Lần
nào về quê, tôi cũng ra thăm cô. Cô tôi ở trong một ngôi nhà nhỏ ngoài gò sông.
Đây là thiên đường của tôi trong những ngày ấu thơ. Quanh ngôi nhà của cô tôi
mọc um tùm những bụi hoa tầm xuân. Vào giữa Giêng thường có nắng ấm. Hoa tầm
xuân nở xối xả. Hoa nở hết chỉ trong một ngày một đêm. Hồi nhỏ, tôi hay xin mẹ
tôi cho ngủ lại với cô. Trong tiếng gió xuân thổi qua ngôi nhà, tôi nằm thu
mình trong lòng cô. Cả ngôi nhà nhỏ sực nức mùi hoa tầm xuân.
Cô là con nuôi của ông bà tôi. Không rõ quê quán cô ở
đâu. Ông tôi đi làm thuê thấy cô nằm khóc oe oe giữa đường bế về nuôi. Cô tôi
càng lớn càng đẹp. Cô mảnh mai, tóc đen như than, môi đỏ, mắt sáng và hay thẹn
thùng khi gặp người lạ. Năm cô mười sáu tuổi, ông bà tôi gả cô cho một chàng
thư sinh. Hai người sinh được một cậu con trai đặt tên là Hậu. Chồng cô đêm nào
cũng thức khuya đọc sách. Mùa hoa tầm xuân nở, chàng thư sinh thường hay lang
thang bên những bụi hoa tầm xuân. Đêm về lại đốt đèn làm thơ. Trong một năm
chàng làm được mấy trăm bài về hoa tầm xuân. Chung sống được năm năm thì chàng
thư sinh mất. Cô tôi chôn chồng ở ngay trên gò sông cạnh nhà. Sang Giêng ấm áp
gặp ngày có nắng cô tôi thường mang những bài thơ của chồng ra phơi và đánh
những khóm tầm xuân nhiều mầm trồng thêm bên mộ người quá cố. Ở quê tôi, chị bố
cũng gọi bằng cô. Và tất nhiên Hậu là anh tôi. Anh Hậu lớn lên giống cô như hai
giọt nước. Anh có tài bắt cá. Lên bảy tuổi anh tôi có thể kiếm cơm giúp cô. Từ
khi chồng mất, cô tôi cũng đã trở nên thạo công việc đồng áng. Nhưng dù vất vả,
dáng hình cô vẫn thế, ông tôi khuyên cô tái giá để có người đỡ đần. Cô tôi chỉ
cười. Đêm đêm, cô tôi đốt đèn đọc thơ của người chồng quá cố. Nước mắt cô cứ
nhỏ không biết bao nhiêu giọt xuống những trang giấy đã ố vàng.
Rồi
có một dạo, người làng tôi xì xào về cô tôi. Họ nói cô có quan hệ với một con
ma sông. Họ nói rằng đêm đêm cô tôi mở cửa đón con ma từ sông lên. Rồi đến giữa
đêm thì cô tôi tiễn con ma về sông. Có người nhìn thấy con ma ôm cô rồi nhảy ùm
xuống sông biến mất. Ông tôi nghe chuyện gọi cô tôi vào bảo:
“Thầy
chẳng bao giờ tin có ma quỷ. Nhưng con có đi lại với ai thì cho thầy biết”.
Cô
tôi cười và nói:
“Thưa
thầy con không nói chuyện với thầy u vì chẳng có chuyện gì. Đúng là anh ấy
thương con. Thi thoảng anh ấy bơi qua sông thăm con và cháu Hậu. Chứ có phải ma
quỉ gì đâu”.
“Nó
là người thế nào?” - ông tôi hỏi:
“Dạ,
anh ấy là bộ đội đóng quân bên kia sông, vợ anh ấy bị Tây càn bắn chết” - Cô
tôi thưa.
“Thế
ý con thế nào” - ông tôi thăm dò.
“Con
quí anh ấy, nhưng không quên chồng con được. Cứ vào mùa hoa tầm xuân nở, con
lại thấy chồng con về. Con chẳng tin có ma. Nhưng chuyện chồng con về thì có
thật, thầy ạ”.
Nghe
vậy, ông tôi thở dài:
“Con
thờ chồng nuôi con như thế thật đáng trọng. Nhưng thầy vẫn muốn con đi bước
nữa. Chẳng ai có thể trách con được”.
“Thầy
cho con nghĩ thêm” - Cô tôi nói và thở dài.
Nhưng
năm ngày sau buổi nói chuyện cùng cô, ông tôi mất. Cô tôi nói với anh bộ đội
rằng cô phải để tang ông tôi 3 năm. Tôi không biết hai người có hẹn ước gì với
nhau không. Anh bộ đội ấy vào chiến trường và sau này không thấy quay lại.
Anh
Hậu tôi lớn vụt lên. Người lạ thấy cô và anh Hậu đi với nhau cứ tưởng hai chị
em. Cô tôi hình như chẳng già đi chút nào. Có người nói vì cô tôi luôn thở bằng
hoa tầm xuân nên trẻ mãi. Tôi không hiểu chuyện này. Tôi chỉ nhớ chè ướp hoa
tầm xuân của cô thôi. Vào mùa xuân hoa cô tôi thường chọn hoa rồi sao vàng ướp
trà. Cô tôi chế biến nhiều món ăn có hương hoa tầm xuân như chè bột sắn. Nồi
nước gội đầu nào cô cũng bỏ thêm một dúm hoa tầm xuân khô. Có lẽ thế mà người
cô tôi lúc nào cũng phảng phất hương hoa tầm xuân.
Năm
anh Hậu mười bảy tuổi, cô tôi cho anh nhập ngũ. Khi anh Hậu đi B, cô tôi đưa
địa chỉ của người bộ đội đóng bên sông cho anh, căn dặn anh Hậu cố hỏi thăm
tình hình của người bộ đội đó. Hai năm sau, anh Hậu viết thư về cho cô tôi và
thông báo chú Am (tên người bộ đội) đã hy sinh. Cô tôi nhận tin đó ốm mất ba
ngày. Khỏi ốm, cô tôi nói ít hơn, nhưng vẫn trẻ đẹp như xưa. Người làng tôi
cũng hay bàn tán về sự trẻ và đẹp mãi của cô tôi. Nhất là đám đàn bà.
Anh
Hậu đi được ba năm thì có giấy báo tử. Cô tôi nhận được tin đau đớn này không
khóc. Nhưng cô bỏ nhà đi. Mấy tháng sau cô tôi trở về. Mọi người hầu như không
nhận ra cô tôi nữa. Cô tôi già đi như bị phép phù thủy. Bố mẹ tôi tha thiết mời
cô dọn vào ở với gia đình chúng tôi. Cô không nghe. Cô tôi lập bàn thờ ba người:
Chồng cô, chú Am và anh Hậu. Cô tôi muốn có một tấm ảnh của anh Hậu để thờ nhưng
không biết làm thế nào. Cuối cùng cô tôi tìm đến người vẽ truyền thần ở phố
huyện nhờ vẽ. Cô tôi nói với ông truyền thần cứ nhìn cô mà vẽ Hậu. Chỉ cần trẻ hơn và cho anh đội mũ
bộ đội có ngôi sao vàng và mặc quần áo lính. Ông truyền thần hỏi:
“Cậu nhà ta chức gì?”
Cô tôi nói cô tôi không biết.
Ông
truyền thần bảo:
“Tôi
cứ vẽ cậu nhà ta đeo quân hàm đại úy. Người chết rồi phong chức gì mà chẳng
được”.
Thế
là cô tôi có chiếc ảnh anh Hậu để thờ. Họ hàng nhìn thấy ai cũng phục ông
truyền thần không biết người mà vẽ giống quá.
Sau
đó, cô tôi vẫn ở lại ngôi nhà bên gò sông. Vào mùa hoa tầm xuân, cô tôi vẫn
chọn hoa để ướp trà và làm các món ăn quen thuộc. Vào ngày nắng ấm đầu tiên của
tháng Giêng, cô tôi lại mang thơ của người chồng đã khuất, thư của chú Am và
ảnh của anh Hậu ra phơi. Đêm đó, cô nấu chè bột sắn có hương tầm xuân và pha
trà. Rồi cô gọi tôi ra ăn chè, uống trà và đọc thơ của người chồng cho tôi
nghe. Những câu thơ tả hoa tầm xuân cánh mỏng, trắng hồng và mát như da con
gái, nhưng những câu viết kết lại thường có sương muối và gió lạnh. Những năm
cuối đời, cô tôi lẫn nhiều. Có bữa cô ăn rồi nhưng các cháu đến lại nói chưa
ăn. Các cháu vội nấu cho cô. Cô tôi lại bưng bát ăn. Nhưng giữa bữa chợt khanh
khách cười và nói: “Già cả lẫn lộn hết rồi, cô vừa nấu cơm ăn xong không nhớ,
lại bắt chúng mày nấu, khổ thế đấy!” Nhưng có mấy việc cô tôi không bao giờ
quên. Đó là chọn hoa trong mùa hoa, phơi thơ, thư và ảnh của những người thân
đã khuất.
Trong
đợt tuyên dương danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng, cô tôi được chọn.
Hàng không Việt Nam
nhận phụng dưỡng cô. Hàng tháng, họ chuyển tiền về cho cô. Cô tôi giành dụm số
tiền đó để cho mấy đứa cháu con nhà nghèo trong họ. Cô tôi vẫn ăn uống như xưa
với mấy vạt rau trên gò sông và một chum tương ngâm cà lưu cữu năm này qua năm
khác.
Cô
tôi mất vào một ngày hoa tầm xuân nở rộ. Cô thọ chín mươi tuổi. Đó là một buổi
sáng cô đang chọn hoa. Thấy mệt, cô cắp rá hoa về rửa mặt rồi lên giường nằm
ngủ. Và cô tôi không bao giờ dậy nữa.
Bố
tôi sai bọn trẻ hái thật nhiều hoa tầm
xuân. Bố tôi phủ đầy hoa tầm xuân lên thi thể cô tôi. Vừa rắc hoa, bố tôi vừa
nói: “Chị ơi em bỏ hoa cho chị để xuống đó chị ướp trà, nấu chè bột sắn và gội
đầu, chị nhé”.
Theo
nguyện ước của cô, họ hàng mai táng cô bên mộ người chồng cũ trên gò sông. Gò
sông bây giờ khác xưa quá nhiều. Một hệ thống lò gạch máy dựng lên làm mất hết
những bụi tầm xuân. Chỉ còn lại một vài khóm nhỏ mọc quanh hai ngôi mộ .
Một
chiều cuối năm tôi về thăm mộ cô. Ngôi mộ đã trở thành ngàn xưa. Cô tôi cũng
trở thành ngàn xưa. Chỉ những bụi tầm xuân vẫn còn đó, cằn cỗi và im lìm trong
giá rét đợi một ngày sang Giêng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét