(Nhà cách mạng yêu nước).
Cách đây mười năm, nhân một chuyến công tác ở tỉnh Quảng Ngãi, tôi được đồng nghiệp ở Đài PT-TH tỉnh này hướng dẫn đến núi Thiên Ấn thăm mộ nhà cách mạng yêu nước Hùynh Thúc Kháng.
Núi Ấn nằm ở tả ngạn sôngTrà Khúc. Núi có hình quả ấn nên gọi là núi Ấn. Núi ôm lấy sông, sông lượn lờ quanh núi, cảnh quan nơi đây trông giống như một cái ấn trời đóng xuống lòng sông Trà nên cổ nhân gọi cảnh này là Thiên Ấn Niêm Hà. Núi Thiên Ấn nằm ở huyện Sơn Tịnh. Men theo con dốc quanh co, nếu đi bằng xe máy thì từ đường lộ đi khoảng 3km sẽ đến đỉnh ngọn núi Thiên Ấn. Bóng của Thiên Ấn in đậm xuống lòng sông Trà Khúc phẳng lặng giống như bức tranh thuỷ mặc hữu tình, khiến cổ nhân trào dâng cảm xúc:
Niên xuống dòng sông dấu nghĩa tình.
Ngàn thu không nhạt dấu son xinh.
Non về với nước cơn triều lũ.
Nước đến cùng non bức hoạ hình.
Mộ cụ Hùynh nằm ở phía Tây Nam núi Thiên Ấn, trên một vùng đất cao ráo, đầu hướng về phía sông Trà khúc, bốn bề gió lộng, không khí nơi đây trong lành, yên tỉnh. Nghe các bạn ở Quãng Ngãi kể lại, nơi này cụ Hùynh chọn làm nơi an nghỉ của mình lúc cụ còn sống nên tuy quê cụ ở tỉnh Quảng Nam, nhưng khi cụ mất thì chôn cất nơi đây, thuộc tỉnh Quảng ngãi.
Trên bia mộ cụ Huỳnh có tạc thư của chủ tịch Hồ Chí Minh gửi khi cụ mất như sau:
“Cụ Hùynh là một người học hành rất rộng, chí khí rất bền, đạo đức rất cao, vì lòng yêu nước mà trước đây cụ bị bọn thực dân làm tội đày ra Côn đảo mười mấy năm trường, gian nan cực khổ nhưng lòng son dạ sắc yêu nước thương nòi của cụ Hùynh chẳng những không sờn lại thêm kiên quyết.
Cụ Hùynh là người mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo khổ không làm nản chí, oai vũ không làm sờn gan.
Cả đời cụ Hùynh không cần danh vị, không cần lợi lộc, không thèm làm giàu, không thèm làm quan.
Cả đời cụ Hùynh chỉ phấn đấu cho dân được tự do, nước được độc lập.”
Cụ Hùynh Thúc Kháng, sinh tháng 10 năm 1876 (Bính Tý) tại thôn Thanh Bình, tổng Tiên Giáng Thượng, huyện Tiên Phước, phủ Tam kỳ ( nay là xã Tiên Cảnh, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam).
Hùynh Thúc Kháng lúc còn nhỏ đã nổi tiếng văn hay, chữ tốt. Năm Canh Tý (1900), ông dự kỳ thi Hương, đậu giải nguyên. Năm Giáp thìn (1904) ông đỗ Tiến sĩ lúc 29 tuổi. Ông cùng với Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh và Trần Quí Cáp là những nhà lãnh đạo phong trào Duy Tân. Vì lý do này nên năm Mậu Thân (1908) cụ bị bắt đày ra Côn Đảo suốt 13 năm (từ 1908-1921) mới trả tự do. Năm 1926 cụ đắc cử dân biểu, được cử làm Viện trưởng Viện dân biểu Trung kỳ. Trong 3 năm họat động ở Viện này, cụ Hùynh Thúc Kháng tích cực đấu tranh trong nghị trường, rồi nhân việc chống lại Khâm sứ Pháp Jabouille, cụ từ chức. Năm 1927 cụ sáng lập ra nhà in Hùynh Thúc Kháng và tờ báo Tiếng Dân, cụ làm chủ nhiệm nhà in và chủ bút báo Tiếng Dân tại Huế cho đến khi tờ báo bị đình bản vào năm 1943.
Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh mời cụ Hùynh Thúc Kháng tham gia nội các Chính phủ liên hiệp lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với chức vụ Bộ trưởng Bộ Nội vụ.
Năm 1946, khi Hồ Chí Minh sang Pháp đàm phán, cụ Hùynh được cử làm Quyền Chủ tịch nước.Thời gian này cụ còn là Chủ tịch Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam (Hội Liên Việt). Cuối năm 1946 cụ là đặc phái viên của chính phủ vào cơ quan Uỷ ban Kháng chiến hành chính Nam Trung bộ tại Nghĩa Hành tỉnh Quảng Ngãi. Nghĩa hành lúc bấy giờ là an tòan khu, là thủ phủ của vùng tự do Liên khu V.
Tháng 3 năm 1947, cụ Huỳnh lâm bệnh nặng, cụ qua đời đúng vào ngày 21 tháng 4 năm 1947 tại gia đình chị Võ Thị Tuyết ở thôn Phú Bình, xã Hành Phong, huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi. Làm theo tâm nguyện của cụ, nhân dân đã đưa cụ an táng trên đỉnh núi Thiên Ấn. Nơi đây là địa nhất thắng cảnh của tỉnh Quảng Ngãi.
Trong bài điếu văn “Thương tiếc cụ Hùynh Thúc Kháng” của Uỷ ban kháng chiến hành chính tỉnh Quảng Ngãi đã kết thúc bằng hai câu đối :
“Làm nghệ sĩ không vinh, tù Côn Lôn không nhục, khí tiết cội Tùng trơ mộ gốc.
Lãnh bộ trưởng trọn tài, quyền Chủ tịch trọn đức, tinh anh sao Vĩ chiếu ngàn thu.”
Trên đỉnh núi Thiên Ấn còn có chùa Thiên Ấn nằm ở phía đông giữa lùm cây cổ thụ rậm rạp. Ngôi chùa cổ này được xây dựng từ thế kỷ XVII, đã được chúa Nguyễn ban cho biển ngạch “Sắc tứ Thiên An tự.” Năm 1717. trong khuôn viên chùa Thiên Ấn có cái giếng sâu hun hút được gọi là giếng Phật. Chùa còn có quả chuông lớn được thỉnh về từ làng đúc đồng Chú Tượng năm 1845, dưới triều vua Thiệu trị, tục gọi là chuông Thần. Giếng Phật, chuông Thần đã đi vào thơ ca, thủ khoa Phạm Trinh từng có thơ:
Giếng Phật mạch sâu mùi nước ngọt.
Chuông Thần đêm vắng giọng đưa thanh.
Núi Ấn nằm ở tả ngạn sôngTrà Khúc. Núi có hình quả ấn nên gọi là núi Ấn. Núi ôm lấy sông, sông lượn lờ quanh núi, cảnh quan nơi đây trông giống như một cái ấn trời đóng xuống lòng sông Trà nên cổ nhân gọi cảnh này là Thiên Ấn Niêm Hà. Núi Thiên Ấn nằm ở huyện Sơn Tịnh. Men theo con dốc quanh co, nếu đi bằng xe máy thì từ đường lộ đi khoảng 3km sẽ đến đỉnh ngọn núi Thiên Ấn. Bóng của Thiên Ấn in đậm xuống lòng sông Trà Khúc phẳng lặng giống như bức tranh thuỷ mặc hữu tình, khiến cổ nhân trào dâng cảm xúc:
Niên xuống dòng sông dấu nghĩa tình.
Ngàn thu không nhạt dấu son xinh.
Non về với nước cơn triều lũ.
Nước đến cùng non bức hoạ hình.
Mộ cụ Hùynh nằm ở phía Tây Nam núi Thiên Ấn, trên một vùng đất cao ráo, đầu hướng về phía sông Trà khúc, bốn bề gió lộng, không khí nơi đây trong lành, yên tỉnh. Nghe các bạn ở Quãng Ngãi kể lại, nơi này cụ Hùynh chọn làm nơi an nghỉ của mình lúc cụ còn sống nên tuy quê cụ ở tỉnh Quảng Nam, nhưng khi cụ mất thì chôn cất nơi đây, thuộc tỉnh Quảng ngãi.
Trên bia mộ cụ Huỳnh có tạc thư của chủ tịch Hồ Chí Minh gửi khi cụ mất như sau:
“Cụ Hùynh là một người học hành rất rộng, chí khí rất bền, đạo đức rất cao, vì lòng yêu nước mà trước đây cụ bị bọn thực dân làm tội đày ra Côn đảo mười mấy năm trường, gian nan cực khổ nhưng lòng son dạ sắc yêu nước thương nòi của cụ Hùynh chẳng những không sờn lại thêm kiên quyết.
Cụ Hùynh là người mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo khổ không làm nản chí, oai vũ không làm sờn gan.
Cả đời cụ Hùynh không cần danh vị, không cần lợi lộc, không thèm làm giàu, không thèm làm quan.
Cả đời cụ Hùynh chỉ phấn đấu cho dân được tự do, nước được độc lập.”
Cụ Hùynh Thúc Kháng, sinh tháng 10 năm 1876 (Bính Tý) tại thôn Thanh Bình, tổng Tiên Giáng Thượng, huyện Tiên Phước, phủ Tam kỳ ( nay là xã Tiên Cảnh, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam).
Hùynh Thúc Kháng lúc còn nhỏ đã nổi tiếng văn hay, chữ tốt. Năm Canh Tý (1900), ông dự kỳ thi Hương, đậu giải nguyên. Năm Giáp thìn (1904) ông đỗ Tiến sĩ lúc 29 tuổi. Ông cùng với Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh và Trần Quí Cáp là những nhà lãnh đạo phong trào Duy Tân. Vì lý do này nên năm Mậu Thân (1908) cụ bị bắt đày ra Côn Đảo suốt 13 năm (từ 1908-1921) mới trả tự do. Năm 1926 cụ đắc cử dân biểu, được cử làm Viện trưởng Viện dân biểu Trung kỳ. Trong 3 năm họat động ở Viện này, cụ Hùynh Thúc Kháng tích cực đấu tranh trong nghị trường, rồi nhân việc chống lại Khâm sứ Pháp Jabouille, cụ từ chức. Năm 1927 cụ sáng lập ra nhà in Hùynh Thúc Kháng và tờ báo Tiếng Dân, cụ làm chủ nhiệm nhà in và chủ bút báo Tiếng Dân tại Huế cho đến khi tờ báo bị đình bản vào năm 1943.
Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh mời cụ Hùynh Thúc Kháng tham gia nội các Chính phủ liên hiệp lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với chức vụ Bộ trưởng Bộ Nội vụ.
Năm 1946, khi Hồ Chí Minh sang Pháp đàm phán, cụ Hùynh được cử làm Quyền Chủ tịch nước.Thời gian này cụ còn là Chủ tịch Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam (Hội Liên Việt). Cuối năm 1946 cụ là đặc phái viên của chính phủ vào cơ quan Uỷ ban Kháng chiến hành chính Nam Trung bộ tại Nghĩa Hành tỉnh Quảng Ngãi. Nghĩa hành lúc bấy giờ là an tòan khu, là thủ phủ của vùng tự do Liên khu V.
Tháng 3 năm 1947, cụ Huỳnh lâm bệnh nặng, cụ qua đời đúng vào ngày 21 tháng 4 năm 1947 tại gia đình chị Võ Thị Tuyết ở thôn Phú Bình, xã Hành Phong, huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi. Làm theo tâm nguyện của cụ, nhân dân đã đưa cụ an táng trên đỉnh núi Thiên Ấn. Nơi đây là địa nhất thắng cảnh của tỉnh Quảng Ngãi.
Trong bài điếu văn “Thương tiếc cụ Hùynh Thúc Kháng” của Uỷ ban kháng chiến hành chính tỉnh Quảng Ngãi đã kết thúc bằng hai câu đối :
“Làm nghệ sĩ không vinh, tù Côn Lôn không nhục, khí tiết cội Tùng trơ mộ gốc.
Lãnh bộ trưởng trọn tài, quyền Chủ tịch trọn đức, tinh anh sao Vĩ chiếu ngàn thu.”
Trên đỉnh núi Thiên Ấn còn có chùa Thiên Ấn nằm ở phía đông giữa lùm cây cổ thụ rậm rạp. Ngôi chùa cổ này được xây dựng từ thế kỷ XVII, đã được chúa Nguyễn ban cho biển ngạch “Sắc tứ Thiên An tự.” Năm 1717. trong khuôn viên chùa Thiên Ấn có cái giếng sâu hun hút được gọi là giếng Phật. Chùa còn có quả chuông lớn được thỉnh về từ làng đúc đồng Chú Tượng năm 1845, dưới triều vua Thiệu trị, tục gọi là chuông Thần. Giếng Phật, chuông Thần đã đi vào thơ ca, thủ khoa Phạm Trinh từng có thơ:
Giếng Phật mạch sâu mùi nước ngọt.
Chuông Thần đêm vắng giọng đưa thanh.
Ghi chú:Có sử dụng tư liệu tiểu sử của cụ Hùynh Thúc Kháng.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét