Ký
ức của tôi về thị trấn ấy bao giờ cũng bắt đầu bằng hình ảnh những cây bàng
cụt. Không hiểu lý do gì mà tất cả bàng có ở thị trấn đều cụt ngọn. Thị trấn
nhỏ, chỉ dăm cây bàng đã chạy hết phố. Vào đông, lá bàng đỏ sậm khô xác. Tôi
còn nhớ có hai cây bàng còng trong thị trấn. Một cây treo đầy lốp xe đạp và
bánh xe bò hỏng. Còn một cây giữa thị trấn treo vỏ một quả bom để làm kẻng. Suốt
những năm tháng chiến tranh, mặc dù thị trấn nằm gần một trục đường cũng kha
khá quan trọng, nhưng chỉ có một quả bom rơi lạc vào. Quả bom không nổ. Dân thị
trấn không biết nó sẽ nổ lúc nào. Và trong suốt mấy ngày chờ công binh của tỉnh
đội về tháo gỡ, dân thị trấn không ai bảo ai đều lặng lẽ rời khỏi thị trấn. Sau
khi quả bom được tháo kíp và thuốc nổ. Uỷ ban nhân dân thị trấn làm công văn
xin lại vỏ quả bom để làm kẻng. Và người đàn ông được phân công gõ kẻng sớm bạc
tóc, vì mỗi khi cầm cái răng bừa sắt gõ vào vỏ quả bom, anh ta lại nắm nghiền
mắt lại với một cảm giác tê lạnh khi nghĩ rằng bom có thể nổ bất thình lình. Và
đã lâu lắm rồi, chiếc kẻng vỏ bom không dùng đến nữa, gỉ quẹn. Người ta nhét
vào bụng quả bom đủ thứ giẻ rách, vỏ chuối, lá bánh, vỏ bao thuốc…
Suốt
ba năm học phổ thông, thi thoảng vào buổi chiều tôi lại lang thang trong thị
trấn. Gọi là thị trấn nhưng chỉ có một con đường rải đá hộc chạy qua và lúc nào
cũng đầy phân bò kéo. Cứ sau mỗi trận mưa, cả thị trấn nồng mùi phân bò khô
sũng nước. Sau khi đi thơ thẩn hết dãy phố, tôi tạt xuống chợ thị trấn nằm sát
bờ sông. Quang cảnh chợ chiều ở thị trấn hẻo lánh lúc nào cũng như ngái ngủ.
Buổi chiều, chợ chỉ còn lại vài người bán hàng xén, hàng khô và một người đàn
bà bán bún.
Cứ
mỗi khi thấy tôi xỏ hai tay vào túi quần rộng thùng thình màu xanh sỹ lâm đã
bạc, lách qua những cái lều chợ, chị bán bún lại đon đả: “Hôm nay ăn bún hả
chú”. Và không cần tôi trả lời, chị đã nhanh tay vét số bún còn lại đã thoáng
mùi chua và bọc lại bằng những chiếc lá hoàng tinh đã héo cùng với một gói nhỏ
mắm tôm đen như đất bùn và mùi nặng đến chóng mặt.
Những
ngày trọ học ở thị trấn, bọn học sinh nghèo chúng tôi thường cải thiện bằng bún
với loại mắm tôm như thế. Tôi hay mua bún hàng chị và trở thành người thân quen.
Chị là một người đàn bà đẹp. Da chị rám nắng, nhưng mái tóc mượt dài. Chị học
xong phổ thông thì lấy chồng.
-
Chị lấy anh ấy dễ lắm - Chị nói - Thấy anh ấy là thương binh và giọng nói là
lạ, thế là cưới.
Chồng
chị là một thương binh người Thuận Hải. Anh bị cụt một chân, ra Bắc tập kết.
Trại thương binh ở ngay sát thị trấn. Gặp nhau vài ba lần, anh mời một cán bộ
Uỷ ban thị trấn cùng đến nhà chị và xin cưới.
-
Yêu nhau lạ lắm chú ạ - Chị tủm tỉm - Cả cái chân gỗ của chồng cũng đẹp, có
xước một tý sơn cũng xuýt xoa tưởng đứt thịt đứt da.
Khi
tôi biết chị thì chị đã sinh nở một lần nhưng không được. Đứa bé lọt lòng mẹ đã
chết rồi. Sau này tôi mới biết là chết lưu thai nhưng tôi không thấy chị quá
đau buồn. Khi mang thai lần thứ hai, chị như đẹp hẳn lên. Gặp tôi, chị bảo:
-
Lần này chị sẽ đẻ cho anh ấy một thằng cu. Rồi tha hồ mà nuôi nhau.
Sát
đến ngày ở cữ, chị vẫn đi bán bún. Sau khi bán hết bún. Chị lại tha thẩn nhặt
vỏ bánh và bã mía ở bãi chợ. Sau đó chị lên thị trấn bóc những mảng phân bò
khô. Thấy tôi, chị cười: “Phân bò khô đượm than lắm, mùa đông đốt cho ấm. Lúc
chị ở cữ là lạnh lắm”.
Bẵng
đi một thời gian rất lâu tôi lại mò ra chợ thị trấn. Không phải để mua bún, mà
tôi muốn biết chị sinh nở ra sao.
Trời
chưa để ý đến chị, chú ạ. Giọng chị buồn bã, đôi mắt mọng nước -Cháu nó không
muốn ở với anh chị chú ạ. Nó đi ngay sau khi lọt lòng mẹ, không kịp khóc chào
mẹ nó nữa.
Tôi
chết lặng bên lều chợ. Tôi ngồi xuống bên chị và thở dài. Tôi muốn an ủi chị
một câu nhưng không nói được.
Vừa
nói chị vừa vét cả những sợi bún đã heo héo bám quanh lòng thúng cho tôi. Chị
không quên gói cho tôi một gói nhỏ mắm tôm khô.
Tôi
mệt mỏi chào chị. Tôi muốn rời khỏi chợ càng nhanh càng tốt. Nhưng vào đến phố
thị trấn, tôi không biết phải đi đâu. Mùi phân bò khô, mùi mắm tôm khô và câu
chuyện về những đứa con của chị làm tôi choáng váng như người bị cảm nắng.
Cái
thai trong bụng chị mỗi ngày một lớn. Và niềm vui của chị cũng lớn dần theo cái
thai. Khi bụng chị vươn cao hơn cả thúng bún thì tôi không dám gặp chị nữa. Tôi
chợ sớm hơn mọi lần. Tôi trà trộn trong đám người đi chợ quan sát chị. Gương
mặt chị mệt mỏi, nhưng miệng chị luôn cười. Tay
chị bốc bún, gói bún vẫn nhanh nhẹn, gọn ghẽ như xưa.
Một
chiều tôi đang lang thang ngoài thị trấn thì nghe tiếng gọi:
-
Chú Thiều, chú Thiều.
Tôi
quay lại và nhận ra chị. Tôi hoảng hốt định quay đi. Tôi sợ gặp chị.
-
Chú Thiều, dừng lại chị hỏi cái này.
Tôi
phải quay lại. Chị nặng nhọc bước về phía tôi.
-
Sao lâu nay chú không ra chợ mua bún. Chú chê bún chị chứ gì?
-
Dạ không. Em… em…
-
Không có tiền thì chị bán chịu - Giọng chị đon đả - Mà chị cũng chẳng đòi, mấy
sợi bún chứ tạ, tấn gì.
-
Em bận học. Chúng em chuẩn bị thi hết cấp.
-
Cố mà học để thi cho đỗ khỏi phụ công bố mẹ, thầy cô. Chị cũng thế … bận này là
bận sinh nở thứ ba. Chị phải sinh được một đứa.
-
Sao chị không nghỉ… mà vẫn cứ đi chợ?
-
Chị thấy khoẻ lắm. Có thêm được đồng nào, lúc nằm ổ có đồng ra đồng vào.
Tôi
kìm tiếng thở dài và nhìn vào chiếc thúng của chị.
-
Chị lấy phân ướt làm gì? Gánh cho khổ.
-
Mang về rải ra sân, chứ mùa này mấy khi có phân bò khô.
Đêm
ấy, tôi đốt đèn đến khuya mà không học được một chữ. Rồi phần vì bận học, phần
vì tôi sợ gặp chị, tôi không ra chợ mua bún nữa.
Thi
tốt nghiệp xong, tôi về quê. Mỗi khi có người bán bún qua ngõ, nghe tiếng rao
hàng, lòng tôi thắt lại. Một nỗi thoáng sợ và thương cảm xuyên vào lòng tôi.
Mấy
tháng sau, tôi có việc phải trở lại trường cũ. Buổi sáng hôm ấy, tôi quyết định
ra chợ thị trấn. Tôi muốn biết chị ra sao. Tôi đội mũ che gần kín mắt và lùi
lũi sau những người đi chợ. Hơn nửa năm rồi tôi không gặp chị. Nếu lần sinh nở
thứ ba mẹ tròn con vuông thì đứa bé cũng được sáu, bảy tháng tuổi rồi. Tôi đi
về phía lều chị bán bún mà tim đập như đi ăn trộm lần đầu.
Và…
chị đang ngồi kia, miệng vẫn luôn cười, tay vẫn nhanh nhẹn và gọn ghẽ gói bún.
Mặt tôi sầm tối. Tôi nhận thấy cái bụng mang thai của chị vươn ngang miệng
thúng. Tôi nấc lên. Tôi khóc. Tôi quáng quàng bỏ chạy khỏi khu chợ. Thế là, lần
sinh nở thứ ba của chị đã không thành, và chị lại mang thai lần thứ tư. Tôi đạp
xe như mê muội dọc theo đê sông Đáy về quê. Những ngày sau đó, gương mặt chị
luôn luôn hiện lên trong tâm trí tôi và tiếng chị cứ văng vẳng: “Chị phải đẻ.
Giời cho chị làm đàn bà thì chị phải đẻ. Chị phải có con”.
Những
năm sau đó, tôi muốn về thăm trường cũ và gia đình tôi trọ ngày đi học. Nhưng
nghĩ đến chị tôi lại không dám trở về. Cuối cùng, nỗi thương nhớ chị đã kéo tôi
trở về thị trấn những cây bàng cụt. Tôi không dám ra chợ. Tôi tìm một quán nước
ở gần đó và ngồi nghỉ. Thị trấn thay đổi nhiều nhưng vỏ quả bom làm kẻng vẫn
còn. Cái dây thép to treo quả bom vào
cây bàng còng đã bị vỏ cây bàng ăn kín. Và trên vỏ quả bom một hàng chữ bằng
sơn trắng được viết là: “Cầy tơ bảy món”.
Sau
khi uống hết chén nước thứ ba, tôi mới dám dò hỏi bà bán hàng nước về chị. Bà
cụ nhìn tôi một lúc rồi nói:
-
Chắc chú lâu ngày mới về đây. Cô ấy chết rồi.
-
Chị ấy mất rồi hở bà? - Tôi hỏi mà giàn dụa nước mắt.
-
Cô ấy đẻ đến bận thứ năm thì mất. Nhưng đứa bé thì sống. Khổ thân, giời bắt đổi
mạng ấy mà.
Tôi
rã rời đạp xe về quê. Xa phía chân đê, con sông biền biệt trôi ra biển. Về đến
đầu làng tôi trời đã sẫm tối. Tôi vứt xe trên đê và ngồi xuống cỏ. Tôi nhìn
những ngôi sao đầu hôm và thì thầm trong ký ức: “Chị Tâm ơi! Đời chị quá khổ
đau. Nhưng em hiểu lòng chị. Chỉ hiểu rằng chị phải sinh ra sự sống chứ không
phải cái chết. Nhưng đôi khi sự sống sinh ra từ cái chết. Chị ơi, cho em lạy
chị ba lạy”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét