Thứ Bảy, 16 tháng 12, 2017

Truyện Ngắn : NGƯỜI THỔI KÈN LÁ DỨA - NGUYỄN QUANG THIỀU

Người thổi kèn lá dứa

Năm tôi học lớp 5 thì khoa Lý - đại học Sư phạm Hà Nội sơ tán về làng. Nhà tôi rộng nên nhận một số chị sinh viên về ở. Trong đó có chị Ty. Chị ở nhà tôi gần một năm. Chỉ chừng đó thời gian thôi, mà với tôi hình bóng chị không bao giờ phai nhạt dù chỉ là một nét.
Một buổi chiều mưa bão. Gia đình tôi đang chuẩn bị bữa chiều thì cha chị đưa chị đến nhà tôi. Chị Ty từ Thái Bình lên nhập học năm thứ nhất. Cho đến bây giờ, gần ba mươi năm rồi, tôi vẫn như đang nhìn thấy chị bước vào sân nhà tôi. Chị đội một chiếc nón cũ và mặc bộ quần áo tối màu. Chị xách một chiếc hòm gỗ nhỏ. Tôi hình dung hòm đó nhỏ như cái hòm của những ông thợ cắt tóc. Mẹ tôi vội đón khách.
Chiều hôm ấy cha con chị ăn cơm với gia đình tôi. Bữa cơm của một vùng quê nghèo ba mươi năm về trước bây giờ thật khó có thể tưởng tượng nổi. Cơm độn khoai lang khô. Thức ăn hôm đó của gia đình tôi có một bát cà và một đĩa măng tre luộc chấm tương. Vào những ngày mưa bão, tôi thường đi nhặt măng gãy rồi bóc bẹ, ngâm trong nước gạo cho bớt đắng. Măng luộc ngăm ngăm đắng chấm với tương hoặc muối vừng. Chị Ty ngồi ăn lặng lẽ. Chị ăn rất ít.
Gia đình tôi ăn cơm xong thì trời ụp tối. Bão vẫn gào thét. Mưa càng nặng hạt. Tiếng côn trùng và ếch nhái kêu buồn bã. Chị Ty giành bát đũa đi rửa.
Đêm đó, trong ánh sáng đèn dầu, mẹ tôi ngồi nói chuyện với cha con chị Ty. Tôi ngồi trong bóng tối ở góc giường im lặng. Lúc này tôi mới dám nhìn vào mặt chị. Gương mặt chị Ty rám nắng. Mái tóc dày chưa khô vì gội muộn như quá nặng đối với khuôn mặt nhỏ nhắn của chị. Tôi cảm thấy gần gũi chị vô cùng. Chị ngước đôi mắt to đen thẫm nhìn mẹ tôi vừa lắng nghe mẹ tôi chị vừa quạt cho tóc khô.
Sáng hôm sau tôi dậy sớm. Đó là một ngày dậy sớm của đời tôi. Lúc đó chị Ty đang quét mảnh sân đầy lá tre rụng bởi cơn bão hôm qua. Thấy tôi, chị cười. “Em dậy sớm thế, giỏi quá nhỉ”. Tôi ngượng ngùng. Chị bước đến trước tôi hỏi: “Em tên gì?” Tôi lí nhí: “Thiều ạ”. Chị lại nhoẻn cười, hàm răng đều và trắng như hạt ngô nếp non vừa độ cứng sữa : “Tên Thiều thì ngọt ngào lắm, vải thiều mà”. Chưa ai nói với tôi như thế bao giờ, tôi đỏ mặt, bỏ đi ra ngõ.
Một tuần sau thì chị không còn lạ lẫm gì với tôi nữa. Ngày ngày, tôi hay vẩn vơ ở ngoài ngõ chờ chị đi học về và lúc nào tôi cũng để chị nắm bàn tay nhỏ lem luốc của tôi dẫn về nhà. Những ngón tay chị mềm như nước, và ấm như hơi lửa. Đến bây giờ, tôi vẫn tự hỏi: “Tại sao trên đời lại có người có bàn tay mềm như thế và ấm như thế?”
Bước vào lớp 5 thời đó, học sinh phải soạn văn. Tôi không biết phải soạn bài văn như thế nào cả. Và chị Ty là người tối tối lại dạy và giúp tôi soạn văn. Chị  nói cho tôi biết, soạn một bài văn phải có ba phần : Đại ý, thân bài và kết luận. Thế nhưng  tối nào cũng vậy, nghe chị giảng xong thì tôi lại quên tất cả. Tôi luôn luôn lẫn lộn đại ý bài văn thành kết luận hoặc ngược lại. Sau này, tôi không hiểu tại sao có một cậu học trò dốt văn ở cấp 2 như tôi lại có thể trở thành nhà văn được. Hay là sự thường xuyên nhầm lẫn giữa đại ý và kết bài lại là phẩm chất của một nhà văn?.
Cuối học kỳ một năm lớp 5, tôi bị ốm.Tôi chẳng ăn được gì mà chỉ thèm quả dâu da đất. Chị Ty mượn xe của người bạn và đạp lên tận Miếu Môn mua được mấy chùm dâu da đất  cho tôi. Chị trở về từ Miếu Môn, người đẫm mồ hôi. Vừa về đến cửa, chị vội gọi: “Thiều ơi, chị mua được dâu da đất cho em rồi đây”. Tôi lom khom ngồi dậy, với lấy những quả dâu da đất ăn lấy ăn để. Chị Ty vừa quạt cho tôi vừa nói: “Em ăn từ từ thôi kẻo nghẹn”. Ăn hết mấy chùm dâu da đất thì tôi khỏi ốm.
Một tối thứ bảy, tôi nghe bố mẹ tôi bàn chuyện lấy vợ cho anh tôi. Bố tôi đưa ra mấy cô gái trong làng nhưng mẹ tôi đều gạt đi. Mẹ tôi nói: “Cưới mấy cô này về thì không biết tôi làm mẹ chồng hay họ làm mẹ chồng đây?”. Bố tôi hỏi: “Thế thì bà chọn ai?”. Mẹ tôi nói: “Con Ty. Tôi chỉ chấp nhận con Ty thôi”. Bố tôi như nhớ ra: “Ừ nhỉ”.
Sáng sau, bố mẹ tôi nói chuyện với chị Ty về chuyện đó. Chị Ty cười và nói: “Anh ấy mà nhìn cháu thì anh ấy bỏ chạy ngay”. Bố tôi hào hứng: “Bác sẽ điện cho nó về để hai đứa gặp nhau”. Nghe vậy chị Ty chỉ cười.
Và một tuần sau anh tôi về thật. Sau một tuần nghỉ phép anh tôi lẳng lặng ra đi. Tôi không biết anh tôi và chị Ty nói chuyện gì với nhau. Nhưng mẹ tôi buồn lắm, chị Ty thì chẳng có gì thay đổi. Một hôm chị hỏi tôi: “Em có thích chị trở thành chị dâu của em không?”. Tôi nói: “Em không biết”, và bỏ đi.
Chị Ty ra tận bờ đê để tìm tôi. Chị nắm tay tôi. Chị không dắt tôi về nhà như mọi bận. Chị dắt tôi lên mặt đê và kéo tôi ngồi xuống. Hai chị em tôi ngồi im lặng rất lâu trên mặt đê.
Rồi chị nói: “Chị không cướp mất anh của em đâu mà sợ. Chị chưa biết tình yêu là gì. Nhưng tình yêu không phải thế. Sau này lớn em sẽ hiểu. Lẽ ra chị không nên nói chuyện này với em”. Nói xong, chị chạy ào xuống chân đê. Chị lấy lá dứa dại cuốn thành hai chiếc kèn. Chị đưa cho tôi một chiếc và nói: “Hai chị em mình thổi thi, xem ai dài hơi hơn”. Rồi chị đưa chiếc kèn lá dứa lên miệng thổi. Tiếng kèn kêu u u dài bất tận. Tôi cũng đưa chiếc kèn lên thổi. Hai tiếng kèn lá dứa hoà vào nhau u u, đổ trầm trầm từ mặt đê xuống triền bãi.
Đến hết năm học thứ nhất, chị Ty chuyển về Hà Nội. Đó là lúc Mỹ tạm ngừng ném bom miền Bắc. Đêm chị rời làng tôi ra đi là một đêm trăng. Mấy chiếc xe tải đậu trên mặt đê để chở sinh viên. Tôi cùng mẹ tôi ra tiễn chị. Đó là đêm mùa hạ đầy gió. Chị ôm chặt tôi vào lòng. Hai chị em tôi cùng khóc. Hơi thở chị phả nóng mặt tôi. Và mái tóc của chị như phủ kín người tôi. Hương lá gội tóc của chị toả nóng ấm tôi. Tôi ôm chặt chị. Đó là một đêm đầy gió. Và tôi nghe tiếng kèn lá dứa u u dội về.
Tôi đâu có biết rằng, đêm chia tay ấy là đêm đầu tiên và cũng là đêm cuối cùng tôi thực sự có chị. Một năm sau tôi nghe tin chị mất vì tai nạn ô tô. Mẹ tôi khóc thương chị. Nghe tin đó, tôi đi ra đê. Tôi không khóc. Tôi lấy lá dứa làm hai chiếc kèn. Tôi ngồi xuống mặt đê. Tôi để một chiếc kèn trên cỏ bên cạnh tôi. Còn một chiếc tôi đưa lên miệng thổi. Tiếng kèn lá dứa dại u trầm đổ xuống triền bãi của một ngày cuối Giêng Hai vẫn còn đầy mưa bụi. Tôi khóc chị Ty.
Sau khi tốt nghiệp phổ thông, tôi về Hà Nội học tiếp. Ngày nhập trường, tôi kinh hoàng nhận ra một người giống chị Ty đến từng nét học cùng lớp tôi. Và suốt những ngày sau đó, tôi mê man với câu hỏi tại sao trên đời lại có người giống nhau đến thế. Một thời gian sau, một điều khác của cô bạn cùng lớp ấy làm tôi sợ hãi. Tên khai sinh của cô cũng là Ty, sau này lớn lên cô đã tự thay đổi tên mình là Tuyết. Và tôi đã theo cô bạn cùng lớp như một người bị ma chài.
Một buổi trưa, trong lớp học chỉ có tôi và Tuyết. Tuyết đã đến trước tôi. Cô nhìn tôi và hỏi: “Bạn yêu tôi phải không?”. Tôi đứng như trời trồng, người run lên. Bỗng Tuyết ôm lấy tôi và hôn tôi. Tôi bỗng yếu đuối như sắp quỵ ngã. Tôi nghe thấy từ phía cánh đồng sau trường vọng về tiếng kèn lá dứa. Tôi vừa hạnh phúc, vừa sợ hãi.
Một lần tôi hỏi Tuyết:
“Sao không để tên như ngày xưa?”
“Anh thích cái tên ấy à? Tuyết đã gọi tôi bằng anh - Tên với tuổi. Có lần Tuyết đã khóc cả buổi chiều vì cái tên ấy đấy”.
Tôi nhìn Tuyết. Mặt Tuyết rực hồng, sung sướng. Tôi khẽ thở dài.
Mùa hè năm thứ nhất của đời sinh viên tôi đưa Tuyết về quê chơi. Mặc dù được tôi nói trước. Mẹ tôi vẫn bàng hoàng khi gặp Tuyết. Bà khẽ kêu lên “Ty”. Nghe mẹ tôi gọi vậy Tuyết sững người. Mặt cô nặng xuống. Buổi chiều tôi đưa Tuyết ra đê Tuyết nhìn tôi và hỏi:
“Sao anh lại nói cho mẹ anh biết cái tên khỉ gió đó của em?”
“Anh có nói gì đâu?” Tôi lúng túng. Đúng là tôi không nói cho mẹ tôi biết cái tên khai sinh của Tuyết.
“Không nói - Tuyết gằn giọng - không nói sao người ta lại biết. Anh đừng có đùa cợt em”.
Tôi thấy buồn vô hạn. Tôi đi xuống chân đê lấy những tàu dứa dại làm hai cái kèn. Tôi đưa cho Tuyết một cái và thì thào: “Thổi đi, xem ai thổi dài hơi”. Tuyết hờ hững cầm lấy một chiếc kèn lá dứa và nhìn tôi khó hiểu. Tôi nhìn Tuyết và đợi chờ cái khoảng khắc Tuyết đưa chiếc kèn lá dứa lên. Và tiếng kèn lá dứa sẽ vang lên u trầm đổ xuống triền sông. Nhưng Tuyết đã vung tay ném chiếc kèn lá dứa xuống phía chân đê.
“Anh bỏ cái trò trẻ con này đi”.
Nói xong Tuyết bỏ đi.
Và sau khi trở lại trường chúng tôi đã lặng lẽ chia tay nhau.
* * *
Bây giờ, thi thoảng đưa các con về quê, tôi vẫn dẫn các con tôi ra đê và làm những chiếc kèn lá dứa cho chúng. Và lần nào cũng vậy, tôi đều làm thêm hai chiếc kèn. Một chiếc cho chị Ty và một chiếc cho tôi. Khi hoàng hôn phủ kín con đê. Tôi lặng lẽ đến nơi tôi và chị đã ngồi gần ba mươi năm về trước. Tôi lặng lẽ đặt hai chiếc kèn lên cỏ và quay về. Và hình như những đêm như vậy là những đêm đầy gió. Gió thổi suốt từ đêm tới sáng. Tôi cứ tin rằng, trong những đêm như thế chị Ty lại trở về. Chị cầm chiếc kèn tôi để trên cỏ và thổi suốt đêm cho tới khi gió hong khô mái tóc dày và nặng của chị.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

BÀI MỚI ĐẮNG

Truyện ngắn: BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN _ NGUYỄN HẢI ĐĂNG

Bên cánh gà chánh điện phần 1 BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN Xe dừng lại với tiếng xột xoạt trên mặt đường, như bao chuyến xe đã ghé qua từ thuở ...