Huy
leo lên từng bước lên đỉnh đồi. Trăng muộn cuối thu đổ ánh sáng lành lạnh.
Những cây thông non mới lên ngang đầu người túa những chùm lá dưới trăng như những chùm kim khâu. Đây là lần thứ ba
anh trở lại vùng đồi này từ sau ngày chiến tranh kết thúc.
Lên
đến đỉnh đồi, anh nhận thấy sức khoẻ của mình đã khác lắm rồi. Đôi chân anh
nặng trĩu, ngực tức và miệng khô chát. Phía dưới tầm mắt anh, những quả đồi như
đã thiếp ngủ. Thị trấn dưới chân đồi vẫn rực rỡ đèn của các quán ăn đêm và giải
khát. Khoảng mươi năm trước, thị trấn này chỉ lác đác vài ngôi nhà dùng đèn
điện. Đêm xuống cả vùng đồi loe hoe vài ngọn đèn, cùng với gió thổi và tiếng
côn trùng. Nhưng mấy năm trở lại đây, tất cả đã đổi thay. Khu vực này đã trở
thành khu du lịch nhỏ. Vì ngoài những ngọn đồi thoai thoải đầy gió, còn có một
cái hồ rộng sát những quả đồi phía sau thị trấn.
Huy
chọn một nơi thoáng đãng ngồi xuống, Đôi mắt anh nhìn xuống chân những quả đồi.
Ở đó là một bãi cỏ rộng chạy ven chân đồi. Sáng mai anh sẽ trở về Hà Nội sớm.
Có lẽ đây lần cuối cùng anh trở lại đây. Bởi anh biết, chỉ một ngày nào đó rất
gần thôi, anh sẽ từ giã cõi đời. Những hạt hồng cầu ngấm chất độc da cam bắt
đầu phản bội anh. Các bác sĩ không nói hết sự thật bệnh tình của anh, nhưng anh
tự hiểu được. Anh đợi chờ cái chết với một nỗi buồn xa xăm chứ không hề có một
chút hoảng sợ.
Điều
mong ước lớn nhất của anh đêm nay, đúng hơn là của mấy chục năm qua là bất
chợt trên thảm cỏ chạy ven đồi kia hiện
lên một vệt sáng trắng. Cùng với vệt sáng trắng lướt loang loáng dưới trăng là tiếng hí của con ngựa vang lên
như những tiếng chuông bạc.
Năm
1970, đơn vị anh đóng quân trên quả đồi này. Những đêm có trăng, anh thường
ngồi một mình ngắm những triền cỏ rộng
và hồ nước. Một đêm, trong ánh trăng trong vắt và như đọng hương cỏ, anh bỗng
nghe từ chân đồi ngân lên tiếng ngựa hí. Tiếng hí lanh lảnh như chuông vọng qua
mặt hồ, vang mãi như không bao giờ tắt. Anh căng mắt nhìn về tiếng hí, chợt
nhận ra trong ánh sáng đang ròng ròng từ trời cao chảy xuống và trên nền cỏ
xanh như nước một vệt sáng trắng như bạc loang loáng lướt đi. Rồi từ vệt sáng
đang mềm mại chuyển động kia là tiếng hí thi thoảng ngân lên. Tiếng hí làm anh
run rẩy. Đêm ấy, hình như anh không ngủ. Đôi lúc, anh chợt nghĩ hay đó là con
ngựa thần. Đêm trăng tiếp sau đó, anh lại tìm đến phần cao nhất của ngọn đồi và
hồi hộp chờ đợi.
Rồi
đến một buổi chiều, anh phát hiện dưới chân quả đồi bên cạnh có một con ngựa
trắng. Anh quyết định sau bữa cơm chiều sẽ xuống xem con ngựa .
Huy
tìm đến ngôi nhà thì trời đã tối. Trong
nhà có ánh đèn le lói hắt ra. Anh đứng rất lâu trước cánh cửa ngõ ghép bằng
những cành cây nhỏ. Anh nghe thấy tiếng ngựa thở góc vườn. Đợi mãi không thấy có tiếng người,
anh mạnh dạn lên tiếng:
“Có
ai ở trong nhà không ạ?”
Sau
tiếng hỏi, Huy nghe có tiếng động trong nhà và một người xách chiếc đèn chai
bước ra.
“Ai
hỏi đấy?” Giọng của một cô gái cất lên.
“Tôi
đây, cho tôi hỏi nhờ…”
Cô
gái xách đèn từ hiên nhà bước xuống đi về phía Huy. Đến sát cánh cửa ngõ, cô
gái giơ cao chiếc đèn chai lên ngang đầu. Một đôi mắt thiếu nữ to và đen dưới
hàng lông mày rậm nhìn Huy qua kẽ thưa của cánh cửa ngõ.
“Chú
bộ đội hỏi ai ạ?”
“Tôi
đóng quân ở trên ngọn đồi kia, đi qua đây, vào xin gia đình bát nước”
“Dạ,
mời chú vào” - Cô gái nói và mở cổng.
Cô gái xách đèn đi trước dẫn Huy vào nhà. Cô
rót nước từ một cái ấm rất cũ ra bát mời Huy. Anh nâng bát nước và nhìn quanh
ngôi nhà.
“Gia
đình cô đi đâu hết cả rồi?”
“Mẹ
cháu và em cháu sang làng bên thăm bà ngoại cháu ốm. Bố cháu đi uốn rượu ngoài
thị trấn”.
“Đi
uống rượu à?” - Huy tò mò hỏi
“Vâng,
ngày nào đánh ngựa chở hàng thuê xong, bố cháu cũng đi uống rượu ngoài thị
trấn, khuya mới về”.
“Tôi
muốn xem con ngựa nhà cô đấy”
“Chú
xem để làm gì? Chú muốn mua à?”
“Không,
tôi không mua ngựa - Huy lúng túng - Tôi thích xem con ngựa….”
Cô
gái khẽ nhíu mày nhìn Huy và kín đáo mỉm cười.
“Cháu
buộc ngựa ngoài vườn”.
Cô
gái nói và xách đèn bước ra. Huy lặng lẽ đi theo. Đến đầu nhà, cô gái đứng lại
bỏ một nắm cỏ vào chiếc sọt rách mang cho ngựa. Thấy ánh đèn, con ngựa gõ móng
thở mạnh hơn. Khi Huy và cô gái đến trước con ngựa, nó ngẩng đầu nhìn hai
người. Huy nhận thấy từng tảng cơ bắp cuồn cuộn dưới lớp lông màu trắng. Cái
đuôi ngựa dài như phủ kín cả hai chân sau của nó. Khi con ngựa cúi xuống ăn cỏ,
Huy nhận thấy đám lông bờm dày, trắng và sạch sẽ của nó có đôi chỗ được tết lại
như chiếc đuôi sam tí hon của các bé gái.
“Ai
tết bờm con ngựa thế này?” Huy hỏi.
“Cháu
đấy, nó có bộ bờm đẹp nhất đấy, cháu thích tết tóc cho nó. Ngày xưa mẹ cháu
cũng hay tết tóc cho cháu như thế này”.
“Đêm
trăng cô hay thả ngựa ngoài bãi cỏ ven chân đồi phải không?”
“Sao
chú biết?” - Cô gái ngước mắt hỏi. Đôi mắt to, đen thăm thẳm dưới hàng lông mày
rậm.
“Từ
đỉnh đồi tôi nhìn nó phi như bay và hí vang, đẹp lắm. Tôi mò xuống đây là để
xem con ngựa. Tôi nói dối cô là xin nước uống đấy thôi”.
“Khi
nào có trăng, con ngựa thích ra bãi cỏ lắm. Cháu thả nó và nằm trên bãi cỏ nghe
tiếng chân nó chạy, tiếng nó hí. Ngày nào cháu cũng tắm, tết bờm cho nó”.
Huy
đứng ngắm con ngựa và nói chuyện với cô gái cho đến khi con ngựa ăn hết cỏ.
Khi
tiễn Huy ra đến ngõ, cô gái nói:
“Khi
nào rảnh, chú xuống sớm ra thị trấn uống rượu cùng bố cháu, ngoài đó họ uống
rượu, đánh bài, vui lắm!”
“Tôi
không biết uống rượu. Tôi sẽ xuống thăm cô và vẽ một bức tranh về con ngựa này
tặng cô”.
“Chú
biết vẽ à” - Cô gái lại mở to đôi mắt nhìn anh.
“Tôi
đang học đại học Mỹ thuật thì đi bộ đội. Mà này, cô đừng gọi tôi là chú nhé. Cô
cũng trạc tuổi em gái tôi ở Hà Nội thôi. Em gái tôi rất thích mèo. Đêm nào nó
cũng ôm mèo ngủ”.
Cô
gái bật cười, để lộ hàm răng đều, trắng bóng…
“À, tên cô là gì nhỉ?”
“Tên cháu là Mỵ . Thế còn chú?”
“Lại chú rồi - Huy đùa - Tên tôi là Huy”.
Mãi một tuần sau, Huy mới xuống thăm Mỵ được. Anh
mang theo cả giá vẽ. Ông bố Mỵ nghe con gái giới thiệu về Huy và trình bày ý
định của anh, cười hà hà “vẽ ngựa hả, muốn vẽ bao nhiêu thì vẽ. Lúc nào muốn
vẽ, tôi nghỉ buổi chở hàng để ngựa ở nhà
cho mà vẽ”. Nhưng lần nào anh cũng trở về với vẻ mặt thất vọng. Sau mỗi buổi
vẽ, anh nhìn bức tranh rồi vò đầu, vò luôn cả bức tranh rồi châm lửa đốt.
“Sao
chú lại đốt đi thế. Cháu nhìn đẹp lắm. Lần sau vẽ xong chú để lại cho cháu ”.
Cô
gái nhìn bức tranh cháy nói với giọng tiếc nuối.
“Tôi sẽ vẽ cho em - Huy buồn bã nói - Những
bức tranh vừa rồi không có vệt sáng ấy, không có tiếng chuông bạc ấy”.
Mỵ
mở to đôi mắt nhìn Huy tỏ vẻ không hiểu. Anh đứng dậy bước lại gần Mỵ. Đưa
những ngón tay chạm khẽ vào mái tóc Mỵ thở dài:
“Rồi
em sẽ hiểu”
Một
buổi tối Huy xin được phép ra khỏi doanh trại đến mười giờ đêm. Thật may, đó là
đêm trăng đang vào độ sáng nhất. Hình như hương cỏ cũng đậm dần theo độ sáng và
trong của trăng.
Huy
ăn vội bữa tối và lao nhanh xuống chân đồi . Nghe tiếng Huy, Mỵ vội vàng xách chiếc đèn chai ra đón
anh.
“Đêm
nay trăng đẹp lắm, chúng mình thả ngựa nhé”.
Giọng
Huy hổn hển. Mỵ mỉm cười gật đầu. Sau khi ông bố Mỵ khoác chiếc đại cán cũ rời
nhà ra thị trấn uống rượu thì Mỵ dắt con ngựa cùng Huy xuống bãi cỏ ven chân
đồi. Con ngựa thong thả bước lên bãi cỏ dưới trăng. ánh trăng lấp lánh loá trên
mình nó theo nhịp chuyển của những múi cơ. Gió từ mặt hồ bước thổi về làm đám
lông bờm của nó rung lên như một chùm tia sáng.
Mỵ
cho con ngựa dừng lại, rồi cô tháo cương lùa tay vào đám lông bờm sạch sẽ của
nó:
“Mày
tự do nhé”
“Hãy
bay đi - Huy rụt rè xoa lưng con ngựa - và hí vang lên, vang như chuông ấy”
Con
ngựa ngẩng đầu. Nó đứng im lặng trong khoảng khắc, bất chợt nó khẽ rùng mình
tung vó. Đám bờm ngựa duềnh lên như một ngọn sóng. Rồi tiếng hí của nó ngân
vang. Huy cảm thấy ánh trăng cũng rung lên với những âm thanh lanh lảnh trong
vắt và lấp lánh. Chỉ trong khoảng khắc, bóng con ngựa trước Huy và Mỵ nhoà đi.
Cuối cùng chỉ có lại một vệt sáng bạc lấp loá.
Sau
những phút ngây ngất choáng ngợp Huy từ từ quay lại nhìn Mỵ. Cô vẫn im lặng
nhìn về xa. Anh bỗng bước lại ôm ghì Mỵ. Cả hai người rùng mình và thở. Cứ như
thế, cả hai người không nói một câu gì. Họ nép vào nhau, người khẽ rung lên
từng đợt. Cho đến khi họ nghe thấy tiếng con ngựa gặm cỏ và thở phì phì sau họ,
hai người mới buông ra.
Mỵ
chuếnh choáng bước lại gần con ngựa. Cô ôm chầm lấy cổ nó, úp mặt vào đám lông
bờm có những bím nhỏ của nó. Huy đứng sau Mỵ. Những ngón tay của anh run rẩy
chạm khẽ vào mái tóc cô đổ xoã trên đám bờm ngựa.
Nhưng
bức tranh về ngựa trắng vẫn không sao hoàn thành được. Và khi nhận lệnh chuyển quân
đột ngột thì Huy hoàn toàn thất vọng. Anh chạy như bay từ trên đỉnh đồi xuống
nhà Mỵ. Vừa nhìn thấy cô, anh kêu lên:
“Anh
phải đi rồi, làm thế nào hở em?”
Mỵ
không nói gì, nhìn Huy giàn giụa nước mắt. Rồi không ai bảo ai, cả hai cùng
bước về góc vườn, nơi buộc con ngựa ở đó. Mỵ ôm lấy cổ con ngựa và khóc.
“Anh
sẽ về tìm em - Huy thì thầm - Chiến tranh sắp kết thúc rồi”.
Mỵ
rời con ngựa bước lại trước Huy đổ người vào ngực anh. Cô khóc nấc lên.
Con
ngựa bồn chồn gõ móng.
“Chiến
tranh sẽ kết thúc rất sớm. Anh tin là thế. Anh sẽ về cưới em. Và để vẽ bức
tranh con ngựa trắng tặng em”.
Đêm
ấy không có trăng. Mỵ xách chiếc đèn chai tiễn Huy đến tận đầu con đường mòn từ
chân đồi chạy lên đỉnh đồi. Huy quay lại ôm ghì lấy Mỵ vào lòng, hôn lên khắp
mặt và bộ tóc cô, Mỵ mắm môi kìm tiếng khóc. Chiếc đèn chai chao đảo.
“Em
về đi, về cho ngựa ăn, nó đói đấy”. Hình như anh nghe thấy tiếng nó hí.
“Anh
sẽ về tìm em, về đi em”
Khi
về đến cửa ngõ, Mỵ quay lại giơ cao chiếc đèn chai và nhìn về phía đỉnh đồi.
Rồi cô treo chiếc đèn chai ở cửa. Khoảng nửa đêm cô nghe tiếng gầm của ô tô. Cô
vội đi ra ngõ. Cô cứ đứng đó, với đôi mắt mở to, đen thẳm hướng về phía đỉnh
đồi. Đêm ấy gió thổi mạnh hơn mọi đêm. Chiếc đèn chai chao đảo trong gió trên
chiếc cửa ngõ ghép bằng những cành cây khô. Cô đứng đó cho đến lúc bố cô đi
uống rượu ngoài thị trấn về.
Gần
hai năm sau khi chiến tranh kết thúc, anh mới từ Đồng Nai trở về Hà Nội. Gia
tài của anh là mấy bộ quần áo, những lá thư của gia đình, bạn bè anh nhận được
trong chiến tranh và bức tranh vẽ con ngựa trắng mà anh đã hoàn thành trong
thời gian bị thương nằm ở trạm quân y tiền phương. Bức tranh được vẽ tất cả sự
kỳ diệu của thiên nhiên trong những đêm trăng anh sống ở vùng đồi phía Bắc, với
tất cả tình yêu và sự đợi chờ lớn lao anh giành cho Mỵ và bức tranh được vẽ bên
cạnh cái chết của chiến tranh.
Về
Hà Nội được dăm ngày, anh vội vàng lên vùng đồi ấy tìm Mỵ. Đấy là lần thứ nhất
anh trở lại vùng đồi này sau gần bảy năm. Nhưng anh không tìm thấy Mỵ.
Thị
trấn dưới chân đồi bụi bặm và xơ xác, nó cũng đã bị đánh bom hai lần trong thời
chiến tranh. Ngôi nhà của Mỵ ở phía bên này quả đồi không còn nữa. Huy tìm đến
Uỷ ban nhân dân thị trấn để hỏi. Ông chủ tịch đen đúa và khô quắt như một cành
củi nhìn anh im lặng. Và sau khi rít đến bảy điều thuốc lào ông mới thủng thẳng
nói:
“Tôi
chẳng biết cô Mỵ là cô nào cả. Đất đai, đồi núi ở đây rộng lắm, ai muốn ở đâu
thì ở, muốn đi đâu thì đi. Năm bảy hai, những gia đình bên kia quả đồi đi sơ
tán vào sâu trong phía núi. Sau giải phóng cũng chẳng thấy ai trở về cả”.
“Bác
cho cháu ở lại đâu ít bữa - Huy nói - Cháu ra các vùng lân cận hỏi thăm xem
sao”.
“Uỷ
ban chẳng có chỗ nào cho anh nghỉ được đâu. Anh nhìn cơ ngơi chúng tôi thì thấy
đấy”.
Nói
xong, ông lại tra thuốc vào điếu và hút liên tục. Cuối cùng ông đứng dậy:
“Thôi
về nhà tôi ở tạm vài ngày”. Huy theo ông chủ tịch Uỷ ban về nhà ông. Sáu đứa
con còn nhỏ của ông đầu tóc xơ xác như quạ đánh trố mắt nhìn anh. Công việc đầu
tiên của Huy là mở giấy ra vẽ chân dung ông chủ tịch. Mặc dù trong thời gian
Huy vẽ, ông ngọ nguậy như một con sâu và rít thuốc lào đến nhức đầu, nhưng bức
tranh vẫn được hoàn thành. Lũ con ông xô đẩy nhau để xem bức tranh.
“Giống
đấy, giống đấy - ông chủ tịch gật gù - Cái này để khi chết mang ra làm lễ truy
điệu được”.
Chính
vì bức tranh loại “truyền thần” ấy mà Huy được ông chủ tịch đối xử khá chu đáo.
Ban ngày Huy đi bộ ra các vùng lân cận dò hỏi tin tức về Mỵ. Đêm đến, anh đi
lang thang trên bãi cỏ ven chân đồi, leo lên đỉnh đồi ngồi đến khuya. Anh mong
chờ một tiếng ngựa hí.
Năm
ngày sau, Huy hoàn toàn thất vọng trở về Hà Nội. Anh tự an ủi mình bằng ý nghĩ
rằng Mỵ đã lấy chồng ở một nơi chốn xa xôi nào đó. Anh quay lại tiếp tục chương
trình học tập ở Đại học Mỹ thuật. Rồi anh tốt nghiệp ra trường, đi làm và lấy
vợ.
Bức
tranh Huy vẽ con ngựa trắng được đóng khung treo vào nơi trang trọng nhất trong
phòng làm việc của anh. Thi thoảng anh lại tỉnh giấc trong đêm rời khỏi phòng
ngủ. Anh đốt cây nến đặt gần bức tranh và lặng lẽ nhìn. ánh sáng nến lay động
làm mọi cảnh vật trong bức tranh chuyển động. Trong bức tranh là một cánh cửa
ngõ ghép bằng những cành cây khô thưa thớt. Sau những cành cây khô, là một
thiếu nữ đang giơ cao chiếc đèn chai. Đôi mắt thiếu nữ mở to, đen thẳm. Từ đó
như vọng lên lời thì thào vĩnh biệt. Sau thiếu nữ là một khoảng không mênh mông
với một thứ anh sáng kỳ lạ. Trong ánh sáng ấy là một con ngựa như đang bay.
Lưng con ngựa lấp loá ánh bạc. Bờm nó tung lên như từng chùm tia sáng lóng
lánh.
Càng
nhìn, Huy càng thấy chiếc đèn chai chao đảo dữ dội, và người thiếu nữ kia rung
lên từng đợt. Anh nghe thấy tiếng gió rít từng hồi qua đỉnh đồi cùng tiếng hí
ngân lên lanh lảnh đến vô tận.
Chính
vì những đêm tỉnh giấc mộng mị như thế và chính vì đứa con đầu tiên ra đời của
vợ chồng Huy đã chết, bé chết bởi không được đầy đủ như một con người và vợ
chồng anh ngày một xa nhau. Rồi họ chia tay nhau.
Sau
khi ly hôn được vài tháng, anh trở lại vùng đồi kia lần thứ hai.
Lúc
ấy Huy gặp may hơn. Có một người đàn bà luống tuổi biết loáng thoáng những câu
chuyện về Mỵ đã kể cho anh nghe.
Sau
khi con ngựa là cái duy nhất để kiếm cơm cho gia đình cô bị thương vào chân vì
trúng mảnh bom không thể chở hàng thuê được nữa, gia đình Mỵ đã lâm vào cảnh
túng quẫn hơn xưa. Ông bố Mỵ đêm đêm vẫn mò ra thị trấn uống rượu. Khi không còn
cả tiền uống rượu ông gạ bán con ngựa. Chẳng ai muốn mua con ngựa què ấy làm
gì. Hơn nữa, Mỵ cương quyết không bán con ngựa ấy. Một thời gian sau ông bố
cũng không còn đủ sức mò ra thị trấn uống rượu đêm. Mỵ vẫn phải đi bộ mua rượu
cho ông. Đám trai tráng tụ tập uống rượu và đánh bạc ở thị trấn để ý ngay đến
cô. Một gã trai không rõ quê quán ở đâu làm nghề đào giếng đã theo Mỵ về nhà. Ít
lâu sau bố mẹ Mỵ mất. Hai đứa em trai cô bỏ đi kiếm ăn ở tỉnh phía Nam nào đó.
Rồi gã đào giếng thuê, chồng Mỵ cũng chết. Gã uống rượu đánh bạc và bị lũ con
bạc đâm chết. Sau đó một thời gian, người ta thấy Mỵ biến mất cùng đứa con gái
nhỏ của mình. Không ai biết Mỵ đi đâu cả.
Huy
trở về Hà Nội lần đó buồn hơn. Anh đóng cửa suốt ngày. Đêm nào anh cũng thức giấc.
Anh đốt một ngọn nến đặt gần bức tranh ngồi lặng lẽ hàng giờ. Anh đang sống
những giây phút đau khổ và hạnh phúc nhất.
Và
lần này là lần thứ ba, có lẽ là lần cuối cùng anh trở lại vùng đồi. Chuyến đi
này không phải anh đi tìm Mỵ. Những hồng cầu ngấm chất độc màu da cam đang nhảy
múa điên loạn trong cơ thể của anh. Anh biết anh đang từng bước đi về phía cái
chết. Anh chọn mùa trăng để trở lại đây. Anh muốn được ngồi trên đỉnh đồi này,
nơi anh ngồi hơn hai mươi năm trước, để được ngắm nhìn quả đồi thiêm thiếp
trong trăng, và mong được vô tình nghe thấy tiếng ngựa hí dù là do bệnh hoang
tưởng.
Đêm
đã khuya, sương thấm lành lạnh. Anh đứng dậy nhìn xuống bãi cỏ ven chân những
quả đồi. Khi anh cất tiếng thì thầm “vĩnh biệt, vĩnh biệt” thì từ phía chân đồi
một tiếng ngựa hí vang lên. Người anh choáng đi. Anh đứng như chết. Đầu óc anh
tê dại.
Tiếng
ngựa hí lại tiếp tục vang lên. Anh nín thở lắng nghe để tìm lấy một chút quen
thuộc nào đó trong âm thanh kia. Bỗng từ trong ký ức anh, tiếng hí xưa cứ từng
đợt, từng đợt dâng lên và lung linh. Anh thấy từng đợt sóng cuồn cuộn dâng lên
trong da thịt anh. Anh lao mình xuống chân đồi về phía tiếng ngựa hí trong đêm.
Anh vấp ngã sóng soài. Anh chồm dậy và chạy. Tiếng hí cứ triền miên ngân vang
trong miền ký ức anh.
Xuống
đến chân đồi, Huy vừa thở vừa bước về phía mấy ngôi nhà dựng trên đất đồi đỏ
nhợt nhạt trong ánh trăng. Khi đến ngôi nhà thứ hai, anh nhận ra một con ngựa
nhờ nhờ trắng đứng ở đầu nhà. Tim anh đập loạn lên. Anh bám tay vào chiếc cổng
được ghép bằng những cây sắn còn hăng mùi nhựa.
-
Có ai, có ai ở trong nhà không?
Không
có ai trả lời. Chỉ có tiếng ngựa gõ móng và tiếng nó thở phì phì.
-
Có ai trong nhà không?
Anh
như gào lên. Ngay sau đó anh nghe tiếng động trong nhà vọng ra. Một lát sau có
ánh đèn hắt qua khe cửa sổ bé như bàn tay. Một người đàn bà mở tấm phên cửa,
xách chiếc đèn chai bước ra. Ánh sáng từ chiếc đèn chai như xuyên vào mắt anh.
Người
đàn bà đi từng bước chậm rãi về phía anh. Khi đến sau cánh cửa ngõ thấp ngang
ngực, chị giơ cao đèn về phía anh và hỏi:
-
Khuya rồi, ai hỏi gì vậy?
-
Anh đây, Huy đây.
-
Huy nào nhỉ?
-
Anh về rồi đây mà. Anh đã vẽ xong bức tranh con ngựa trắng cho em rồi. Huy đây
mà.
Người
phụ nữ vẫn đứng im lặng. Đôi mắt chị hình như chưa bao giờ biết chớp, Chiếc đèn
chai trên tay chị đung đưa.
-
Em không còn nhớ ư? Mỵ. Anh vẫn nhớ con ngựa mà em hay tết bờm cho nó.
Mỵ
bỗng đổ dạt vào cửa ngõ. Huy vội vàng đẩy cánh cửa lách vào. Có tiếng gãy của
những cành sắn. Anh đỡ Mỵ đứng lên. Anh nghe tiếng cô khóc nức nở.
-
Anh đấy ư? Huy. Sao bây giờ anh mới về?
-
Anh đi tìm em bao lần rồi mà không thấy. Em đã đi những đâu?
-
Chuyện dài lắm, anh vào nhà đi.
-
Con ngựa vẫn còn phải không em?
-
Nó vẫn sống, nhưng bị què mất một chân.
-
Anh biết.
-
Sao anh biết?
-
Anh có lên đây tìm em. Người ta kể chuyện về em cho anh nghe. Nhưng chẳng ai
biết em đi đâu.
-
Sau khi chồng em mất, em về quê chồng chăm sóc bà mẹ chồng. Sau khi cụ mất, em
lại trở về đây, được hai năm rồi anh ạ. À để em đưa anh ra thăm con ngựa.
Mỵ
nói, lau nước mắt và dẫn Huy ra đầu nhà. Thấy ánh đèn, con ngựa gõ móng và thở
mạnh hơn. Mỵ bỏ cho nó một nắm cỏ. Con ngựa cúi xuống ăn mệt mỏi.
Huy
nhìn con ngựa và thấy nó đã quá già. Da nó lốm đốm những chấm tàn nhang lớn.
Chiếc đuôi tuyệt vời của nó khi xưa giờ xơ xác và rụng nhiều. Trong đám bờm của
nó vẫn có những bím lông nhỏ tết lại.
-
Em vẫn tết bờm cho nó à?
-
Ngày nào em cũng tắm rửa và tết bờm cho nó. Em chỉ không dắt nó ra bãi cỏ những
đêm trăng, kể từ khi em lấy chồng.
-
Anh ngồi trên đỉnh đồi suốt từ lúc trăng lên. Và anh nghe thấy nó hí.
-
Bao nhiêu năm rồi em mới thấy nó hí như thế. Em không nghĩ anh về, em chỉ nghĩ
có lẽ đêm nay hoặc ngày mai là nó chết. Nó già yếu quá rồi, không cả nhai cỏ
được nữa.
Nghe
Mỵ nói, tim Huy như thắt lại, ngực anh nóng ran. Anh ôm chặt Mỵ. Như hơn hai
mươi năm về trước, hai người nép chặt vào nhau không nói gì. Chỉ cơ thể họ rung
lên từng đợt. Huy thì thầm bên tai Mỵ.
“Chúng
mình dắt ngựa ra bãi cỏ nhé”
Mỵ
không nói gì, chỉ gật đầu và nhoẻn cười.
Họ
dắt con ngựa ra khỏi nhà. Ra khỏi cổng ngõ, Mỵ quay lại treo chiếc đèn chai lên
cái cọc tre.
Đến
bãi cỏ, Mỵ tháo chiếc dây buộc ngựa. Chị ôm lấy cổ nó và vùi mặt vào đám bờm.
Gió se lạnh từ mặt hồ thổi về làm những chiếc lông bờm ngựa tung lên như những
chùm tia sáng.
Mỵ
thì thầm:
“Mày
tự do nhé”
“Mày
hãy bay lên như ngày trước - Huy xoa xoa đầu con ngựa và nói - Và hí vang lên,
như chuông ấy”.
Con
ngựa khẽ ngẩng cao đầu đứng im lặng rất lâu. Phía sau nó, Mỵ bé bỏng trong vòng
tay Huy. Cả hai nín thở chờ đợi. Trên đầu họ, trăng vẫn ròng ròng chảy xuống.
Có những đám mây nhỏ óng ánh trôi khe khẽ trên đầu.
Con
ngựa già, què một chân vẫn đứng im lặng. “Có lẽ nào nó đã kiệt sức”. Huy thì
thầm và cảm thấy hốt hoảng cho chính anh.
Nhưng
rồi con ngựa chợt rùng mình và tung vó. Nó rướn mình lên như một cơn mơ. Cái
đuôi xơ xác, đã rụng nhiều quẫy lên như một dải ánh sáng. Đám bờm của nó duềnh
lên như một đợt sóng. Và tiếng hí kỳ diệu của nó ngân lên lanh lảnh, trong suốt
và lung linh đến vô tận.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét