Năm tôi học lớp 5 thì khoa Lý - đại học Sư phạm Hà Nội sơ
tán về làng. Nhà tôi rộng nên nhận một số chị sinh viên về ở. Trong đó có chị
Ty. Chị ở nhà tôi gần một năm. Chỉ chừng đó thời gian thôi, mà với tôi hình
bóng chị không bao giờ phai nhạt dù chỉ là một nét.
Một buổi chiều mưa bão. Gia đình tôi đang chuẩn bị bữa
chiều thì cha chị đưa chị đến nhà tôi. Chị Ty từ Thái Bình lên nhập học năm thứ
nhất. Cho đến bây giờ, gần ba mươi năm rồi, tôi vẫn như đang nhìn thấy chị bước
vào sân nhà tôi. Chị đội một chiếc nón cũ và mặc bộ quần áo tối màu. Chị xách
một chiếc hòm gỗ nhỏ. Tôi hình dung hòm đó nhỏ như cái hòm của những ông thợ
cắt tóc. Mẹ tôi vội đón khách.
Chiều hôm ấy cha con chị ăn cơm với gia đình tôi. Bữa cơm
của một vùng quê nghèo ba mươi năm về trước bây giờ thật khó có thể tưởng tượng
nổi. Cơm độn khoai lang khô. Thức ăn hôm đó của gia đình tôi có một bát cà và
một đĩa măng tre luộc chấm tương. Vào những ngày mưa bão, tôi thường đi nhặt
măng gãy rồi bóc bẹ, ngâm trong nước gạo cho bớt đắng. Măng luộc ngăm ngăm đắng
chấm với tương hoặc muối vừng. Chị Ty ngồi ăn lặng lẽ. Chị ăn rất ít.
Gia đình tôi ăn cơm xong thì trời ụp tối. Bão vẫn gào
thét. Mưa càng nặng hạt. Tiếng côn trùng và ếch nhái kêu buồn bã. Chị Ty giành
bát đũa đi rửa.
Đêm đó, trong ánh sáng đèn dầu, mẹ tôi ngồi nói chuyện
với cha con chị Ty. Tôi ngồi trong bóng tối ở góc giường im lặng. Lúc này tôi
mới dám nhìn vào mặt chị. Gương mặt chị Ty rám nắng. Mái tóc dày chưa khô vì
gội muộn như quá nặng đối với khuôn mặt nhỏ nhắn của chị. Tôi cảm thấy gần gũi
chị vô cùng. Chị ngước đôi mắt to đen thẫm nhìn mẹ tôi vừa lắng nghe mẹ tôi chị
vừa quạt cho tóc khô.
Sáng hôm sau tôi dậy sớm. Đó là một ngày dậy sớm của đời
tôi. Lúc đó chị Ty đang quét mảnh sân đầy lá tre rụng bởi cơn bão hôm qua. Thấy
tôi, chị cười. “Em dậy sớm thế, giỏi quá nhỉ”. Tôi ngượng ngùng. Chị bước đến
trước tôi hỏi: “Em tên gì?” Tôi lí nhí: “Thiều ạ”. Chị lại nhoẻn cười, hàm răng
đều và trắng như hạt ngô nếp non vừa độ cứng sữa : “Tên Thiều thì ngọt ngào
lắm, vải thiều mà”. Chưa ai nói với tôi như thế bao giờ, tôi đỏ mặt, bỏ đi ra
ngõ.
Một tuần sau thì chị không còn lạ lẫm gì với tôi nữa.
Ngày ngày, tôi hay vẩn vơ ở ngoài ngõ chờ chị đi học về và lúc nào tôi cũng để
chị nắm bàn tay nhỏ lem luốc của tôi dẫn về nhà. Những ngón tay chị mềm như
nước, và ấm như hơi lửa. Đến bây giờ, tôi vẫn tự hỏi: “Tại sao trên đời lại có
người có bàn tay mềm như thế và ấm như thế?”
Bước vào lớp 5 thời đó, học sinh phải soạn văn. Tôi không
biết phải soạn bài văn như thế nào cả. Và chị Ty là người tối tối lại dạy và
giúp tôi soạn văn. Chị nói cho tôi biết,
soạn một bài văn phải có ba phần : Đại ý, thân bài và kết luận. Thế nhưng tối nào cũng vậy, nghe chị giảng xong thì tôi
lại quên tất cả. Tôi luôn luôn lẫn lộn đại ý bài văn thành kết luận hoặc ngược
lại. Sau này, tôi không hiểu tại sao có một cậu học trò dốt văn ở cấp 2 như tôi
lại có thể trở thành nhà văn được. Hay là sự thường xuyên nhầm lẫn giữa đại ý
và kết bài lại là phẩm chất của một nhà văn?.
Cuối học kỳ một năm lớp 5, tôi bị ốm.Tôi chẳng ăn được gì
mà chỉ thèm quả dâu da đất. Chị Ty mượn xe của người bạn và đạp lên tận Miếu
Môn mua được mấy chùm dâu da đất cho
tôi. Chị trở về từ Miếu Môn, người đẫm mồ hôi. Vừa về đến cửa, chị vội gọi: “Thiều
ơi, chị mua được dâu da đất cho em rồi đây”. Tôi lom khom ngồi dậy, với lấy
những quả dâu da đất ăn lấy ăn để. Chị Ty vừa quạt cho tôi vừa nói: “Em ăn từ
từ thôi kẻo nghẹn”. Ăn hết mấy chùm dâu da đất thì tôi khỏi ốm.
Một tối thứ bảy, tôi nghe bố mẹ tôi bàn chuyện lấy vợ cho
anh tôi. Bố tôi đưa ra mấy cô gái trong làng nhưng mẹ tôi đều gạt đi. Mẹ tôi
nói: “Cưới mấy cô này về thì không biết tôi làm mẹ chồng hay họ làm mẹ chồng
đây?”. Bố tôi hỏi: “Thế thì bà chọn ai?”. Mẹ tôi nói: “Con Ty. Tôi chỉ chấp
nhận con Ty thôi”. Bố tôi như nhớ ra: “Ừ nhỉ”.
Sáng sau, bố mẹ tôi nói chuyện với chị Ty về chuyện đó.
Chị Ty cười và nói: “Anh ấy mà nhìn cháu thì anh ấy bỏ chạy ngay”. Bố tôi hào
hứng: “Bác sẽ điện cho nó về để hai đứa gặp nhau”. Nghe vậy chị Ty chỉ cười.
Và một tuần sau anh tôi về thật. Sau một tuần nghỉ phép
anh tôi lẳng lặng ra đi. Tôi không biết anh tôi và chị Ty nói chuyện gì với
nhau. Nhưng mẹ tôi buồn lắm, chị Ty thì chẳng có gì thay đổi. Một hôm chị hỏi
tôi: “Em có thích chị trở thành chị dâu của em không?”. Tôi nói: “Em không
biết”, và bỏ đi.
Chị Ty ra tận bờ đê để tìm tôi. Chị nắm tay tôi. Chị
không dắt tôi về nhà như mọi bận. Chị dắt tôi lên mặt đê và kéo tôi ngồi xuống.
Hai chị em tôi ngồi im lặng rất lâu trên mặt đê.
Rồi chị nói: “Chị không cướp mất anh của em đâu mà sợ.
Chị chưa biết tình yêu là gì. Nhưng tình yêu không phải thế. Sau này lớn em sẽ
hiểu. Lẽ ra chị không nên nói chuyện này với em”. Nói xong, chị chạy ào xuống
chân đê. Chị lấy lá dứa dại cuốn thành hai chiếc kèn. Chị đưa cho tôi một chiếc
và nói: “Hai chị em mình thổi thi, xem ai dài hơi hơn”. Rồi chị đưa chiếc kèn
lá dứa lên miệng thổi. Tiếng kèn kêu u u dài bất tận. Tôi cũng đưa chiếc kèn
lên thổi. Hai tiếng kèn lá dứa hoà vào nhau u u, đổ trầm trầm từ mặt đê xuống
triền bãi.
Đến hết năm học thứ nhất, chị Ty chuyển về Hà Nội. Đó là
lúc Mỹ tạm ngừng ném bom miền Bắc. Đêm chị rời làng tôi ra đi là một đêm trăng.
Mấy chiếc xe tải đậu trên mặt đê để chở sinh viên. Tôi cùng mẹ tôi ra tiễn chị.
Đó là đêm mùa hạ đầy gió. Chị ôm chặt tôi vào lòng. Hai chị em tôi cùng khóc.
Hơi thở chị phả nóng mặt tôi. Và mái tóc của chị như phủ kín người tôi. Hương
lá gội tóc của chị toả nóng ấm tôi. Tôi ôm chặt chị. Đó là một đêm đầy gió. Và
tôi nghe tiếng kèn lá dứa u u dội về.
Tôi đâu có biết rằng, đêm chia tay ấy là đêm đầu tiên và
cũng là đêm cuối cùng tôi thực sự có chị. Một năm sau tôi nghe tin chị mất vì
tai nạn ô tô. Mẹ tôi khóc thương chị. Nghe tin đó, tôi đi ra đê. Tôi không
khóc. Tôi lấy lá dứa làm hai chiếc kèn. Tôi ngồi xuống mặt đê. Tôi để một chiếc
kèn trên cỏ bên cạnh tôi. Còn một chiếc tôi đưa lên miệng thổi. Tiếng kèn lá
dứa dại u trầm đổ xuống triền bãi của một ngày cuối Giêng Hai vẫn còn đầy mưa
bụi. Tôi khóc chị Ty.
Sau khi tốt nghiệp phổ thông, tôi về Hà Nội học tiếp.
Ngày nhập trường, tôi kinh hoàng nhận ra một người giống chị Ty đến từng nét
học cùng lớp tôi. Và suốt những ngày sau đó, tôi mê man với câu hỏi tại sao
trên đời lại có người giống nhau đến thế. Một thời gian sau, một điều khác của
cô bạn cùng lớp ấy làm tôi sợ hãi. Tên khai sinh của cô cũng là Ty, sau này lớn
lên cô đã tự thay đổi tên mình là Tuyết. Và tôi đã theo cô bạn cùng lớp như một
người bị ma chài.
Một buổi trưa, trong lớp học chỉ có tôi và Tuyết. Tuyết
đã đến trước tôi. Cô nhìn tôi và hỏi: “Bạn yêu tôi phải không?”. Tôi đứng như
trời trồng, người run lên. Bỗng Tuyết ôm lấy tôi và hôn tôi. Tôi bỗng yếu đuối
như sắp quỵ ngã. Tôi nghe thấy từ phía cánh đồng sau trường vọng về tiếng kèn
lá dứa. Tôi vừa hạnh phúc, vừa sợ hãi.
Một lần tôi hỏi Tuyết:
“Sao không để tên như ngày xưa?”
“Anh thích cái tên ấy à? Tuyết đã gọi tôi bằng anh - Tên
với tuổi. Có lần Tuyết đã khóc cả buổi chiều vì cái tên ấy đấy”.
Tôi nhìn Tuyết. Mặt Tuyết rực hồng, sung sướng. Tôi khẽ
thở dài.
Mùa hè năm thứ nhất của đời sinh viên tôi đưa Tuyết về
quê chơi. Mặc dù được tôi nói trước. Mẹ tôi vẫn bàng hoàng khi gặp Tuyết. Bà
khẽ kêu lên “Ty”. Nghe mẹ tôi gọi vậy Tuyết sững người. Mặt cô nặng xuống. Buổi
chiều tôi đưa Tuyết ra đê Tuyết nhìn tôi và hỏi:
“Sao anh lại nói cho mẹ anh biết cái tên khỉ gió đó của
em?”
“Anh có nói gì đâu?” Tôi lúng túng. Đúng là tôi không nói
cho mẹ tôi biết cái tên khai sinh của Tuyết.
“Không nói - Tuyết gằn giọng - không nói sao người ta lại
biết. Anh đừng có đùa cợt em”.
Tôi thấy buồn vô hạn. Tôi đi xuống chân đê lấy những tàu
dứa dại làm hai cái kèn. Tôi đưa cho Tuyết một cái và thì thào: “Thổi đi, xem
ai thổi dài hơi”. Tuyết hờ hững cầm lấy một chiếc kèn lá dứa và nhìn tôi khó
hiểu. Tôi nhìn Tuyết và đợi chờ cái khoảng khắc Tuyết đưa chiếc kèn lá dứa lên.
Và tiếng kèn lá dứa sẽ vang lên u trầm đổ xuống triền sông. Nhưng Tuyết đã vung
tay ném chiếc kèn lá dứa xuống phía chân đê.
“Anh bỏ cái trò trẻ con này đi”.
Nói xong Tuyết bỏ đi.
Và sau khi trở lại trường chúng tôi đã lặng lẽ chia tay
nhau.
* *
*
Bây giờ, thi thoảng đưa các con về quê, tôi vẫn dẫn các
con tôi ra đê và làm những chiếc kèn lá dứa cho chúng. Và lần nào cũng vậy, tôi
đều làm thêm hai chiếc kèn. Một chiếc cho chị Ty và một chiếc cho tôi. Khi
hoàng hôn phủ kín con đê. Tôi lặng lẽ đến nơi tôi và chị đã ngồi gần ba mươi
năm về trước. Tôi lặng lẽ đặt hai chiếc kèn lên cỏ và quay về. Và hình như
những đêm như vậy là những đêm đầy gió. Gió thổi suốt từ đêm tới sáng. Tôi cứ tin
rằng, trong những đêm như thế chị Ty lại trở về. Chị cầm chiếc kèn tôi để trên
cỏ và thổi suốt đêm cho tới khi gió hong khô mái tóc dày và nặng của chị.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét