Canh
ba Lân tỉnh giấc. Gió tháng Giêng lùa ấm cả vùng đồi. Trong cơn mơ của Lân,
tiếng súng săn vang lên như tiếng cốc thuỷ tinh vỡ khi bị dập xuống sàn đá. Và
những con mòng két đang bay bỗng giật tung lên và rụng xuống. Những con mòng
két mình còn nóng hổi, bết máu.
Sáng
qua dậy sớm, Lân nhận ra một bầy mòng két chừng dăm con trở về ăn sớm ở đầm Lai
ven chân dãy đồi. Đã bao nhiêu năm nay bầy mòng két đã không trở về khu đầm
Lai. Và mỗi lần mơ thấy mòng két trở về. Lân lại mơ thấy tiếng súng săn vang
lên. Anh tỉnh giấc và nằm nghĩ lan man.
Mười
năm trước, khi Lân đặt chân đến nông trường ở vùng đồi này, mòng két còn đông
lắm. Cứ mờ sáng, Lân lại tỉnh giấc bởi tiếng đập cánh của hàng trăm con mòng két
bay về đầm Lai ăn sớm. Những ngày đầu Lân cứ ngỡ trời đổ mưa. Lúc rảnh rỗi, Lân
hay lang thang dọc bờ đầm xem bầy mòng két lội kiếm ăn trong những đám cỏ lác
xanh rì. Và cũng ở đấy, Lân đã gặp Hạnh. Anh ngỡ ngàng trước cô, và vùng đồi
trở nên vô cùng thơ mộng đối với anh.
“Chú
công nhân bỏ việc đi chơi à?”. Sau này quen Lân, Hạnh hay hỏi anh câu đó khi họ
gặp nhau. Lân không biết nói gì, chỉ cười. Và những buổi tối đẹp trời, Lân
thường đạp xe xuống xóm gần chân đồi thăm Hạnh. Những đêm có trăng, họ hay cùng
nhau đi dạo ra tận ven bờ đầm và quanh quẩn lại nói chuyện về bầy chim:
“Mòng
két ở đâu về đây hở anh?”
“Bên
kia núi”
“Sao
chúng nó không kiếm ăn bên ấy, bay sang đây làm gì cho vất vả?”
“Bên
ấy không có đầm nước rộng như ở đây”
“Anh
sang đó rồi à?”
“Anh
chưa sang”.
“Sao
anh lại biết?”
“Mòng
két có mách anh”.
“Sao
chúng nó cứ phải đi ăn sớm?”
“Phận
mòng két nó thế”.
“Anh
nói cứ như anh là mòng két ấy”.
Và
cứ mỗi lần chia tay nhau, Lân lại nói:
“Giá
chúng mình hoá thành mòng két nhỉ”.
“Để
làm gì hở anh?”
“Anh cũng chẳng biết
nữa”.
Rồi một buổi sáng. Lân
chợt nghe những tiếng súng nổ liên tiếp. Từ những đám cỏ lác ven bờ đám mòng
két từng đàn vụt bay lên. Và ngay lúc đó, tiếng súng lại nổ rền. Đôi ba con
mòng két giật tung mình trong không gian và rơi xuống. Có kẻ bắn mòng két. Lân
nghĩ và băng xuống chân đồi về phía bờ đầm. ở đó anh gặp ba thanh niên lạ đang
nhặt những con mòng két bị bắn. Sau khi nhặt hết chim vào chiếc ba lô cũ họ
ngồi hút thuốc.
Lân bước lại trước đám
người lạ.
“Sao các anh lại bắn
chim?”
Nghe Lân hỏi, cả ba
thanh niên lạ nhìn anh rồi phá lên cười.
“Đây là mòng két, chứ
không phải ngan, vịt nhà ông bạn, ông bạn ạ”.
“Các anh không được
quyền giết chúng”.
“Chim trời ai cấm, ông
bạn nhân đạo quá. Chủ nghĩa nhân đạo muôn năm”.
Cả bọn lại phá lên cười.
Lân bực tức, nhưng không biết làm gì. Anh bỏ về nông trường.
Buổi trưa, Lân đạp xe
xuống xóm Hạnh. Anh muốn báo cho Hạnh tin bầy mòng két bị săn bắn. Nhưng vừa
bước vào sân nhà cô, anh ngạc nhiên thấy ba gã thanh niên đang ngồi vặt lông
chim ở góc sân gần bếp.
Anh vội quay ra thì gặp
Hạnh, Lân hỏi:
“Bọn
kia là ai thế?”
“Các
anh ấy ở Hà Nội về để săn chim. Họ nấu nhờ cơm nhà em.”
Thấy
Hạnh có vẻ vui vẻ, Lân im lặng nhìn cô rồi bỏ đi.
Mấy
ngày sau đó. Không thấy Lân xuống xóm, Hạnh lên đồi thăm Lân.
“Anh
giận em phải không?”
“Không”
“Sao
anh không xuống xóm thăm em?”
“Anh
bận. Bọn săn chim đi rồi chứ?”
“Họ
đi ngay chiều hôm đó”
“Chúng
nó sẽ giết hết bầy chim”
“Hàng
ngàn con, giết bao giờ cho hết.”
“À
ra thế”
Lân
giận dữ nói và bỏ ra khu chuồng bò. Nhưng ngay buổi chiều anh vội đạp xe xuống
xóm tìm Hạnh. Anh nhớ cô.
Rồi
đến một buổi sáng khác, tiếng súng săn lại rền rĩ vang lên. Và những con chim
lại giật tung mình trên không rồi rơi xuống. Lân vơ lấy chiếc gậy chạy xuống
chân đồi về phía bờ đầm. Anh vô cùng ngạc nhiên và buồn bã khi thấy Hạnh đang
ngồi cùng ba thanh niên lần trước và ngắm nhìn thích thú những con chim xoã
cánh, ngực bết máu. Thấy anh, cô hồ hởi:
“Anh
Lân xem này, các anh ấy bắn giỏi lắm. Các anh ấy bảo sẽ dạy em bắn súng.”
Một
cảm giác trống rỗng và rã rời ùa kín lòng Lân. Anh nhìn rất lâu vào đôi mắt
Hạnh và bỏ đi.
Những
ngày sau đó, tiếng súng cứ thay nhau rền rĩ đập vào vùng đồi yên tĩnh và thơ
mộng. Lân không xuống xóm thăm Hạnh nữa. Nhưng trong cơn mơ, anh vẫn thấy mình
chạy từ đỉnh đồi xuống xóm tìm Hạnh và cuối cơn mơ, tiếng súng lại nổ rền và
những con mòng két rụng xuống như lá khô gặp gió.
Và
cứ thế, chỉ một thời gian sau quanh bờ đầm lại có quá nhiều những tay súng từ
thành phố về đó săn bắn mòng két và những loại chim khác vào những ngày nghỉ.
Hạnh không còn lên nông trường thăm Lân nữa. Cô yêu một trong ba gã săn mòng
két và hồi hộp chờ ngày cưới như gã đã hứa.
Mỗi
ngày mòng két về ăn mồi ở đầm Lai một thưa. Rồi đến một buổi sớm, bầu trời vùng
đồi im bặt. Người ta không còn nghe thấy tiếng mòng két đập cánh, Lân tỉnh giấc
và anh tê tái khi nhận ra điều ấy. Những ngày sau đó, anh dậy sớm và như nín
thở lắng nghe tiếng đập cánh của bầy chim trở về. Nhưng như có phép lạ, đầm Lai
vụt trở nên hoang vu. Và những gã săn bắn chim cũng không thấy xuất hiện ở vùng
đôi này vào những ngày nghỉ nữa.
Cái
thai trong Hạnh mỗi ngày một lớn. Gần sáng cô thường tỉnh giấc, không phải để
đợi bầy mòng két mà đợi gã thợ săn. Nhưng gã không trở lại và cũng không biết
gã ở đâu cũng như cô từng không biết bầy mòng két từ đâu đến và giờ đã đi đâu.
Rồi
cô sinh con và cho đến khi đứa bé lớn lên một tuổi thì cô đã hoàn toàn thất
vọng trong sự đợi chờ gã thợ săn trở lại. Thi thoảng vào cuối chiều, cô lại ra
ven đầm Lai và ngồi trên cỏ một mình. Ở đây, cô gặp lại Lân. Cô khóc và nói:
“Hắn
không trở lại nữa, và… mòng két cũng không trở lại nữa…”
“Hắn
không bao giờ trở lại nữa. Đúng thế - Lân nói và khẽ thở dài - Nhưng đám mòng
két sẽ trở lại”
“Đám
mòng két có trở lại không anh?” - Cô vội vã hỏi.
“Có,
chúng sẽ trở lại.”
“Em cầu mong chúng trở
lại, em cầu mong”.
Cô nói run rẩy, Lân nhìn
sâu vào mắt cô với một thoáng ngờ vực.
“Em cầu mong bầy mòng
két trở lại, và như vậy, anh sẽ bớt buồn.”
Nói xong, cô bỏ đi như
chạy. Câu nói ấy của cô giội lên trong lòng Lân một cảm giác lạ lùng. Và lúc
đó, những kỷ niệm đẹp đẽ giữa cô và Lân chợt trở về. Đêm ấy, anh mơ thấy đàn
mòng két bay rợp góc trời vùng đồi. Và anh chạy như bay từ đỉnh đồi xuống để
tìm cô. Chiều hôm sau, anh đạp xe xuống xóm Hạnh. Vừa thấy anh, cô vội hỏi:
“Anh có thấy con mòng két nào về không?”
“Không. Nhưng chúng sẽ
về vì trong mơ anh thấy chúng về.”
Vẫn một cảm giác vừa lạ
vừa quen ùa kín lòng anh sau câu nói của Hạnh.
“Nếu chúng trở về - Lân
nói với Hạnh mà như thì thầm với chính anh. Anh sẽ dẫn em ra đầm xem chúng ăn.”
“Anh đừng nói vậy với
em. Em hư hỏng hết rồi. Không còn gì thuở xưa trở về với em được nữa”.
“Bầy mòng két sẽ về…sẽ
về”.
Sau hôm ấy, Lân thường
đạp xe xuống xóm thăm Hạnh như thuở xưa. Anh vẫn kể cho Hạnh nghe về cơn mơ có
những đàn mòng két trở về. Anh nói với cô rằng những cơn mơ gần đây anh ngửi
thấy cả mùi lông mòng két.
“Nhưng với em, những
ngày như ngày xưa không trở về được nữa.”
Hạnh nói. Mắt cô đỏ hoe.
Lân nhìn Hạnh và anh thấy vùng đồi này tất cả cũng sẽ trở về. Anh, anh muốn
vậy…
Lân chìm vào giấc ngủ. Gần sáng anh lại tỉnh
giấc. Trong giấc ngủ anh nghe tiếng bầy mòng két đập cánh rào rào. Anh ngồi dậy
trong đêm và nghĩ đó là một giấc mơ. Những tiếng rào rào vẫn từ trên cao dội xuống
“Hay là mưa?” Anh thầm hỏi. Những tiếng rào rào mỗi lúc một to. Giêng, Hai
không bao giờ có mưa to như thế. Anh vội nhảy ra khỏi giường và lao ra sân.
Trời không mưa. Chỉ có gió ấm thổi mênh mang và rạo rực khắp vùng đồi. Anh ngửa
mặt lên trời và nghe rõ tiếng đập cánh của bầy chim và cả tiếng kêu khe khẽ của
chúng. Tiếng đập cánh mỗi lúc một thấp dần về phía bờ đầm. Người anh run lên.
Anh lao xuống chân đồi. Đến bờ đầm, anh nhận ra âm thanh quen thuộc của bầy
chim ăn mồi trong những đám cỏ lác xanh rì. Anh quờ tay lấy một hòn đất và ném
về phía một đám cỏ lác. Một bầy mòng két
đập cánh và rào rào bay vụt lên.
“Về thật rồi! Về thật
rồi”.
Lân vừa kêu khẽ vừa chạy
men theo bờ đầm. Rồi đột nhiên anh quay hướng chạy về nông trường. Anh đi giầy,
mặc thêm áo ấm và dắt xe ra khỏi nhà. Anh cùng chiếc xe đạp cũ kỹ lao xuống
chân đồi.
Anh đi tìm Hạnh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét