Khoảng dăm năm trở lại
đây, sức khoẻ của ông Cầm hình như xuống đến mức cuối cùng. Mỗi năm, khi mùa
đông đến, ông ít nói hơn, cứ vào đợt gió lạnh đầu tiên thổi qua làng, là ngay
đêm ấy ông lại đốt một đống củi nhỏ trong bếp. Ông trải chiếc chiếu nhỏ trước
ngọn lửa ngồi uống rượu. Ông uống cả đêm cũng không hết cái bình rượu bé như củ
khoai lang. Ông vừa uống rượu, vừa mỉm cười một mình và đôi mắt già nua ngây
ngất trước ngọn lửa.
“Năm nay là ông qui tiên
đấy” - Ông nói thì thào với mấy đứa cháu gái ngồi quanh ông. Câu nói của ông về
cái chết mà nghe vừa xúc động, thiêng liêng lại vừa náo nức lạ thường.
Nhưng rồi mùa đông khắc
nghiệt lại qua đi. Ông Cầm vẫn còn lại trên cuộc đời này vừa khô héo lại vừa
đầy sức sống như một cụm cỏ may ven chân đê.
Hằng năm, cứ vào ngày
hai mươi chín tháng Chạp, ông lại mặc bộ quần áo lính đã cũ đi ra bến đò làng.
Đó là ngày chợ Tía họp phiên Tết. Ông luôn luôn ra bến sớm để đón chuyến đò đầu
tiên chở người bên kia sông đi chợ Tết. Ông cứ đứng trong gió lạnh trên bờ,
lặng lẽ nhìn những người gồng gánh đi chợ. Cho đến khi bên kia sông không còn
bóng người chở đò ông mới quay về.
Nửa thế kỷ trước, ông
còn là một chàng trai. Một buổi sớm ông ra bến đò để sang sông có việc. Ông đã
gặp một cô gái làng Lai Tảo bên sông. Đó là ngày chợ Tía họp phiên Tết. Màu
vàng thẫm của gánh bưởi cô gái mang đến chợ bán đã làm ông chú ý đến cô. Khi
mũi đò chạm vào bờ cát, ông nhận rõ cô gái bán bưởi đẹp quá. Chỉ trong khoảnh
khắc, gương mặt và cái ngước mắt của cô gái đã làm ông choáng váng. Trong lúc
ông đang như người bước hụt thì nghe tiếng ông lái đò gọi “Này cậu Cầm, đỡ giúp
người ta gánh bưởi xuống bến”. Ông giật mình và lấp tấp bước lại mũi đò đỡ gánh
cho cô gái. Sau khi lồng đòn gánh vào hai thúng bưởi, cô gái quay lại phía ông
nói khẽ “Cám ơn anh”. Nói xong, cô cất gánh đi lên dốc đê.
Ông Cầm ngồi im lặng bên
mạn đò nhìn bóng cô gái đi trên mặt đê. Ông thấy lòng dạ mình chợt trống rỗng
vô cùng. Khi đò cập bến bên kia, ông lúng túng nói: “Bác cho cháu quay lại bến
làng, cháu không đi nữa”. Ông lái đò nhìn ông: “Ô hay, hôm nay làm sao thế, cậu
Cầm”.
Khi đò quay đến bến
làng, ông Cầm vội vã đi như chạy lên mặt đê. Ông đứng nhìn theo bóng cô gái lẫn
vào những người đi chợ Tết và sương sớm còn đọng mờ trên đê. Và sau những giây
phút ngượng ngùng, ông đi như chạy để đuổi theo cô gái.
Khi đuổi kịp cô gái, ông
hổn hển:
“Đưa tôi gánh giúp nào”
Nghe tiếng ông, cô gái
chợt dừng lại, ngạc nhiên:
“Ô, anh! Không, tôi gánh
được”
“Để tôi giúp, gánh bưởi
nặng lắm”
“Gánh gồng là việc của
con gái, anh không quen đâu, đau vai rồi về lại khóc mẹ”.
Cô gái nói và bật cười.
Ông Cầm bước sát cô gái, giằng lấy gánh bưởi, nâng bổng lên khỏi vai cô và đặt
vào vai mình bước rướn lên phía trước. Cô gái bước vội theo.
“Ô, để lại cho em”.
Ông Cầm không trả lời,
cứ huỳnh huỵch bước đi. Được một đoạn đê dài, ông đứng lại. Cô gái bước đến
trước mặt ông nói khẽ:
“Đưa em gánh cho, anh
mệt rồi đấy”.
Ông Cầm im lặng nhìn cô.
Cô gái khẽ kéo tấm khăn vuông che mặt, chỉ còn lại đôi mắt. Đôi mắt mở to, đen
láy làm ông thấy tức ngực.
Đến chợ, ông Cầm nói:
“Cho tôi ở lại đây bán
bưởi giúp em”
“Không được đâu - cô gái
kêu khẽ - Anh mà ngồi lại đây em không bán được bưởi, về thầy em đánh chết”
“Không ai mua thì tôi
mua cả gánh”
“ Không, anh đi đi, em
cám ơn anh”.
Cả buổi chợ Tết năm ấy,
ông Cầm cứ luẩn quẩn gần nơi cô gái bán bưởi. Ông sợ cô biến mất trong đám
người đi chợ Tết kìn kìn kia. Sau khi bán hết gánh bưởi, cô gái đi sắm Tết. Ông
Cầm lẵng đẵng theo sau cô. Khi thấy cô mua ba chục cái kẹo vừng và bọc bằng lá
chuối khô rất cẩn thận, ông hỏi:
“Em mua kẹo vừng cho ai
thế?”
Cô gái nhìn ông, cười và
nói:
“Em mua cho các cháu nhà
em”.
“Em
có con rồi à?”
Lúc
đó mặt ông nhìn thật tội nghiệp và thất vọng. Cô gái nhìn ông và khẽ nói:
“Em
nói hỗn thế thôi, em mua cho thầy em. Đón giao thừa, thầy em thích ăn kẹp vừng
và uống trà ướp hoa bưởi”.
Sau
buổi chợ ông Cầm quyết định theo cô gái sang sông về nhà cô. Mấy lần cô quay
lại quầy quậy đuổi ông, ông Cầm không hề nói năng gì cứ lầm lũi bước theo. Dọc
con đường nhỏ từ bến sông về làng cô, cỏ lên mầm toả hương ngát và có rất nhiều
những bông hoa dại li ti nở trắng.
Đến
đầu làng Lai Tảo, cô gái quay lại nói:
“Đến
làng em rồi, anh phải về đi. Nếu anh
theo em về nhà, thầy em sẽ mắng em chết, và dân làng họ cười cho”.
“Anh
làm gì mà họ cười?”
“Anh
phải quay về đi. Phiên chợ mồng ba em sẽ gặp anh”.
“Thế
nhà em còn bưởi không?”
“Dạ,
cũng còn”
“Vậy
thì anh đến nhà em để mua bưởi”.
“Nhưng
em không bán”.
“Bán
hay không là do thầy em. Anh đến hỏi thầy em cơ mà”.
“Em
mặc kệ anh đấy”
Cô
gái nói và quay người bước đi. Ông Cầm theo sau:
“Em tên là gì nhỉ?”
Cô gái không trả lời và
như bước nhanh hơn.
“Em
tên là gì nhỉ?”
Cô
gái quay lại, tỏ ra giận dỗi, nhìn ông một lát:
“Tên
em là Thìn”
“Tên
anh là Cầm”.
Sau
ngày ấy, ông Cầm cứ đôi ba ngày lại sang thăm Thìn. Và họ yêu nhau. Rồi họ hàng
nhà ông đem trầu cau sang sông ăn hỏi cho ông. Đó là một ngày tháng Mười nắng
rực rỡ. Họ đi như một đôi chim cu cườm lang thang trên cánh đồng làng vừa xong
vụ gặt. Họ vơ những cọng rạ sót lại trên ruộng vun thành đống và đốt. Ngọn khói
xanh loang chầm chậm trên cánh đồng vắng lặng buổi chiều. Ông Cầm ngồi lặng,
ngắm người yêu. Thìn chỉ mặc một chiếc áo cánh nâu có nhiều mảnh vá, nhưng đôi
mắt cô đẹp như đôi mắt thiên thần. Họ mơ đến ngày làm lễ cưới.
Nhưng
trước ngày cưới thì ông Cầm bị bắt vì tội tham gia hoạt động cách mạng. Ông bị
đày đi tù. Trước khởi nghĩa năm 1945, ông vượt ngục và tiếp tục tham gia cách
mạng. Cho tới năm 1954 ông mới trở về làng.
Vừa
nhìn thấy con trai trở về, ông Đồ Thi, cha ông Cầm run rẩy cầm lấy tay con và
khóc:
“Cầm
ơi! Cái Thìn vợ con chết rồi”.
Ông
Cầm lặng người hồi lâu. Rồi ông bỗng giật bắn người, nấc lên.
“Ai
giết cô ấy? Ai giết vợ con? Hở thầy?”
“Nạn
đói nó giết vợ con - Ông Đồ Thi mếu máo - Vợ con đi mò hến ngoài sông. Khi mang
được giỏ hến lên đến bờ thì cảm chết ngay ở đó, con ơi”.
Ông
Cầm chạy ra bờ sông. Ông lội ào qua sông gọi Thìn. Ông chạy ra cánh đồng, điên
dại dứt tung những gì ông gặp. Tết năm ấy, vào phiên chợ, ông ra sông sớm để
đón chuyến đò đầu tiên chở những người bên kia sông đi chợ. Rồi ngày đó, ông
tha thẩn quanh chợ cho đến khi chợ không còn một bóng người. Ông điên dại, đốt
cháy khu lều chợ rồi trở về đơn vị. Sau đó ông ghé về làng, lấy vợ theo ước
vọng của bố mẹ. Năm 1975 ông phục viên trở về làng.
Càng
cuối đời, ông Cầm sống như một người mộng du. Tháng Mười sau vụ gặt, ông hay
tha thẩn trên đồng, lặng lẽ quơ rạ khô, vun lại thành đống và đốt. Ông ngồi im
lặng trước đống tàn tro gió từng đợt thổi tung lên, cho đến khi bóng tối trùm
kín cánh đồng mới chống gậy về nhà.
Và hàng năm, cứ đến phiên chọ Tía họp phiên Tết vào ngày
hai mươi chín tháng Chạp, ông dậy từ sớm chống gậy ra bến đò. Ông đứng ở bến đò
nhìn những người bên sông đi chợ Tết. Và mỗi khi gặp ai đó gánh bưởi Tết đi
bán, ông lại mở một nụ cười ngơ ngác và hỏi:
“Bưởi nhà Thìn ấy à?”
“Thìn nào?” - Những người sang đò hỏi to. Nhưng khi họ
nhìn thấy gương mặt ông ngơ ngác, xa xăm với nụ cười trẻ con thì họ vội vàng
nói: “À, vâng, bưởi nhà Thìn đấy cụ ạ?”
Đêm ấy, Ông Cầm lại đốt củi trong bếp. Trải chiếu ngồi
trước lửa và uống rượu. Chừng một, hai giờ sáng ông mới đi nằm. Và những đêm
như thế, cứ đặt lưng một lúc là ông lại mơ. Ông mơ thấy ngày cưới của ông. Ông
thấy ông trai trẻ đi cùng Thìn trên con đường của cánh đồng nở đầy một thứ hoa
cỏ trắng mà ông chưa gặp bao giờ. Họ đi như trôi trên cỏ. Quanh họ, hoa cỏ trắng
bay mơ mộng. Và sớm hôm sau, ông lại gọi lũ cháu đến và thì thào.
“Này các cháu, đêm qua ông cưới vợ đấy”
Lũ cháu nhỏ nhìn ông và nhìn nhau ngơ ngác. Rồi chúng
bỗng bỏ ông chạy ra sân, thì thầm vào tai nhau rồi cười như nắc nẻ.
Còn ông ngồi im lặng trong nhà và ngơ ngác nhoẻn cười.
Ông lại sống qua một mùa đông giá lạnh nữa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét