổi. Con trâu ông mua từ ngày mới đến vùng đồi, nay đã
già yếu. Đôi sừng như đè nặng hơn trên đầu làm mặt nó như chúi sát đất. Hơn một
năm nay, ông không bắt nó kéo xe. Đã có lần, nhớ đến lời hứa trước kia với con
trâu, ông đã dắt nó đến sát những cánh rừng Trường Sơn và nói với nó: “Mày hãy
trở về rừng đi”. Nói xong ông tháo thừng cho con trâu và quay về. Nhưng đêm hôm
sau, trong giấc ngủ chập chờn ông nghe có tiếng trâu thở gấp. Ông tỉnh giấc và
nghĩ mình ngủ mê. Ông nhớ con trâu nhưng ông giữ lời hứa của mình. Rồi ông lại chập chờn vào giấc ngủ. Ông nghe
thấy có ai gõ cửa. Ông ngồi dậy, lắng nghe và nhận ra có ai đó đang đẩy cửa.
Ông bước vội ra mở cửa và thấy con trâu đã trở về. Ông khẽ kêu lên và ôm lấy cổ
con trâu già. Rồi ông đốt đèn ra sau nhà hái một ôm lá sắn cho nó. Con trâu vừa
ăn vừa nhìn ông. Ông âu yếm nhìn con trâu và nói: “Mày không muốn về rừng ư?
Thôi thế thì ở lại với ta. Những quả đồi này cũng thành rừng thông rồi. Có công
của mày đấy”
Những
ngày sau đó, chiều chiều ông dắt con trâu đi lang thang trên những đồi thông.
Và những lúc ấy, ông nhớ đến đồng đội, nhớ đến đứa con đã chết của mình, nhớ
đến người vợ đã bỏ ông đi không có tin tức gì và nhớ đến cái chết tức tưởi của
Hoa trong một buổi chiều yên bình. Nỗi nhớ bây giờ của ông không còn mang nỗi
đau tê tái nữa, mà chỉ như gió thổi qua những đồi thông vào những đêm gần sáng
vừa da diết, bồn chồn, vừa xa xăm, thôi thúc.
Một
chiều muộn, ông dắt con trâu già từ rừng thông trở về nhà, có một chàng trai đã
đứng ở sân nhà đợi ông. Ông lặng lẽ bước đến trước chàng trai.
-
Cháu chào bác ạ - Chàng trai nói khẽ.
-
Cậu tìm ai? - Ông hỏi.
-
Cháu tìm bác Miêng.
-
Tôi đây - Ông nói - Tôi là Miêng.
Mặt
chàng trai chợt biến động lạ lùng. Ông nhận thấy đôi môi chàng trai run lên.
-
Cậu tìm tôi có việc gì?
Chàng
trai không trả lời. Nước mắt chàng trai trào ra. Bỗng chàng trai nức nở.
-
Có chuyện gì vậy? Sao câu lại khóc? Chàng trai cứ đứng trên sân khóc một hồi
lâu. Rồi lấy tay lau nước mắt, anh bước một bước về phía ông và nói, giọng như
lạc đi:
“Ba, ba Miêng. Con là con của ba”. “Con tôi - ông Miêng
khẽ kêu lên - cậu nhầm rồi”. “Ba hãy tha thứ cho má con”. “Má cậu? Má cậu là
ai?”. “Má con là Lợi. Má nói con đi tìm ba”. Mọi cảnh vật trước mắt ông Miêng
nhoà đi. Tim ông nhói lên như một mũi kim đâm vào. Hai chân ông run lên. “Cậu
là con tôi à?”. Ông Miêng nói như bằng hơi thở của người ốm nặng. “Con là con
của ba. Má nói con đến đây tìm ba và nói ba hãy tha thứ cho má”. “Má cậu đâu?”.
Chàng trai khóc và nói: “Má mất rồi, ba ơi!” Ông Miêng cúi đầu im lặng. Một lát
sau ông đến bên chàng trai, đặt bàn tay chai sạn, đen đúa lên vai chàng trai và
nói: “Vào nhà đi”. Chàng trai mở túi lấy một bọc vải nhỏ và mở ra. Trong đó là
một chiếc nhẫn. Ông Miêng nhận ra chiếc nhẫn đó. Chàng trai lấy chiếc nhẫn đưa
cho ông Miêng. “Trước khi mất, má đưa chiếc nhẫn cho con và nói con phải đi tìm
ba. Đến lúc đó, con mới biết ba con là ai và ở đâu”. “Má cậu nói gì nữa
không?”. “Má nói, má đã phản bội ba, không phải vì má không yêu ba mà là má quá
sợ”. “Má cậu sợ cái gì?”. Ông Miêng hỏi: “Con cũng hỏi má vậy, nhưng má không
bao giờ nói cho con hay”. “Lâu nay má con cậu sống ở đâu?”. “Dạ, ở Nha Trang”,
chàng trai đáp giọng đầy nước mắt. “Má con cậu sống với ai?”. “Chỉ hai má con
thôi”, chàng trai nói, “Từ lúc sinh ra con chỉ biết có má”.
Nói xong, chàng trai nhìn ông Miêng vừa sợ vừa chờ đợi.
Hai người ngồi im lặng. Mặt ông Miêng bất động. “Trước khi má mất” - chàng trai
nói - Má bắt con hứa là phải tìm được ba. Má nói con thay má tạ lỗi ba và mong
ba tha lỗi cho má để má được thanh thản nơi chín suối. Má nói con phải đến đây
và sống với ba hết đời. Ba sẽ che chở cho con”.
Ông Miêng nhìn gương mặt non nớt, trong sáng và tội
nghiệp của chàng trai. Lòng ông nhói đau. Ông biết chàng trai không phải con
ông. Vì ông không bao giờ sinh được một đứa con lành lặn. Ông cũng chợt hiểu
người đàn ông đã lừa dụ vợ ông và cũng đã ruồng bỏ người đàn bà ấy cùng hòn máu
của mình. “Ba sẽ che chở cho con”. Giọng nói nức nở và như một lời cầu nguyện
của chàng trai vang trong lòng ông. Và hơn thế, người đàn bà, vợ ông, đã quá
yêu thương đứa con mình và cầu ông che chở cho một con người. Thấy ông ngồi bất
động, chàng trai lại khóc và nói: “Ba ơi, má mất rồi…”. “Ba ơi!”, ông lẩm bẩm
như người ngủ mê, nhắc lại tiếng gọi của chàng trai. “Ba hãy thứ lỗi cho má”.
Giọng chàng trai đã khản. “Ba cho con về ở với ba. Ba đừng bỏ con”. Ông Miêng
nhìn chàng trai. Nếu lúc này ông nói ra sự thật với chàng trai thì có nghĩa ông
đập tan mọi hy vọng và sự chờ đợi của nó. Và nghĩa là, ông không chấp nhận lời
cầu xin của một người đàn bà tội nghiệp trong cơn hấp hối. Và cũng chính lúc
này, sự xuất hiện của chàng trai lại làm ông thấy cô đơn hơn bao giờ hết. Nếu
bây giờ chàng trai bỏ đi, ông sẽ gục ngã không thế đứng lên được bởi chính sự
cô đơn mà bấy lâu nay ông cố vùng vẫy chống chọi. Khi chỉ có một mình, ông
không nhìn thấy hết sự cô đơn. Nhưng khi có một con người khác đứng trước mặt
ông, ông mới nhìn thấy toàn bộ sự cô đơn khổng lồ của mình. Lúc này nhìn ông
như một người cổ xưa, không tuổi tác và lặng phắc như đá. Bỗng từ trên những
đỉnh đồi gió ào ạt đổ về. Ngọn gió lớn cuồn cuộn thổi qua chân đồi .Trong tiếng
gió vọng lên những tiếng thì thầm bất tận. Ông Miêng chống gối đứng dậy. Ông
bước đến trước chàng trai .Chàng trai đỡ lấy ông. Ông thấy hơi người ấm rực từ
chàng trai phả vào cơ thể ông đang run lên như một cơn sốt rét. Ông quờ tay ôm
lấy chàng trai và kêu lên như một tiếng rên.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét