Đêm xuống. Con thuyền neo lại giữa sông .
Ngọn lửa bếp trên mui thuyền hằn một vầng sáng dịu dàng xuống
mặt nước. Người trong xóm Trại trên bến Chùa không biết con thuyền từ đâu đến
neo lại trên khúc sông này đã hơn một tháng nay. Hàng ngày, những người trong
gia đình trên chiếc thuyền ấy làm một công việc là lấy cát rồi bán cho các gia
đình trên thị trấn nhỏ bên kia sông đang thi nhau xây nhà. Hơn một tháng không
ai thấy những người trên chiếc thuyền lên bờ. Họ đội cát bằng những cái thúng
to, đi nhún nhảy trên tấm ván. Khi đến đầu mép ván gối lên bờ, họ đổ cát xuống
bãi cỏ cho người mua, bàn chân không hề chạm vào mặt đất. Hàng xóm của họ là
những chiếc thuyền đánh cá, thuyền chở hàng thuê v.v…
Chủ chiếc thuyền cát là một ông già ngoài sáu mươi mốt,
mái tóc dài được búi gọn trên đầu, chòm râu bạc xoà che gần kín vồng ngực gồ
lên như tảng đá, Đôi vai ông u lên, đỏ sậm và rạn như vai trâu cày. Cơ thể ông
đanh lại như đá tạc. Nhưng đôi mắt thì khác, đôi mắt lúc nào cùng u buồn, ngơ
ngác như vừa đánh mất một điều gì.
Ông Lư (ông già chủ thuyền)
ngồi im lặng trên sàn gỗ ở mui thuyền. Bên cạnh ông là một thứ rượu do ông cất
lấy ngâm với củ cỏ gấu, loại củ già đen như sừng. Trước ông là một đĩa cá sông
nướng và một chiếc rổ con đựng những con trùng trục đã hấp chín với gừng khô.
Chiều nào ông cũng ngồi uống rượu như thế cho tới khuya và không hề động đến
một hạt cơm. Chỉ những đêm mua bão ông mới chịu ở trong chiếc nhà thuyền.
- Anh cả đâu?- ông khẽ gọi.
Tiếng ông trầm và nặng đổ xuống mặt sông đêm.
- Dạ bố bảo gì con ?- Một người đàn ông trạc gần
bốn mươi tuổi trong nhà thuyền chui ra.
-
Mai nghỉ
việc, lăn mặt trời thì đi Bãi Yên.
Đó là đoạn sông rộng và êm chạy ven chân một
dãy núi đá vôi. Dưới đáy giữa khúc sông đó là mộ người vợ bất hạnh của ông .Thế
là đã hơn mười năm rồi. Con sông đổ biết bao nhiêu nước ra biển cũng như ông có biết bao thay
đổi trên đời. Vào mùa hè cách đây hơn chục năm. Đó là mùa hè đầy bệnh tật và
đói kém. Dọc hai bên bờ sông ông qua, ngày nào cũng vọng tiếng kèn đám ma thảm
thiết và thấp thoáng sau những lùm tre gầy nhẳng, úa vàng là những chiếc cờ tang
vật vờ bay. Rồi vợ ông cũng trở thành nạn nhân của mùa hè ghê rợn ấy. Bà để lại
cho ông ba đứa con. Đứa con gái hồi đó mới hơn bốn tuổi.
Trong
suốt ba ngày ròng rã, ông ngồi trên mui thuyền trước xác vợ. Hai đứa con trai
ông vừa chèo thuyền vừa dỗ đứa em gái ốm
yếu của mình khóc ngặt nghẽo suốt ngày. Ông cập thuyền vào những xóm dân cư hai
bên bờ sông để xin được chôn cất vợ, nhưng không một nơi nào chấp nhận. Họ xua
đuổi gia đình ông như xua đuổi thứ ma quỷ chuyên đi gieo rắc cái chết. Họ sợ bị
lây bệnh dịch. Ông chỉ biết con thuyền và dòng sông. Đến tối ngày thứ ba ông ôm
xác vợ khóc. Giữa dòng sông mênh mang, con thuyền vật vờ trôi với một ngọn đèn
dầu heo hắt trên mui. Cuối cùng chỉ còn lại dòng sông mở rộng lòng đón nhận mọi
số phận. Ông chôn vợ xuống đáy dòng sông ở quãng khúc sông rộng và êm nhất. Ông
cùng hai đứa con trai dùng gàu sắt thường dùng để lấy cát đào thành một cái hố
dưới đáy sông và để người đàn bà yên nghỉ ở đó. Họ chở một thuyền đá xanh xếp
lên thành chiếc mộ để tránh nước cuốn đi. Đêm đó ông xoã tóc, đốt hương lễ thần
sông. Ông đổ hết cả một bầu rượu lớn xuống sông và nguyền rằng: Tất cả những
nhười trong gia đình ông không bao giờ đặt chân lên mặt đất. Họ sẽ sống hết
cuộc đời trên sông.
Ông luôn luôn nói với con cái rằng: Nếu chúng để gót chân
chạm vào mặt đất đôi bờ thì trái tim chúng sẽ biến thành tim quỷ, chúng sẽ trở
thành những con thú độc ác. Hàng năm cứ đến ngày giỗ vợ, dù công việc bận rộn
thế nào gia đình ông cũng nghỉ. Ông sắm sửa lễ vật và khi mặt trời khuất núi
thì cả gia đình chèo thuyền đến bãi Yên. Ông xoã tóc và mặc áo, đây là ngày duy
nhất trong năm ông mặc áo trừ những ngày mùa đông rét mướt. Sau khi làm lễ ,
ông cùng hai người con trai lặn xuống đáy sông sửa sang lại ngôi mộ.
Ít năm sau
người con trai cả lấy vợ. Cô dâu là con gái một bạn thuyền của ông. Ngày cưới
con, ông cho đứa con trai thứ hai bơi chiếc mủng nhỏ đi suốt mấy ngày dọc một
dải sông dài mời các bạn thuyền. Đám cưới được tổ chức ở Bãi Yên với hàng chục
chiếc thuyền các loại kết lại thành một chiếc bè lớn.
Đêm hôm sau, khi vầng trăng
cuối tháng hiện lên phía ven trời thì chiếc thuyền từ Bãi Yên trở lại bến Chùa.
-Bố! - Ông nghe tiếng cô
con gái út run run gọi ông ở phía sau. Cô ngồi xuống bên cạnh và ôm lấy cánh
tay ông - Bố đưa mẹ lên bờ đi. Bố đừng để mẹ ở mãi dưới sông nữa.
Đã bao nhiêu lần cô nói như
van lạy ông. Nhưng lần nào ông cũng nhìn cô bằng đôi mắt ngầu đỏ, u uất.
- Không đứa nào trong nhà
này được nói đến điều đó - Ông rít lên -Không đứa nào được giẫm lên lời nguyền
của ta.
Nhưng ngay sau đó chính
lòng ông đầy đau khổ, giày vò. Ông nhìn con xót xa. Chinh- đứa con gái duy nhất
của ông đã sinh ra trong chiếc thuyền trên dòng sông này. Ngày Chinh ra đời,
ông cắt rốn con thả xuống dòng sông và cầu nguyện cho con. Chinh lớn lên khoẻ
mạnh, dịu dàng và âm vang như dòng sông. Cô thừa hưởng sắc đẹp dịu dàng của mẹ,
lòng dũng cảm của cha và sự bí ẩn của dòng sông. Là đứa con gái duy nhất, nhưng
cô xông xáo, táo bạo hơn cả anh cô.
Những đêm trăng mùa hạ, cô thích
thả mình xuống dòng sông.Cô bơi mềm mại như một nàng tiên cá trong chuyện cổ. Đêm
đó có những đàn cá lạ lấp lánh trăng xuyên qua mặt nước bơi theo cô. Thỉnh
thoảng cô co người lại, hai tay ôm bó gối để cho cơ thể tuổi dậy thì lóng lánh
như giọt thuỷ ngân lắng dần xuống đáy sông. Rồi bất chợt, cô ngoi lên khỏi mặt
nước gọi bố và cười vang. Ông Lư ngồi trên mui thuyền nhìn về phía cô gọi, đôi
mắt chợt non tơ đến ngỡ ngàng. Ông không lo lắng gì khi thả cô xuống dòng sông
ngay cả trong mùa nước lớn, nhưng ông lại lo sợ nếu như con gái ông để gót chân
chạm vào đất đôi bờ.
Nhưng cô thèm khát đôi bờ.
Thuở mẹ cô còn sống, cô vẫn được mẹ đưa lên bờ đi chợ hoặc kiếm củi khô trên
những bãi vải, bãi ổi ven sông. Sau ngày mẹ cô mất, các anh cô và cô không ai
dám bước chân lên bờ. Và thế là hơn mười năm rồi, cuộc đời cô chỉ với con
thuyền và dòng sông. Cô thèm khát được đặt chân lên dải đất mịn màng phù sa. Cô
muốn được nằm trên thảm cỏ xanh ven đê làng. Có nhiều đêm cô bơi sát bờ và khi
nghe thấy tiếng lá ngô khua xào xạc, khi ngửi thấy mùi râu ngô non dịu ngọt và
mùi cỏ đêm hăng hăng, người cô lại cảm thấy nôn nao, nhịp tim cô dồn dập. Nhưng
sau đó cô phải quay mình trở lại con thuyền ngay khi đã nghe tiếng mõ gọi của
bố. Có một lần cô nhìn thấy một xác người chết trôi qua thuyền. Mặt nạn nhân bị
chém nhiều nhát, vết thương đã rữa toả mùi tanh nồng nặc. Cô ôm lấy bố run lên:
“Trời ơi, ai làm sao vậy bố? Bố vớt người ta lên bờ đi”. Người trên mặt đất họ
giết nhau đấy”. Ông Lư trả lời lạnh băng và đẩy cô vào nhà thuyền. Suốt ngày
hôm đó ông không cho ai chạm vào dòng sông. Ông nói: “Hãy để nước sông đêm cuốn
đi mọi bẩn thỉu của mặt đất. Đừng chạm tay vào nước sông cho đến sáng mai”.
Một lần khác cô hỏi Sỏi -
người anh trai cả của cô: “Anh không thích lên bờ à?” - “Trên bờ có cái quái gì
mà lên” - Sỏi nói - “Cứ ở đây, chẳng phải đụng chạm đến đứa nào. Làm gì thì
làm. Ngày xưa ở trên bờ tao thấy chúng nó suốt ngày cãi chửi nhau” - “Lúc nào
anh cũng ngày xưa, thế còn anh Cát?”, cô quay sang hỏi người anh trai thứ hai.
Cát đang nằm ngủ trên sàn thuyền: “Tao chán cảnh này lắm rồi, cứ như ở tù” -
“Mày tưởng trên bờ là thiên đường chắc? Nhà tù đấy em ạ, gà vịt cũng còn bị tù
nữa đấy!”. Sỏi nhìn Cát càu nhàu. “Nhưng chắc chắn đó cũng là cái nhà tù rộng rãi
hơn cái nhà tù thuyền này!” - “Ai, ai tù mày? Bố tù mày hay tao, hay con Chinh
tù mày?”- Sỏi thốt lên giọng the thé. Cát thủng thẳng: “Chẳng ai tù ai hết cả.
Ngu dốt nó tù tất cả” . Nói xong anh ngửa mặt lên cười. Rồi anh chống tay đứng
dậy đi lảo đảo và cười. Rồi tiếng cười vụt tắt. “Trời ơi” - Anh kêu lên nức nở -
“Một ông già độc đoán tự cho mình quyền ngự trị tất cả. Ông bỏ tù chính ông, bỏ
tù một cặp đực cái, bỏ tù một thằng hèn hạ như tôi, bỏ tù cả con bé đẹp nhưng
mù chữ. Tất cả ỉa đái xuống dòng sông rồi lại nói nước sông trong sạch, lấy
nước sông ăn, lấy nước sông uống!” - “Câm đi đồ mất dạy. Bố mà ở nhà bố sẽ giết
mày”. “Mất dạy hả? Có đứa nào được dạy dỗ gì đâu mà mất!”.
Buổi tối ông Lư trở về. Cô
con dâu thì thọt kể lại chuyện cãi nhau của hai anh em Sỏi cho ông nghe. Ông
nhìn Cát rồi nói: “Mày muốn lên bờ hả? Được: Ta sẽ chặt đứt đôi chân mày và vứt
mày lên bờ để xem mày có phải bò về với dòng sông không? - Nói rồi ông cầm lấy
lưỡi rìu ấn mạnh vào bắp tay, máu trào ra. Ông lấy lưỡi rìu lau máu và chém phập
vào mạn thuyền: “Hãy nhìn lưỡi rìu đi. Máu tao đã chảy ở đó. Sáng mai mày hãy
trả lời xem mày có thích lên bờ không?”
Rồi Cát cũng không lên bờ.
Con thuyền lại tiếp tục các công việc của nó. Thế rồi một mùa xuân lại đến.
Chinh đã sang tuổi mười bẩy. Một buổi sáng thức dậy ra mạn thuyền vo gạo, cô
bỗng thấy trên bãi sông bến Chùa, một thảm màu vàng tươi, một màu vàng xôn xao,
ấm áp ùa vào mắt cô. Hoa cải gặp gió ấm đêm qua đã bung nở. Mỗi khi có ngọn gió
chạy qua, cả bãi hoa vàng rợn lên như sóng. “Đẹp quá”- Chinh khe khẽ thốt lên.
Cái rá gạo từ từ tuột khỏi tay cô trôi theo dòng nước. Suốt cả ngày hôm đó cô
không thể nào rời tâm trí khỏi thảm hoa vàng kia. Một cái gì náo nức vẫy gọi
cô. Thỉnh thoảng có đêm tỉnh giấc, cô cảm thấy một cái gì chập chờn, quấn quít
ở đâu đây. Không phải tiếng nước sông chảy trong đêm, không phải tiếng reo của
ngọn lửa, không phải hương ổi chín từ bãi sông đưa lại, cũng không phải tiếng
gọi nhau của bầy chim ri từ những lùm dứa dại ven đê. Một cái gì đấy làm cô
đang chải tóc chợt dừng tay. Nó làm cho ngực áo cô bỗng đầy lên đến nghẹn thở.
Cái đó chợt đến, chợt đi, chợt rời ra, quấn quýt.
Một hôm, sau bữa cơm chiều,
cô nói với bố là cô đi thả lưới câu.
Ông Lư chiều con và dặn:
“Đi về sớm, trời lạnh đấy”. Cô vội vã cởi dây thừng neo chiếc thuyền mủng. Cô
không thả lưới mà bơi mủng vào bờ. Cô cắm mủng ở đó và đi về phía bãi cát. Đêm se
lạnh nhưng trời có trăng. Cô ngồi xuống bên cạnh luống hoa. Đôi tay nâng khẽ
những bông hoa cải ướt sương. Một ngọn gió lướt qua, những bông hoa đung đưa cọ
vào má cô. Người cô rung lên. Những bông hoa nhảy múa và trò chuyện trước cô.
Cô khẽ áp đôi môi mình vào hết chùm hoa này đến chùm hoa khác. Bỗng cô nghe
thấy mõ tre từ chiếc thuyền cái. Tiếng mõ được quy định thay tiếng gọi nhau của
những người sống trên sông. Một lúc sau tiếng mõ lại vang lên. Chinh cuống
quýt, cô quơ tay dứt những chùm hoa cải. Lần thứ ba, tiếng mõ nghe gấp và chói.
Cô biết bố đã nổi giận. Cô ôm bó hoa gãy nhàu chạy xuống bờ sông. Vừa ngồi vào
mủng, cô vội gõ trả lời và hối hả bơi về thuyền. “Mày đi đâu mà không trả lời”,
“Con tưởng bố gọi anh cả”. Ông im lặng nghi ngờ nhìn cô.
Rồi đêm sau cô lại tìm cách
lên bờ. Và trước khi trở lại thuyền, cô lại ngắt những chùm hoa cải mang về.
Nhưng đến đêm thứ ba thì có người phát hiện ra việc làm của cô. Đó là một chàng
trai chừng ba mươi tuổi, mặc một bộ quân phục đã cũ. Những ngày trước đó bà mẹ
chàng trai thường xuống bến sớm và phát hiện những luống hoa cải bà để giống
cho vụ sau bị ai đó ngắt nham nhở từng quầng. Bà ca thán với con và chàng trai
quyết rình bắt cho được kẻ phá hoại. Khi Chinh đang quỳ trước đám hoa cải vừa
vuốt ve chúng vừa thì thầm trò chuyện thì nghe tiếng quát khẽ nhưng gắt của
chàng trai. Cô giật mình hoảng hốt quay lại, và vẫn trong tư thế quỳ. Cô ngước
mắt lên nhìn chàng trai, người run lên vì sợ hãi. Cô không khái niệm được sự
sai trái do việc làm của mình, mà sợ hãi bởi trước cô trong đêm trăng lạnh là
một người lạ.
- Cô là ai? Cô làm gì ở
đây?
Chàng trai hỏi và bước lại
gần cô. Cô lúng túng đứng dậy. Chợt những làn mây mỏng tan đi. Ánh trăng trong
veo đổ tràn gương mặt cô. Bây giờ thì đến lượt chàng trai giật mình. “Đẹp
quá!”. Anh thầm kêu lên. Sao trong đêm trăng tĩnh lặng trên bãi sông ở một làng
quê hẻo lánh này lại xuất hiện một người con gái đẹp như thế? Chiếc áo tối màu
và ánh trăng làm ngời lên đôi bàn tay, cái cổ thon và gương mặt đẹp. Đôi môi cô
khẽ mím lại còn đôi mắt thì mở to. Chàng trai hồi hộp, liếc nhanh chơ thể cô và
nhận ra dưới lớp trăng mỏng, dưới lớp áo tối màu, là tuổi dậy thì nóng hổi, dịu
dàng và phập phồng thở.
- Em ở đâu đến? - Chàng
trai nói bằng hơi thở. Giọng nói và gương mặt đàn ông đầy độ lượng của anh đã
làm cho cô hết sợ. Cô mỉm cười nhìn xuống dòng sông, ở đó toả một quầng sáng
đèn dầu. “À”- anh chợt hiểu. Hàng tuần về thăm mẹ anh vẫn thấy chiếc thuyền lấy
cát neo ở bến sông làng. Biết vậy nhưng anh vẫn hỏi lại:
- Em ở dưới thuyền à?
Cô gật đầu
- Em thèm ăn rau cải à?
Chinh bật cười. Nụ cười
ngợp lên người anh. Anh thấy mình mê đi trong khoảnh khắc.
- Thế em muốn gì?- Anh lúng
túng hỏi.
Chinh không trả lời và giơ
một nắm ngọn cải nhiều hoa ra trước anh.
- Hoa cải? Em thích hoa
cải? - Anh ngạc nhiên hỏi. Cô gái lại gật đầu.
- Em về đây. Bố em gọi!
Anh bỗng hoảng hốt sợ cô
biến mất. Anh đứng lặng nhìn cô và rồi vội vã ngắt những chùm hoa cải. Chinh
nhận bó hoa cải từ tay anh rồi quay người đi xuống bến.
- Này em! - Chàng trai chạy
theo - Tên em là gì?
- Chinh.
- Anh là Thao. Nhà anh ở
kia kìa. Mai em lên nhé. Hoa cải nhà anh đấy.
Chinh mỉm cười gật đầu và
đi xuống bến. Anh nhìn theo. Đến lúc này anh mới nhận ra mái tóc như thiên thần
của cô. Anh ngửa mặt lên trời. Có lẽ mái tóc ấy đã từ vầng trăng chảy xuống.
Sáng
sau, Thao dậy sớm. Suốt đêm qua hầu như anh không ngủ. Anh nghe tiếng bà mẹ ca
thán dưới bếp: “Không biết đứa nào lại phá luống hoa cải đêm qua”. Thao mỉm
cười sung sướng. Anh chạy theo con đường nhỏ xuống bến sông. Ở giữa sông, chiếc
thuyền của gia đình Chinh nằm bình yên trên mặt nước. Một ngọn khói xanh toả ra
từ con thuyền lặng lẽ tan xuống mặt sông như sương. Thao đứng trên bờ hồi hộp
đợi, nhưng không thấy bóng một người con gái nào. Chỉ có hai người đàn ông đang
loay hoay làm gì đó trên mui thuyền. Hay là đêm qua anh nằm mơ. Có phải sự thật
đêm qua anh đã gặp một người con gái như thế không? Thao chờ mãi và cuối cùng
anh buồn bã trở lại bãi hoa cải. Bên luống hoa vẫn còn in những dấu chân. Và
cạnh đó là những cánh hoa cải rụng lấm tấm vàng.
Rồi
vào một đêm sau đó ít ngày, Chinh lại chèo chiếc mủng nhỏ lên bờ. Họ đứng nhìn
nhau trong ánh sáng mờ mờ của trăng bị mây mỏng che khuất. Họ chưa biết gì về
nhau nhưng cả hai đều nhận thấy có một cái gì đó mỏng, trong suốt đang đan quấn
vào họ như tơ nhện.
-
Bố em đi rồi - Chinh thì thào.
-
Đi đâu?
-
Bố đi có việc mấy ngày tận cuối sông.
-
Đêm nay em ở lại trên bờ với anh nhé. Em đừng về.
-
Bữa trước ở dưới thuyền em nhìn thấy anh, nhưng em không dám ra. Nếu anh nhìn
thấy em anh gọi thì bố em giết chết em.
-
Sao lại giết? - Thao hỏi và bật cười.
-
Thật đấy - Cô nói và nhìn anh bằng đôi mắt buồn, rồi cầm tay anh đi về phía bãi
hoa. Họ ngồi xuống giữa những luống hoa cải. Hơi thở họ phả nóng mặt nhau. Xung
quanh họ hoa cải vàng lấp lánh dưới trăng.
-
Anh yêu em! - Anh nói như phải cố gắng hết sức mình. Cô nhìn anh lặng lẽ như
không hiểu điều anh nói. Anh nâng gương mặt cô lên.
-
Anh yêu em.
Chinh
vẫn im lặng. Gương mặt cô như đang ngủ trong lòng đôi bàn tay anh. Anh cúi
xuống hôn cô và thấy cô rùng mình. Đôi môi cô khẽ mím. Cô không biết đó là tình
yêu. Cô chỉ thấy rằng ngực cô như bị nén chặt. Người cô bừng nóng. Cô cảm thấy
hơi ấm của mẹ cô từ những năm tháng xưa đang toả vào cô. Cô vội đứng dậy. Thao
ngơ ngác đứng theo. Bỗng cô ôm lấy anh khóc nức nở. Một lúc sau, cô ngước lên
nhìn anh và hỏi.
- Anh là người mặt đất à?
Thao không trả lời cô. Anh
ngước mắt nhìn dọc triền sông mờ hút trong trăng và khẽ thở dài.
Trời mỗi ngày một ấm lên.
Những cánh hoa cải rụng xuống mỗi ngày một nhiều. Rồi đến một hôm anh giật mình
nhận thấy hoa cải đã rụng gần hết, chỉ còn lại những bông nở muộn. Anh cứ cảm
thấy rằng khi cánh hoa cuối cùng rụng xuống thì Chinh sẽ biến mất.
- Em phải ở lại đây với
anh. Em sẽ ở nhà anh với mẹ. Em không được đi đâu cả.
Cô nhìn anh lắc đầu. Anh
rút trong túi một tờ giấy đưa cho cô.
- Anh chép thơ tặng em đấy.
Thơ Tago em biết không?
-
Em không biết chữ.
-
Sao, có thật thế không?
Anh
ngạc nhiên hỏi và lòng anh bỗng xót xa anh đỡ cô ngồi xuống và ôm cô vào lòng.
-
Anh em dạy em học. Anh cũng đang đi học đấy. Bây giờ anh giúp gì được em nào,
em nói đi!
Chinh
xoay người ngồi tựa vào lòng anh. Cô kể cho anh nghe cuộc đời của gia đình cô.
Cuối cùng cô quay lại nhìn anh và nói:
-
Em muốn nhờ anh một việc. Em muốn đưa mẹ em lên bờ.
-
Lên bờ! Đúng rồi. Chúng mình sẽ đưa mẹ lên bờ. Chúng mình sẽ để mẹ yên nghỉ ở
bãi sông này. Anh sẽ trồng nhiều hoa cải bên mộ mẹ.
Cô
gật đầu cười hạnh phúc.
Thế
là gần một năm gia đình ông Lư ở lại bến sông làng Chùa. Đôi khi họ cũng vắng
bến dăm ba ngày. Một mùa hè lại đến. Đêm đêm Chinh thích thả mình xuống dòng
sông. Bơi bên cô là Thao. Anh có một cơ thể khoẻ mạnh, cân đối. Năm năm rèn
luyện trong lực lượng đặc công nước đã cho anh vốn sức khoẻ và sự phát triển cơ
thể ấy. Sau ngày giải ngũ, anh thi vào đại học ngoại ngữ khoa tiếng Anh. Những
đêm trên dòng sông dịu dàng chảy, họ quấn quýt với nhau như một đôi cá thần.
Dòng sông bí mật truyền vào cuộc đời họ sức mạnh hạnh phúc và sự khổ đau. Một
lần khi đang bơi bên anh. Chinh thấy chóng mặt, cô ôm lấy vai anh thở dốc. Dòng
sông chợt dừng chảy, im phắc, lắng nghe cô, rồi bỗng trào lên những ngọn sóng
reo vui, nhảy nối nhau loan báo cho các loài thuỳ tộc biết điều hạnh phúc thiêng
liêng. Quanh họ, có những con cá bay lên khỏi mặt nước như một mảnh trăng con
lấp loá.
Như
thường lệ, vào ngày giỗ bà mẹ, cả gia đình ông Lư nghỉ việc nhổ neo về Bãi Yên.
Cũng chính là ngày này Thao thay Chinh đốt những nén hương cắm lên mộ của bà
mẹ. Thao đã bí mật đưa phần mộ của bà lên bờ mấy tháng nay và chôn ở ngay trong
ruộng nhà anh. Ở Bãi Yên sau khi làm lễ xong, ông Lư sai Sỏi lặn xuống đáy sông
để kiểm tra lại ngôi mộ. Gần một phút sau, tăm nổi lên súng sục và Sỏi nhao lên
mặt nước kêu thảng thốt: “Mộ bị phá! Mộ bị phá rồi”. Một ngọn lửa bỗng rát táp
vào mặt ông Lư. Ông lao xuống sông hít một hơi dài và lặn xuống. Những hòn đá
xanh đã bị vứt ngổn ngang. Ông Lư biết không phải nước mà có một người nào đó
đã phá ngôi mộ. Nhưng ai đã làm việc đó? Câu hỏi ấy làm máu ông sôi lên. Không
ai biết ngôi mộ này ngoài những người trong gia đình ông. Ông ngoi lên và ra
lệnh: “Thả gầu xúc cát xuống”. Họ bắt đầu đào. Sau gần nửa tiếng đồng hồ ông
mệt mỏi trèo lên thuyền. Ông lẩy bẩy bước lên cửa nhà thuyền đỡ lấy quả bầu khô
đựng rượu ngửa cổ lên uống.
-
Đứa nào? - Ông gầm lên - Đứa ..ưa..ưa..na..ào..ào?
Tiếng
ông kéo dài như tiếng rú khản đặc dội vào đôi bờ vọng lại rền rền trên mặt
sông. Tất cả những người trên thuyền cúi đầu im lặng. Trong góc nhà thuyền, Chinh
ôm chiếc gối vào lòng kinh hoàng.
Đến
gần nửa đêm chiếc thuyền mới quay trở lại bến Chùa. Ông Lư ngồi gục đầu trên
mui thuyền, trông ông già đi hàng chục tuổi. Hai người con trai im lặng chèo
thuyền.
Buổi
sáng hôm sau, mọi người dậy rất sớm. ở ngoài mui thuyền ông Lư vẫn ngồi đấy.
Ông đã ngồi như thế suốt đêm qua. Bỗng cô con dâu chạy từ trong nhà thuyền ra.
-
Bố! - Cô gấp gáp gọi ông và giúi vào tay ông một xếp giấy cũ nhàu.
-
Cái gì thế này? - Ông hỏi và giơ những tờ giấy ra… ông không biết chữ nhưng ông
linh cảm thấy một điều không bình thường trong những tờ giấy.
-
Cả đâu! - Ông gọi. Sỏi đang hút thuốc lào vội chạy ra - Mày đọc xem cái gì đây.
Sỏi
cầm lấy những tờ giấy và đọc. Trước khi mẹ Sỏi mất, ông Lư vẫn gửi Sỏi đến học
ở một trường làng cùng con một ông bạn thuyền làm nghề chở đò ngang.
-
Thưa bố. Đây là thư của một đứa nào đấy gửi cho con Chinh. Chúng nó nói chuyện
yêu đương. Nhưng con Chinh nó biết chữ đâu nhỉ.
-
Con Chinh đâu? Ra đây.
Ông
Lư gầm lên. Từ trong nhà thuyền, Chinh vừâ khóc vừa chui ra. Cô đã nghe thấy
câu chuyện vừa rồi.
-
Đứa nào? Của đứa nào? - Ông gầm lên và giúi nắm giấy vào mặt cô. Cô khóc nấc
lên.
-
Của … của anh ấy. Con xin bố. Con lạy bố!
Ông
Lư giáng một cái tát vào mặt cô. Chinh ngã vật xuống sàn thuyền. Cô chống tay
ngồi dậy khóc nức nở. Cô chắp tay lạy bố.
-
Con xin bố. Con lạy bố. Con và anh ấy yêu nhau.
-
Trời ơi! - Ông Lư kêu lên - Thế là nó đã lên bờ rồi. Nó đã đạp lên lời nguyền
của ta. Nó giết chết cả gia đình này rồi!
Ông
túm lấy mái tóc dài của cô, giúi đầu cô xuống sàn thuyền và vung rìu chặt mái
tóc. Ông nắm phần tóc bị đứt ném xuống sông. Một ngọn gió ở đâu ào đến. Gió
cuốn mái tóc lên không. Mái tóc bay rồi bời, quằn quại.
-
Đánh tuốt xương nó ra - Ông nói và rút chiếc cần câu trên mái liếp của nhà
thuyền quất vào cô vun vút. Chinh vòng tay ôm lấy bụng. Người cô giật lên từng
cơn. Một lúc sau ông dừng lại, túm lấy áo cô giật mạnh. Chiếc áo rách tan chỉ
còn lại hai đoạn tay áo.
-
Tao sẽ lột hết quần áo và vứt mày lên bờ….
Ông
nói đến đó bỗng dừng lại, mắt mở tròn.
Những
người trong gia đình ông cũng chững người lại nhìn cô. Trước mặt họ cô đang
ngồi khóc không thành tiếng, mái tóc đứt nham nhở dính bết vào lưng cô đầy máu.
Đôi vú cô hơi sệ xuống, núm vú thâm lại, chiếc bụng chửa đã năm tháng của cô
bây giờ bỗng to hẳn lên, hổn hển thở.
-
Nó có chửa. Nó có chửa, bố ơi!
Sỏi
thảng thốt kêu lên. Đôi mắt ông Lư đờ đẫn.
Chân
tay ông run lên như bị bệnh thần kinh.
-
Thảo nào… - Cô con dâu chặc lưỡi - đúng là con của ma của quỷ nên nhìn đẹp đến
lạnh cả người.
Đúng
lúc đó Thao bám mạn thuyền nhảy lên.
Anh
chạy lại ôm lấy Chinh.
-
Anh ơi! - Cô nấc lên.
-
Các người không được làm thế. Các người thật dã man. Thao rít lên, lòng anh đầy
đau đớn và uất hận. Ở sân nhà, anh đã nghe thấy tiếng kêu gào, khóc lóc của
Chinh. Anh chạy xuống bến và nhận thấy ông Lư đánh Chinh trên thuyền. Anh không
kịp cởi quần áo dài, cứ thế lao xuống sông bơi đến nơi con thuyền đậu.
-
Mày, chính là mày - Ông Lư bước lại trước Thao - Mày đã hại đời nó. Tao sẽ giết
mày. Tao phải giết mày.
-
Chính ông đã giết chết cuộc đời cô ấy. Ông đã chôn vùi bà mẹ dưới đáy sông lạnh
lẽo tối tăm, ông đã chôn vùi cuộc đời của con gái ông trên chiếc thuyền này.
-
Trời! Ngôi mộ … ngôi mộ. Ở đâu? Mày, mày… ngôi mộ.
-
Đúng! Chính tôi đã đưa ngôi mộ bà mẹ lên bờ. Con gái của ông đã nhờ tôi. Cô ấy
đã làm đúng lương tâm và lòng hiếu thảo của một người con. Chính ông và gia
đình này phải cảm ơn cô ấy. Bây giờ ông chỉ biết quyền lực của ông. Chỉ vài năm
nữa ông chết đi. Nhưng ông đã và đang đầy ải những người khác sống một cuộc đời
tối tăm vô nghĩa. Bây giờ ông phải cho cô ấy lên bờ.
Anh
cúi xuống nhìn xót xa tấm lưng cô, lưng Chinh bầm tím và ứa máu. Rồi anh ngẩng
lên nhìn mọi người nói:
-
Áo đâu? Đưa áo cho cô ấy mặc.
Cát
lặng lẽ đi vào nhà thuyền và mang ra một chiếc áo đưa cho anh. Anh mặc áo cho
cô và đỡ cô vào nhà thuyền. Một lúc sau anh bước ra nhìn ông Lư và nói:
-
Ông phải cho cô ấy lên bờ và chính cả ông nữa. Tôi yêu cô ấy và tôi sẽ cưới cô
ấy làm vợ.
- Mày là một con quỷ. Mày
đã phá hại gia đình tao. Mày phải mang trả lại cho tao ngôi mộ.
- Nếu ông chấp nhận cho cô
ấy lên bờ thì tôi sẽ chỉ cho ông biết ngôi mộ ấy ở đâu. Nhưng ông cũng không
được đưa ngôi mộ ấy trở lại dòng sông. Bây giờ tôi về lấy thuốc cho cô ấy.
Khi Thao đi mua được thuốc
cho Chinh trở về thì chiếc thuyền không còn trên bến Chùa nữa. Ông Lư đã cho
con thuyền nhổ neo ngay sau khi anh rời chiếc thuyền. Anh không biết con thuyền
đi về hướng nào. Anh quyết định chạy theo hướng dòng sông chảy. Ông Lư biết
trước chuyện đó. Ông căng buồm cho thuyền ngược dòng. Ông ngồi giữ bánh lái.
Còn Sỏi và Cát phải lên bờ để kéo phụ cho chiếc thuyền đi nhanh hơn. Mây đen
bỗng cuồn cuộn đổ về. Mưa ập xuống như trút nước. Dòng sông rộng nên gió càng
thổi mạnh. Thao vừa đi vừa thở trong mưa. Đất trời mù mịt. Trên sông lác đác có
những con thuyền cập vào hai bờ tránh bão. Cứ thấy bóng một con thuyền Thao lại
cất tiếng gọi. Nhưng chỉ thấy gió bão trả lời anh, anh rét run lên rồi ở trong
ngực như có một ngọn lửa. Ngọn lửa đốt nóng rát lồng ngực. Ngọn lửa chui qua cổ
lên mũi, lên miệng. Thao phải quay về nhà. Anh không đủ sức đi tiếp. Vừa về đến
nhà thì cơn sốt lên đến lúc cao nhất. Anh cố gắng thay quần áo và nằm vật ra
giường. Bà mẹ hốt hoảng đắp chăn cho anh và đi rang cám đánh gió cho anh. Đến
tối anh mê sảng, người nóng ran. Mọi người vội vã đưa anh đi bệnh viện. Mỗi khi
tỉnh lại anh lại hỏi:
- Thuyền về chưa?
Không ai hiểu câu anh hỏi.
Mọi người nhìn anh lo lắng. Còn anh cứ mỗi khi nhắm mắt thiếp đi lại thấy chiếc
thuyền, thấy dòng sông và Chinh đang bơi đến bên anh. Bỗng Chinh dừng bơi ôm
chặt lấy anh kêu lên khe khẽ. Gương mặt cô vừa đau đớn vừa hạnh phúc. Cô mỉm
cười và trán đầm mồ hôi. Rồi anh nghe tiếng trẻ khóc. Tiếng khóc âm vang náo
nức cả dòng sông. Anh bế đứa bé nâng lên khỏi mặt nước. Nhưng rồi đôi tay anh
nhẹ bẫng. Anh giật mình, đôi mắt dài dại mở ra nhìn mọi người, môi anh thì
thào.
- Thuyền đã về chưa?
Khi cơn sốt chưa kịp khỏi
hẳn, anh đã quyết đi tìm Chinh. Anh nói với mẹ rằng có lẽ hai tuần tới anh
không về nhà. Anh phải đọc một số sách tư liệu cho năm học mới. Anh lấy xe đạp
và bắt đầu cuộc hành trình dọc sông Đáy nhưng suốt một tuần đầu anh không có
được một tin gì về Chinh. Anh la cà ở những nơi thuyền tụ tập đông đúc. Anh kể
cho những người làm nghề sông nước về gia đình cô. Có người nói họ nhìn thấy
chiếc thuyền đó qua nơi họ đã ở mấy hôm trước. Ở trên mui thuyền có một cô gái
hai tay bị trói vào cọc.
Có người lại kể rằng họ
thấy một chiếc thuyền câu nhỏ cứ quay tròn trôi theo dòng nước, trong thuyền có
một đứa bé mới đẻ mắt tròn như mắt cá. Đứa bé ấy nhìn vào bờ cứ cười ba tiếng
lại khóc ba tiếng. Một đôi vợ chồng già không có con đã đón đứa bé .… Thao cứ
đi mãi theo những lời đồn đại như chuyện cổ tích của những những người dân chài
cho đến khi ra biển. Biển tít tắp không bờ bến và rền rĩ tiếng sóng.
Cho đến một buổi sáng. Thao
dậy sớm. Suốt cả bãi sông làng anh rực vàng hoa cải. Những cành hoa cải nhỏ
nhắn, mềm mại, ấm áp đung đưa trong gió. Thao bỗng thấy trái tim rung lên, đập
hối hả. Anh chạy ùa xuống bến. Bỗng anh quỳ xuống bên luống cải nhà mình. Trước
mắt anh, trên mặt phù sa rụng lấm tấm những cánh hoa mỏng và từ đó kéo dài
xuống bến sông là những dấu chân mỏng và nhỏ nhắn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét