Lần
đầu tiên Văn gặp Thảo là một ngày tháng mười. Con đường xuyên qua cánh đồng
buổi chiều thoảng sương, hơi se lạnh. Cỏ đã ít mầm và sắt lại. Suốt cả hai cây
số đường đê mặc cho Văn hỏi, nói rất nhiều, nhưng Thảo không một lời đáp lại.
Cuối cùng, Văn kinh ngạc nhận ra anh đang nói chuyện với một người câm.
Khi
Thảo rẽ vào con đường về làng cô, Văn lúng túng trong miệng và gật đầu chào cô.
Thảo quay lại nhìn Văn. Mặt Thảo đẹp lạ thường và u buồn hiện lên trong buổi chiều mênh mang, lẳng lặng
đến thổn thức của tháng mười khô sạch, làm Văn không thể nào quên được.
Khi
những lùm tre che khuất bóng Thảo, Văn giật mình nghĩ: “Có lẽ cô gái ấy là
người nhà Chánh Hợi ngày xưa”.
Buổi
tối, sau bữa cơm tối mệt mỏi của nhà nông, Văn nói:
-
Làng Vĩnh nhiều người câm quá.
-
Chỉ có nhà Chánh Hợi thôi. Mấy đời nay con cháu nó câm cả. Thật sướng.
Bố
Văn nói như rủa, rồi ngả mặt cười ha ha. Ông vê một mồi thuốc lào, châm đóm rít
nghiến ngấu. Tiếng điếu cày xé dài.
-
Lạ thật - Văn trầm ngâm - có lẽ di truyền?
-
Truyền chắt quái gì - Ông bố nói và vén hai ống quần lên quá gối - Trời Phật trừng phạt nhà nó.
Thế anh quên cái thù của nhà này rồi hả? Liệu đấy.
-
Chuyện cũ con vẫn nhớ. Nhưng tội là của Chánh Hợi, liên can gì đến con cháu lão
mà họ phải chịu mãi.
-
Thôi anh ơi, đừng có thương vay khóc mướn. Chánh Hợi đuổi cụ anh ra khỏi làng,
cướp nhà cướp ruộng, lại làm nhục cụ bà anh. Thế mà bây giờ anh còn xót thương.
Vứt mẹ cái đạo đức của anh đi. Liệu đấy.
Văn
im lặng, thở dài. Văn ra đê làng. Anh nằm xuống. Cỏ đã lành lạnh. Anh nhớ buổi
chiều tháng mười. Anh nhớ gương mặt Thảo. Anh xoay người nhìn phía làng cô. Tất
cả tối sẫm và xa xăm. Từ đó thoang thoảng tiếng chó. Anh thấy lòng không yên
tĩnh.
Có
một câu chuyện cũ buồn, cụ anh kể lại cho ông anh. Ông anh kể lại cho bố anh.
Bố anh kể lại cho anh. Câu chuyện mang cảm giác u uất, thương cảm. Nhưng lúc
này anh thấy câu chuyện thức dậy đau đớn trong lòng anh. Đau đớn không phải bởi
mối thù, mà bởi cô gái làng Vĩnh anh gặp trên cánh đồng tháng mười có liên quan
đến câu chuyện.
Chuyện
xảy ra giữa Chánh Hợi và cụ anh. Ngày ấy cụ anh là một trai làng khoẻ mạnh, mặt
sáng và cũng được theo thấy đồ làng học chữ. Cụ anh có cái tên lạ: Mặc, Mặc và
Chánh Hợi cùng tuổi nhau. Cả hai cùng yêu một cô gái làng. Cô gái ấy không
những đẹp nhất làng mà nhất vùng. Nhìn thấy cô gái ấy, kể cả kẻ có lý trí mạnh
cũng lú lẫn, mê mẩn như bị ma làm. Chánh Hợi dùng mối lái xin cưới cô gái làm
vợ nhiều lần. Nhưng lần nào cô cũng mỉm cười từ chối. Đêm đêm cô lại vượt qua
đê đến cái gò bên sông mọc đầy cây tầm xuân và dứa dại để gặp Mặc. Rồi hai
người cưới nhau. Chánh Hợi uất ức. Hắn vác dao chém đổ hết mọi thứ cây trong
khu vườn rộng của nhà hắn. Hắn thề tìm mọi cách làm nhục vợ chồng Mặc và đuổi
họ ra khỏi làng. Hắn tụ tập tay chân bàn định âm mưu. Bọn tay chân mang đồ thờ
ở đình làng vùi vào chuồng lợn nhà Mặc rồi báo cho tuần đến khám. Mặc bị mang
tội ăn cắp đồ thờ thiêng của làng giấu vào nơi bẩn thỉu. Biết chuyện ấy, người
làng thì nguyền rủa, đòi trị tội vợ chồng Mặc. Người thấu lòng dạ Mặc thì
thương xót, nhưng không ai dám mở miệng kêu oan cho vợ chồng Mặc. Chánh Hợi
chọn ngày xử phạt vợ chồng Mặc.
Sau
khi làm lễ rửa xú uế bám ở đồ thờ đình làng, Chánh Hợi mổ lợn làm lễ khao làng
và đứng ra luận tội Mặc. Hắn có quyền, có của nên muốn gì, làm gì cũng được.
Hắn bắt vợ chồng Mặc, lột quần áo, trói như trói lợn để giữa sân đình và sai
tuần đổ phân lợn vào mồm. Mặc thét kêu oan. Chánh Hợi vạch quần đái vào mồm Mặc
chửi:
“Mày
ăn cắp đồ thờ của làng, làm bẩn đồ thờ thiêng của làng, mày muốn thần Phật giết
cả làng, tội vợ chồng mày đáng chém, nhưng làng cho mày sống, nội nhật hôm nay
chúng mày phải đi khỏi làng”.
Đêm
ấy, tuần đến thúc vợ chồng Mặc rời làng. Hai vợ chồng Mặc ròng ròng nước mắt ra
đi.
Đến
giữa cánh đồng. Mặc uất ức định quay về sống chết với Chánh Hợi. Người vợ trẻ
ôm lấy chồng khóc: “Em xin anh. Em đã có thai hai tháng rồi. Anh làm liều con
nó không có cơ ra đời. Anh thương lấy con mà chịu nhục. Vợ chồng mình đi nơi
khác mà sinh sống”. Nghe vậy, Mặc nguôi đi, dắt vợ đến khu mộ tổ, dập mặt xuống
bùn mà cầu: “Thần Phật, tổ tiên linh thiêng hãy chứng giám cảnh này. Cầu cho
nhà thằng Hợi con cháu sau này không có lưỡi”. Cầu xong, Mặc dắt vợ bỏ làng ra
đi.
Gần
hai mươi năm sau Chánh Hợi qua đời. Lúc chết hắn mới có được đứa con trai ba
tháng với người vợ ba. Khi liệm, người nhà hắn cạy mồn để bỏ tiền, gạo thấy
lưỡi hắn thụt lại bằng cái lưỡi cóc. Rồi đứa con trai duy nhất của Chánh Hợi
lớn lên bị câm.
Vài
năm sau khi Chánh Hợi mất, Mặc đưa vợ con trở về. Nhưng vì thấy nhục và uất với
người làng thuở trước, không dám mở miệng kêu oan cho mình. Nên Mặc mua một
mảnh đất ở làng bên, cương quyết không về làng. Còn con cháu nhà Chánh Hợi sau
này đều câm cả. Không hiểu vì lời cầu của Mặc thiêng hay do bệnh tật gì.
Nghe
câu chuyện này không biết đã bao nhiêu lần rồi. Càng lớn Văn càng cảm thấy rùng
mình. Lòng anh thấy thương xót cho con cháu nhà Chánh Hợi, và lời cầu của cụ
anh xưa làm dày vò và đôi lúc thảng thốt. Nhất là khi biết Thảo là cháu gái mấy
đời của nhà Chánh Hợi thì lòng Văn rối loạn. Một cô gái đẹp như thế mà không
biết nói. Đấy là hậu quả của tội lỗi hay là sự đánh đổi của cái đẹp.
Khuya.
Gió đồng thổi lạnh. Sương đã ướt cỏ. Văn chợt tự hỏi: “Cô gái ấy đã ngủ chưa”.
Khi thức cô gái không nói được, trong mơ cô ấy nói được không?
Nếu cả trong mơ cô gái cũng không nói được thì
bất hạnh đến nhường nào.
Nghĩ
vậy, Văn dằn mạnh nắm tay xuống mặt đê. Anh thấy mệt rã rời. Anh đứng dậy đi về
làng. Chân bước chuếnh choáng. Quanh anh, tiếng chó làng cắn cẩu.
Bước
vào nhà, anh ngước mắt lên bàn thờ. Bố anh đêm nào cũng để đèn hạt đỗ ở đó. Anh
nhìn những chân hương chập chờn sáng tối, lẩm bẩm: “Con lạy tổ tiên ông bà hãy
cho con cháu nhà Chánh Hợi nói được”.
- Anh đi đâu giờ này mới về - Từ trong
chiếc màn đùng đục và trũng như đáy vó tôm, bố anh lên tiếng - Ngủ đi còn đứng
đấy làm gì?. Liệu đấy! Sáng mai xuống phòng Nông nghiệp huyện xem công việc thế
nào? ba năm học đừng có thành công toi. Liệu đấy.
Văn im lặng chui vào màn. Đêm ấy hầu
như anh không ngủ. Và câu hỏi “ Trong mơ cô gái ấy có nói được không” cứ bò lạo
xạo trong óc anh như con cua càng bò trong chiếc giỏ rỗng.
Chiều
hôm sau từ huyện về, anh mua một thẻ hương và ghé qua cánh đồng làng Vĩnh. Mộ
tổ họ anh vẫn ở đó từ xưa. Anh muốn cầu cho cô gái nhà Chánh Hợi nói được. Anh
ngồi nhìn khói hương bay dài trong gió. Cánh đồng tháng mười yên ả và chứa đựng
một thứ gì đó bí ẩn.
Chợt
anh nhìn thấy dáng người quen thuộc trên con đường chạy qua cánh đồng. “A, cô
gái câm”, Văn thầm kêu lên. Anh vội dắt xe theo bờ ruộng nhỏ lên con đường. Anh
đi về phía Thảo. Khi Văn đến trước mặt Thảo, cô khẽ ngước mắt lên và đi sát vào
mép cỏ tránh anh.
-
Chào em - Văn ấp úng.
Thảo
vẫn cúi mặt bươc đi.
-
Em có nhận ra tôi không? Chiều qua tôi đi cùng đường với em đấy.
Thảo
dừng lại. Cô nhìn Văn một lát rồi khẽ gật đầu. Văn khẽ rung lên. Gương mặt đẹp
rất lạ của Thảo làm Văn lúng túng. Mãi sau anh mới tìm được câu hỏi:
-
Em đi đâu về đấy?
Thảo
im lặng nhìn anh. Cô đôi khi cũng bị một gã thanh niên xa lạ chặn đường và hỏi.
Nhưng ánh mắt, giọng nói và cử chỉ lúng túng của Văn làm cô thấy yên tâm. Cô
giơ chiếc túi xách về phía Văn. Anh thấy chiếc túi có những miếng vải cùng một
cái thước thợ may và chợt nhận ra.
-
À, em đi học may, đúng không? - Văn hồ hởi.
Thảo
nhoẻn cười, gật đầu. Mặt cô hắt lên một vầng dịu dàng.
- Em tên là gì nhỉ?
Thảo lại im lặng nhìn anh. Sau đó cô lấy ngón tay viết
vào không khí.
- Anh không hiểu - Văn nói vội vã - Em nói ra đi anh mới
biết, em nói đi. Lúng túng, hồi hộp và cả sung sương làm Văn chợt quên rằng cô
gái không biết nói.
Mặt Thảo chợt tối. Cô bước
như chạy qua Văn. Văn hốt hoảng chạy theo.
-
Em ơi, anh… anh xin lỗi. Anh hiểu rồi. Anh xin lỗi em…
Thảo
vẫn bước đi như chạy. Nước mắt chảy trên mặt cô. Văn hấp tấp dắt xe đạp theo
sau cô. Bóng tối bắt đầu khẽ khàng dâng lên từ những chân cỏ.
Một
buổi chiều tháng mười sạch sẽ và thơm thảo nữa lại đến. Văn đến đoạn đường cuối
cánh đồng làng Vĩnh đợi Thảo. Thảo nhìn anh không còn xa lạ như những ngày
trước đó. Họ ngồi xuống bên mép cỏ. Cả hai im lặng nhìn ra cánh đồng rộng.
-
Em tên là gì?
Thảo
lấy trong cuốn sổ ghi chép các chỉ số may đo cô đang học và viết “Em tên là
Thảo”. Văn bất ngờ thấy Thảo biết viết. Chữ cô tròn trĩnh và đều đặn. Cô nhìn
Văn, viết tiếp “Thế anh tên là gì?”
-
Anh là Văn, ở làng Sóc. Anh xin lỗi vì hôm trước anh chặn đường em, hỏi tên em,
em có sợ không?
Thảo
viết: “Em không sợ, nhưng em buồn lắm, sao anh lại gặp em?”
Văn
nói:
-
Anh không biết. Anh chỉ muốn gặp em thôi.
Thảo
viết: “Vợ anh mà biết thì anh chết”. Viết xong Thảo cười.
Văn
vội vã:
-
Anh chưa có vợ, chưa có. Thế em?
Chiếc
bút chết đứng giữa những ngón tay Thảo. Cô khóc. Chiều tháng mười lặng xuống
rồi lại ngân lên quanh hai người.
Lát
sau, Thảo lại viết. Đôi môi cô bậm chặt: “Em không biết dòng họ em có tội gì mà
ai cũng bị câm. Em sợ lắm. Em là người bỏ đi. Anh đừng gặp em nữa, em khổ
thêm”.
-
Em đừng nói thế. Anh quý em, thật đấy. Anh nhớ em, thật đấy.
Thảo
khẽ lắc đầu, nhìn ra xa, im lặng.
-
Anh nói lừa em, Trời Phật trừng phạt anh.
Thảo
lại cúi xuống biết “Em tin anh. Chiều đi học về em cũng… muốn gặp anh. Nhưng
anh đừng gặp em nữa”.
-
Tại sao vậy? Anh có làm em phiền hà không?
Thảo
viết: “Em không biết”.
-
Anh dạy học em viết? Em viết đẹp lắm.
Thảo
viết: “Có lớp học ở gần nhà. Em hay ra đó xem trộm. Cô Dung người làng thấy vậy
dạy cho em. Bố em cũng dạy em. Bố em thương em nhất nhà”.
Trời
đã hết nắng. Sương đang mơ hồ dâng lên, Văn đặt bàn tay mình lên bàn tay bé
bỏng của Thảo. Anh thấy những ngón tay Thảo run rẩy. Văn thì thầm; “Anh nhớ em,
ngay từ buổi gặp đầu tiên. Anh biết hết chuyện của gia đình em, anh biết hết…
Anh biết có những lời nguyền…”
Thảo
vẫn để bàn tay mình trong tay Văn. Thảo nhìn Văn, đôi mắt mọng nước.
-
Anh đã thắp hương cầu xin thần Phật, tổ tiên phù hộ cho em nói được. Anh chính
là một đứa con của họ Lê. Chính cụ anh đã nguyền cho con cháu gia đình em không
nói được. Em có nghe chuyện này bao giờ chưa?
Thảo
vội rụt tay ra khỏi tay Văn. Cô mở to đôi mắt kinh hoàng nhìn Văn. Cô lập cập
đứng dậy. Văn hốt hoảng đứng theo và nắm chặt tay Thảo.
-
Hãy nghe anh nói đây, Thảo, hãy nghe anh nói. Giữa gia đình em và gia đình anh
có một mối thù ghê gớm. Em không có tội. Tại sao anh tìm gặp em? Tại sao anh
lại nhớ em? Tại sao anh lại thắp hương và luôn luôn cầu khấn cho em nói được.
Không phải sự thương hại. Không phải để xoá đi mối thù xưa, mà vì anh yên em,
anh yêu em.
Thảo
vẫn mở to đôi mắt nhìn anh. Trên gương mặt cô đầm đìa nước mắt tự khi nào.
-
Anh yêu em. Tất cả chỉ vì anh yêu em. Anh muốn sống cùng em - Văn nói như gào.
-
Huơ …u…ơ…hơ
-
Thảo bất chợt ngửa mặt và kêu lên. Đây là lần đầu tiên cô nói thành tiếng trước
mặt Văn. Đấy là ngôn ngữ của cô. Ngôn
ngữ của gia đình cô.
-
Huơ …u…ơ…hơ
Thảo
đứng như một cái cây, mặt hơi ngửa lên bất động, chỉ có cái miệng cô méo đi,
giần giật. Văn chết lặng. Anh thấy gió lạnh và lửa cùng thổi vào . Anh ôm lấy
Thảo. Thảo òa khóc.
-
Anh yêu em. Anh phải sống với em. Anh biết hết chuyện giữa hai gia đình ta thuở
xưa. Anh đã cầu khẩn cho em. Anh yêu… Anh muốn sống với em.
Thảo
khóc mãi, khóc mãi cho đên khi cô lả người vào Văn. Hai tay cô vòng lấy cổ anh.
Chưa bao giờ cô khóc như thế. Và cũng chưa bao giờ cô thấy đỡ tủi thân và ấm áp
như thế. Cô cảm thấy Văn gần gũi biết nhường nào. Cô thấy hạnh phúc nhen lên
trong lòng. Trên đầu họ, trời đã phẩy lấm tấm sao.
Một
buổi sáng, tiếng trống nhà thờ họ Lê bỗng dồn dập vang lên. Đó không phải là
một ngày giỗ họ. Đó là cuộc họp bất thường bàn về chuyện của Văn. Văn đã xin
phép bố mẹ được cưới Thảo. Ông bố kinh hoàng khi nghe chuyện đó. Ông đã doạ
dẫm, khuyên giải anh, nhưng không được. Ông cầu cứu họ hàng.
Khi
thấy những nhân vật quan trọng nhất của họ đã có mặt. Ông Quyền, trưởng họ
trịnh trọng lên tiếng:
-
Hôm nay họ họp bất thường vì có chuyện không lành. Anh Văn, con ông Vận xin
cưới vợ.
-
Tốt quá. Đến tuổi lấy vợ rồi còn gì.
-
Chuyện lấy vợ mà ông trưởng họ lại bảo là chuyện không lành, hơ hơ.
-
Mùa năm nay cũng khá, ông Vận cứ phải sắm năm chục mâm.
-
Mọi người im nào - ông Quyền gắt - Chưa nghe ra ngô ra khoai mà cứ nhao nhao
lên. Anh Văn xin cưới cái con câm bên làng Vĩnh, con cháu nhà Chánh Hợi, kẻ thù
của họ ta.
Ông
Quyền vừa dứt lời, tiếng nhao nhao lại nổi lên:
-
Ối giời ơi! Sao lại có chuyện lạ thế - Nhà ấy tha không chém hết cả lũ là may.
-
Xem lại cậu Văn có mắc bệnh dở hơi không?
-
Thế này, thế này - ông Quyền nói - Việc lấy con câm nhà Chánh Hợi thì không bao
giờ họ ta cho phép. Nhưng ngay chiều nay phải cử người xem khu mộ tổ có sạt lở
gì không? Ông Vận phải sắm lễ đến mồng Một vào mộ tế. Tôi cho triệu tập họ đến
để thông báo như vậy, cũng là để nhắc lại thù xưa. Ông bà, chú bác lo giáo dục
con cái. Còn anh Văn nhớ cho là, anh rước con câm về đây là anh giết cả họ, rồi
con cháu họ sau này câm hết.
-
Giết cả họ. Giết cả họ
-
Câm hết. Câm hết.
Tiếng
nhao nhao lại nổi lên. Văn vẫn ngồi cúi mặt im lặng ở góc nhà. Lòng anh đau
đớn.
-
Thế nào anh Văn - Ông Quyền cao giọng - Họ nói như vậy là đúng chứ? Anh là
người có học chắc anh hiểu.
Văn
từ từ đứng dậy. Anh chậm rãi nhìn mọi người.
-
Thưa các ông các bà, thưa cả họ. Chuyện thù hận xưa giữa họ ta, cụ thể là gia
đình cháu, với nhà Chánh Hợi thật không nên quên. Nhưng con cháu họ bị chịu thế
là đủ lắm rồi. Thiết nghĩ, họ ta cũng mãn nguyện mà xoá thùa xưa. Họ mình có
truyền thống thương người. Cháu mong họ thương cháu và cô Thảo. Âu cũng duyên
trời. Cháu xin họ cho cháu cưới cô ấy.
-
Anh là con cháu mà láo - ông Quyền dằn chén nước xuống mặt bàn - Anh coi họ là
cái gì. Tôi còn, họ còn thì anh không được mở mồm nói chuyện cưới xin nhục nhã
ấy.
-
Thưa ông Trưởng - Văn nói - Cô ấy không có tội. Chuỵên vợ con là do cháu quyết
định.
-
Này, tôi đố anh cưới nó đấy. Cứ
gọi là… nát xương. Anh làm nhục họ Lê chúng tôi à.
- Cưới hay không cưới không quan trọng, nhưng cháu vẫn
lấy cô ấy làm vợ, xin có lời trước với họ như vậy.
Văn nói xong bước vội ra ngoài. Ông Quyền run bần bật,
một lúc sau mới đập bàn hét:
- Nổi trống họ lên. Chúng bay lôi cổ thằng Văn về. Đánh
tuốt xác nó ra.
Phệ, trai họ, đang ngủ gật, nghe tiếng quát của ông
Quyền, vội vơ lấy dùi trống nện liên hồi. Mọi người nháo nhác, mỗi người một ý,
chẳng ai nghe ai.
Trời đã vào đông, Những bông hoa cúc trên mộ như sáng hơn
và ấm áp hơn. Văn đứng trước khu mộ tổ thì thầm: “Con không quên chuyện cũ.
Nhưng con nhớ không phải để tiếp tục trả thù. Sự trả thù luôn luôn là hành động
của kẻ quẫn trí. Con cầu mong tổ tiên hãy tha thứ cho con, hãy phù hộ cho con
và cô ấy. Con xin quỳ lạy tổ tiên tha thứ cho con cháu nhà Chánh Hợi từ nay
khỏi bệnh câm”.
Đợi cho hết tuần hương. Văn đi về cuối cánh đồng đợi Thảo
đi học may về.
Họ nhìn thấy nhau từ xa. Chân họ ríu lại. Khi đứng trước
nhau, cả hai thấy ngạt thở. Văn cầm tay Thảo, cánh đồng chợt hửng ấm. Họ ngồi
xuống mép cỏ.
- Anh đã nói với gia đình là anh sẽ cưới em
Thảo nhìn xuống lắc đầu.
- Em không đồng ý ư?
Cô lại lắc đầu
- Tại sao? Tại sao hở em?
Cô im lặng rút cuốn sổ học may và viết: “Em sợ lắm. Chúng
mình không lấy được nhau đâu. Em không thể làm khổ anh”.
- Em không yêu anh ư?
Thảo lại viết: “Không phải thế. Nhưng em không lấy được
anh. Em là người tàn tật. Cả gia đình em tàn tật”
- Đừng nghĩ thế nữa. Anh
yêu em. Hãy nói với anh một lời đi. Nói đi em.
Thảo quay lại nhìn Văn. Đôi môi cô giần giật:
- O…ứ…oa…ê…
Và cô khóc. Cô ôm chầm lấy Văn, ngửa mặt lên trời khóc
như tru. Lòng Văn như bị cắt từng nhát.
- Em ơi! Thảo ơi - Văn thổn thức.
Thảo gật đầu thay câu trả lời.
- Em đồng ý làm vợ anh nhé?
Thảo lắc đầu trên vai Văn.
-
Sao vậy em? Thảo ơi!
Thảo
lấy bút viết: “Em sợ…”
-
Có gì làm em sợ mãi thế?
Thảo
khóc và viết: “Em sợ những đứa con của chúng ta ra đời sẽ không nói được như
em”.
Viết
đến đó, Thảo vứt bút và khóc to hơn.
-
Không có chuyện đó. Hãy tin anh. Tình yêu của chúng mình sẽ làm cho những đứa
con biết nói. Thật thế mà.
Thảo
gục đầu vào ngực Văn. Cô như thiếp đi trong sự rã rời của đau khổ, sợ hãi và cả
hạnh phúc bất ngờ.
Một
buổi sáng Thảo bỏ học may. Ông bố cô ra hiệu hỏi “Con không đi học à?” Thảo lắc
đầu “Ốm hay làm sao?” “Con có chuyện muốn nói”- Thảo trả lời bằng ra hiệu. ông
bố hất hàm như có ý nói “Có chuyện gì thế?”. Thảo lấy giấy bút viết: “Có người
làng Sóc muốn xin cưới con”. Ông bố sững sờ. Đôi mắt ông chợt tứa ra hai giọt
nước mắt hiếm hoi. Đã mấy chục năm nay, con trai gia đình ông cũng có người lấy
được vợ, dù là lấy vơ lấy váo. Nhưng con gái trong gia đình ông chưa hề có ai
xin cưới bao giờ. Họ chỉ có thể đi làm người ở cho những gia đình ở tận miền
ngược. Cả vùng này ai cũng biết bệnh câm di truyền của gia đình ông. Thế mà bây
giờ con gái ông có người hỏi làm vợ. Sau giây phút sững sờ, ông thấy hoảng sợ.
Nhưng con gái ông đang ngồi trước ông, đẹp và buồn. Ông cầm bút viết:
“Chuyện
như thế nào? Nó là con nhà ai? Ở đâu?” “Anh ấy ở làng Sóc, con ông Vận. Anh ấy
nói nhà ta và nhà anh ấy có mối thù. Nhưng anh ấy yêu con, muốn con làm vợ”.
-
Ơ a…hu…u…u
Ông
bố kinh ngạc kêu lên. Sau tiếng kêu ông bật khóc. Thảo ôm lấy cánh tay bố. Một
lát sau ông bố vừa lau nước mắt vừa viết: “Nhà Vận thù nhà ta. Nhà Vận nguyền
cho nhà ta câm”. Thảo giằng lấy bút từ tay ông bố: “Anh ấy tốt lắm, thương yêu
con lắm. Con yêu anh ấy. Con không bỏ được”.
“Nghĩ
lại con ơi! Kẻo nhà Vận nó lừa để làm nhục nhà ta đấy”. Ông viết vội vã những
dòng chữ xiêu vẹo. “Không, anh ấy yêu con. Chúng con sẽ cưới nhau. Bố ơi, bố
hãy thương con, thương lấy con”. Thấy con nói vậy, ông ôm con vào lòng. Nước
mắt ông đầm đìa trên mặt. Rất lâu sau ông viết:
“Bố
thương con, bố không cấm con. Nhưng đây là ý của anh ta, còn gia đình và họ
hàng anh ta sẽ không bao giờ để cho con cháu họ quan hệ với những người trong
gia đình nhà ta đâu, con ạ”. “Con biết, anh ấy đã nói với con tất cả từ một
tháng nay rồi”. “Nó kể cho con nghe hết rồi ư?”. Thảo gật đầu. Ông bố thở dài.
Sau
bữa cơm tối, ông bố Thảo ra hiệu cho tất cả người trong nhà tập trung lại. Ông
vừa u ơ vừa lấy tay làm hiệu, kể lại câu chuyện giữa Thảo và Văn cho gia đình
biết. Khi ông vừa kể xong thì tất cả mọi người đều hướng mặt ra cửa về phía
cánh đồng làng Sóc kêu lên giận dữ như tiếng kêu hú của con người buổi sơ khai.
Ông bố lấy tay ra hiệu mọi người im lặng. Ông nhìn Thảo và từng người một. Rồi
ông chỉ về làng Sóc và chỉ vào Thảo. Ông bố lấy ngón tay áp vào nhau tỏ sự đồng
ý cho họ lấy nhau. Sau đó, ông nhìn từng người, rồi ung dung biểu thị sự dứt khoát
của ông. Tất cả mọi người im lặng, cúi mặt buồn bã. Ngôi nhà chìm vào im lặng.
Chỉ còn ngọn đèn dầu sáng vàng ở giữa vòng người.
Đến
khuya ông vẫy Thảo đến bên ông. Ông viết những lời dặn con: “Nếu các con có
lòng thương nhau thì phải đưa nhau đi thật xa mới có thể sống được. Sẽ không có
lễ cưới như mọi người đâu. Bố thương con, nhưng không làm gì được. Bố biết
chuyện gì sẽ xảy ra sau này. Nhưng con hạnh phúc là bố vui. Sướng khổ thì chịu,
cùng đừng trách oán tổ tiên, ông bà. Giời đất cho thế nào thì được thế”.
Rồi
sau đó. Vào một đêm mưa gió lạnh giá, Thảo gói ghém ít tư trang và rời nhà ra
đi. Ôn bố lặng lẽ đưa con đến cuối làng. Ông ôm lấy con và khóc. Trong bóng đêm
buốt lạnh trên con đường cánh đồng cuối làng. Hai bố con ông “Hu…hơ…” dặn dò,
an ủi và cầu nguyện cho nhau.
Văn
đón Thảo ở đoạn giữa cánh đồng. Họ ôm nhau rất lâu. Rồi cả hai dắt nhau bỏ quê
ra đi. Văn đưa vợ về làng chài ở huyện Hậu Lộc, Thanh Hoá. Ở đây anh có một
người quen.
Khi
phát hiện ra Văn và Thảo cùng nhau bỏ quê đi mất, người họ Lê hùng hổ kéo đến
nhà bố đẻ Thảo. Dẫn đầu là ông Quyền. Họ ùa kín vào sân nhà Thảo hò hét, chửa
rủa. Họ tràn ra vườn chặt phá cây cối. Nhiều người bứt vội cam quít còn xanh bỏ
đầy túi áo, túi quần.
Ông
bố Thảo đứng im lặng trên hè nhà. Sau ông là tất cả những người trong gia đình
này. Gương mặt họ u tối.
Ông
Quyền bước đến trước mặt bố Thảo, chống tay vào sườn hỏi như quát:
-
Lũ con cháu nhà Chánh Hợi kia. Chúng mày còn món nợ tày trời với họ chúng ông,
giờ lại để con gái rủ rê người họ chúng ông bỏ làng lần nữa. Muốn sống cho
người đi gọi con gái chúng mày mang trả lại người họ chúng ông. Nếu không chúng
ông đốt nhà.
-
U…ứa…ớ - ông bố Thảo huơ tay như phân bua
-
Hê…á…ủa…
-
Đ. Nghe mày nói. Câm cả nhà không nhục mà lại còn định làm đĩ, dụ dỗ trai họ
ông à.
-
Á… ê… hú…ô…
-
Chúng ông đếch nghe. Chúng ông đếch hiểu gì cả.
-
Nó có hiểu gì đâu mà chửi.
-
Đ.hiểu cứ chửi. Đánh cho chúng nó một trận.
Tất
cả những người họ Lê có mặt ở đó chửi bới gào thét. Họ đập phá những gì có thể
đập phá. Cái gì có thể lấy được là họ bỏ túi… Cuối cùng một thanh niên xoè diêm
đốt cây rơm ở góc sân. Trời đang hanh, rơm gặp lửa bốc ngùn ngụt. Trên hè nhà,
những người câm nhà Thảo vẫn đứng câm lặng sau ông bố Thảo. Khi ngọn lửa cây
rơm bốc cao, những người họ Lê hò hét nhau rút lui. Họ tập trung lại ở nhà thờ
họ. Trưởng họ đốt hương, quỳ xuống vái. Sau đó ông mang cuốn sở ghi tên đàn ông
của họ ra gạch tên Văn. Rồi dõng dạc tuyên bố với tất cả họ từ giờ phút này Lê
Đức Văn không phải người họ Lê nữa.
Vào
một ngày biển động, một đứa bé cất tiếng chào đời ở một làng chài. Nó là đứa
con của Văn và Thảo. Người bố ứa nước mắt và nói.
-
Con nó biết khóc em ơi!
Thảo
gật đầu nhìn chồng. Nhưng đôi mắt mệt mỏi của người mẹ đầy lo lắng. Mấy ngày
sau khi sinh con, Thảo vẫy chồng lại ra hiệu cầm bút giấy. Văn mang bút giấy
cho vợ, chị viết: “Em vẫn sợ lắm anh ạ, không hiểu Trời Phật có cho con nó làm
người bình thường không?”
-
Cu cậu khóc to lắm. Người ta nói ai sinh mà biết khóc là biết nói.
Thảo
viết: “Gia đình em sinh ra ai cũng biết khóc cả, thế mà tất cả không nói được”.
-
Em đừng lo lắng nhiều. Em định
đặt tên con là gì?
Thảo viết: “Em không biết, tuỳ anh”.
Văn hồ hởi:
- Anh đặt tên con là Ngôn, Lê Minh Ngôn.
Thảo ứa nước mắt, mỉm cười, gật đầu.
Thằng Ngôn lớn lên khoẻ mạnh. Và khi nó cất tiếng gọi “ẹ
ơi” thì cả hai vợ chồng ôm lấy nhau, đầu đìa nước mắt.
“Con tôi không câm, con tôi không câm”. Suốt ngày hôm đó
Văn lảm nhảm nói như một người điên. Văn mổ gà, nấu xôi mời hàng xóm bạn bè đến uống rượu chung vui.
Thằng Ngôn không câm. Nhưng bước sang tuổi thứ sáu nó vẫn
bị ngọng. Văn đi khắp nơi tìm mọi thứ thuốc và hỏi cả những mẹo chữa dân gian
cũng không làm đứa bé khỏi bệnh.
Mọi ngày biển động Văn không đi biển. Vợ anh ngồi cùng
anh vá những tấm lưới rách. Thằng Ngôn nghịch ngợm chui vào đống lưới kêu lên:
- On à on á! On à on á! (Con là con cá! Con là con cá)
- Chui ra. Tao quật chết bây giờ - Văn gào lên.
Thằng bé lập cập chui từ đống lưới ra. Nó nhìn bố đầy sợ
hãi và oà khóc. Thấy nước mắt con, Văn không chịu nổi, anh ôm con vào lòng.
- “On êu ố, on êu ố ắm” (Con yêu bố, con yêu bố lắm).
Thằng bé mếu máo.
Nghe con nói, lòng Văn như dao cắt. Mắt anh ứa lệ. Anh vò
mái tóc lẫn đầy cát biển của con. “Trời ơi! - Lòng Văn run lên - cả tiếng yêu
thương mà con ta cũng không nói được”.
Văn vụt đứng dậy. Anh đi ra bờ biển. Những chiếc lá phi lao rít lên nóng
bỏng bởi gió cát. Mây ngùn ngụt bốc lên từ biển, Hải âu nháo nhào đặc trời và
kêu lên thất thanh.
Văn lảo đảo bước đến mép sóng và từ từ quỳ xuống. Anh
ngửa mặt lên, hai tay vươn lên trời như cầu nguyện, như phán hỏi. Toàn thân anh
rung lên như một cây buồm trong bão, và lòng anh gào hỏi: “Biển triệu năm vẫn
mang tiếng biển, hải âu sinh ra triệu năm vẫn nói tiếng hải âu, cớ sao có những
con người sinh ra như con ta lại không được nói đúng tiếng người”.
Một đợt sóng mới ào đến khắp người anh. Sóng mang về một
mảnh thuyền vỡ. Mảnh thuyền bị nước mặt ăn mòn rỗ. Mảnh thuyền đã trôi dạt bao
nhiêu năm rồi trên biển để nay về lại với bờ bến. Nó nằm lại trên cát ướt và ấm
trầm giọng gỗ kể lại cuộc đời thuyền. Một đợt sóng nữa lại ào tới. Sóng mang về
những vỏ ốc nhỏ trắng xanh. Vỏ ốc nằm lại trên cát và kể lại cuộc đồi nó bằng
giọng âm ỉ ngai ngái trong gió biển triền miên.
- Hỡi biển cả! Hỡi biển cả!
Văn kêu lên bằng cả ký ức và nỗi khát khao vô bờ. Một
ngọn sóng mang mang đi qua người anh. Và trong khoảng khắc đồng hành cùng nước
và muối, lần đầu tiên nghe thấy biển cất lên tiếng người từ chính máu thịt anh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét