Lạc loài
Hàng ngày, vào lúc năm rưỡi chiều thì xe ông Thuấn về đến
nhà. Xe dừng lại trước cánh cửa sắt sơn xanh và thúc ba hồi còi. Chỉ sau một
phút cánh cửa rít lên, nặng nề mở. Chiếc Lada màu sữa từ từ trườn vào sân.
Người mở cửa là một bà già tóc bạc gần hết, nhưng chân tay vẫn còn nhanh nhẹn
và khoẻ mạnh. Anh lái xe đã quá quen với bà, nên cũng chẳng chào hỏi gì, cứ lẳng lặng đánh xe vào, rồi lẳng lặng cho
xe ra. Sau khi đã khoá cổng bằng chiếc khoá to như nửa viên gạch, bà đi vào
chiếc phòng nhỏ của mình ở nhà dưới cạnh một chuồng thỏ lớn và cái cũi nuôi hai
con chó Đức, ước chừng đều nửa tạ một con. Phòng bà ở bây giờ trước kia là nơi
để chứa những thứ tạp nham như: xoong nồi hỏng, bàn ghế gãy, những chiếc khung
xe đạp hoen rỉ và những đôi giày đủ kiểu đã cũ. Mấy năm nay nó được dùng cho
người ở. Bà già là người ở thứ ba của gia đình ông Thuấn. Gọi là người ở thôi,
chứ không phải người ở như ngày xưa cho địa chủ. Bà đã ở cho ông Thuấn được hai
năm rồi. Trước đó bà đi giúp việc cho nhiều gia đình và làm những công việc
khác nhau như nấu nướng, giặt giũ, quét dọn và trông trẻ con. Gần hai năm
trước, bà trông con cho một đôi vợ chồng trẻ. Sau đó cả gia đình chuyển vào Sài
Gòn. Họ nằng nặc đòi bà đi cùng, nhưng bà không nghe. Buổi chiều đưa tiễn đôi
vợ chồng trẻ cùng hai đứa con của họ ra ga, chị vợ ôm lấy bà khóc. Hai đứa trẻ
không chịu rời bà nửa bước cho đến khi tàu chạy. Trước khi nhảy lên tàu, anh
chồng ôm lấy cánh tay bà nói “Bà ơi, vợ chồng con và các cháu mang ơn bà. Sau
này, bất cứ lúc nào bà muốn ở với chúng con thì bà nhờ người điện vào, con ra
ngay đón bà”. Sau khi gia đình họ đi
Nam, bà Thuấn vốn quen biết gia đình vợ chồng trẻ, thấy bà nhân hậu, sạch sẽ
lại vẫn còn khoẻ mạnh thì muốn bà về ở nhà mình. Bà đồng ý ngay. Bà chẳng có
mong ước gì hơn. Bà đã đi ở như thế gần trọn cuộc đời. Hơn nữa, bà muốn sống để
mà chờ đợi. Một sự chờ đợi da diết và khổ đau kéo dài suốt mấy chục năm nay
trong máu thịt bà.
Về ở nhà ông Thuấn, bà vẫn giữ thói quen như những ngày
trước. Bà dậy rất sớm tha thẩn quét dọn, giặt giũ, đun nước và mua đồ ăn sáng
cho gia đình. Khi vợ chồng ông Thuấn và cậu con trai tỉnh dậy thì mọi ngóc ngách
trong nhà ngoài vườn đều sạch sẽ và các phích nước nóng đã được đổ đầy. Bảy giờ
xe đến đón ông Thuấn đi làm. Rồi bà Thuấn và cậu con trai nổ xe máy đi nốt. Sau
khi cho đàn thỏ và hai con chó Đức ăn xong, bà khoá cửa và đi chợ mua sắm, chủ
yếu là hoa quả tươi và rau. Chỉ sau một hai tháng bà đã giành được cảm tình với
ông bà Thuấn. Bởi vì hai người giúp việc trước đó đã làm cho vợ chồng ông Thuấn
nghi ngờ lẫn nhau.
Người ở đầu tiên là một thanh niên hai mươi hai tuổi. Tuy
anh ta mới học hết lớp bốn trường làng nhưng khoẻ mạnh và được việc. Ông Thuấn
luôn tỏ ra quý mến anh. Đi công tác nước ngoài về ông có quà riêng cho anh.
Nhưng một hôm ông từ cơ quan về nhà bất thường và bắt gặp bà Thuấn đang nửa nằm
nửa ngồi trên chiếc xa lông ở phòng khách để cho anh người ở bóp đùi cho bà.
Thấy ông, bà vội nhỏm dậy kéo ống quần ngủ đang được vén lên tận bẹn: “Không
hiểu chân tay tôi thế nào mà nó đau nhức thế. Tuổi già rồi, cứ động một tý là
sợ phát khiếp cả lên. Đang phải nhờ cháu nó...”. Ông Thuấn không nói gì, ngầu
mắt nhìn anh người ở rồi đi vào phòng riêng. Từ ngày đó ông kiếm mọi cớ mắng
chửi anh và cuối cùng thì tống cổ anh về quê.
Người thứ hai là cháu gái đằng họ bà Thuấn. Cô lấy chồng
ba năm rồi nhưng chẳng chửa đẻ gì và bị chồng bỏ. Bà Thuấn đưa cô từ quê ra để
“tìm việc” cho cô. Chỉ sau mấy tháng ở
nhà bà Thuấn, được ăn ngon, lại chẳng đồng áng ất vả gì, cô bỗng đỏ da thắm
thịt. Khi cô đi chợ phố cũng có mấy tay thanh niên lẵng nhẵng bám theo tán
tỉnh. Ông Thuấn luôn tỏ lòng quan tâm đến cô. Ông thường có cử chỉ quý mến cô
cháu gái. Lúc ông vuốt tóc cô, lúc ông xoa vai cô và khen ngợi hay dặn dò điều
gì đó. Một chiều chủ nhật, bà Thuấn có việc làm ăn vắng nhà, chỉ còn ông Thuấn
và cậu con trai đang nằm nghe nhạc ở tầng trên. Cô cháu gái sau khi quét dọn,
xuống buồng tắm. Cậu con trai hé cửa sổ nhìn xuống và thấy ông bố tay cầm chiếc
khăn tắm đến bên cửa buồng tắm và gọi: “Này cháu, bác mang cho cháu cái khăn”.
Cửa buồng tắm hé mở và ông cũng chui tọt vào. Mãi sau ông chui ra. Quần áo đầu
tóc ông nước chảy ròng ròng. Cậu con trai uất ức kể với bà mẹ. Bà Thuấn gọi ông
vào buồng khóc lóc, đay nghiến ông. Sau một phút bối rối ông gắt “Bà hay thật!
Mình là bậc cha chú, mình chăm sóc nó như con. Ở hiền gặp lành. Tốt với nó thì
đẹp mặt bà chứ mặt ai nào”. Dù cho ông nói thế nào thì bà Thuấn cũng tống cổ cô
cháu gái về quê sau đó mấy ngày. Bây giờ có người giúp việc mới, ông bà Thuấn đều
cảm thấy yên tâm về nhau khi một trong hai người đi vắng.
Bữa ăn hàng ngày, bà Thuấn cho dọn riêng xuất trên chiếc
giường trong phòng bà. Sau bữa chiều, bà rửa bát đĩa, dọn dẹp và cho chó, thỏ
ăn. Công việc thường kết thúc vào lúc chương trình vô tuyến bắt đầu. Trong khi
cậu con trai phóng xe máy đi chơi thì ông bà Thuấn ngồi uống nước và xem vô
tuyến ở phòng khách. Ở dưới nhà, bà lẩn thẩn đi quanh nhà, miệng lầm rầm như
đọc kinh. Đó là lúc bà đang nói chuyện với những người thân đã khuất và đứa em
mất tích đã mấy chục năm rồi. Khi chân đã mỏi, lưng đã đau, bà trở về trong căn
phòng bé nhỏ của mình. Đêm nào bà cũng nằm thao thức trong bóng tối cho đến khuya
khi mà cậu con trai ông bà Thuấn đi chơi
về bấm chuông gọi cửa. Những đêm nằm không ngủ, bà thích được nghe tiếng cánh
một con gián bay xè xè trong đêm tìm nơi đẻ trứng. Chiếc phòng nhỏ của bà có khá
nhiều gián. Thời gian đầu bà rất sợ . Nhưng rồi đêm vắng lặng và buồn bã quá,
chẳng biết trò chuyện với ai. Bà đành nằm lắng nghe lũ gián đi ăn đêm. Lâu dần
thành quen, bà không những không xua đuổi chúng mà còn cảm thấy vui vui khi có
được cảm giác li ti, buồn buồn của những cái gai nhỏ trên chân con gián bò qua
bàn chân bà. Gần đây, đêm nào bà cũng mong cho trời chóng sáng để được đi chợ.
Vì trên đoạn đường từ nhà đến chợ bà thường gặp Thiện, anh là phóng viên của
một tờ báo thành phố. Đêm nào anh cũng thức khuya viết bài, sáng dậy muộn và đi
chợ. Anh đi chợ thảnh thơi như người đi dạo. Khi về, anh bước thủng thẳng, một
tay xách mớ rau muống còn tay kia cầm một quả trứng hay một bìa đậu. Trên đoạn
đường ấy, hai người vui vẻ trò chuyện cùng nhau. Anh đi bên bà và cười nói như
một đứa trẻ lên năm.
Trong giờ làm việc, cậu con trai ông bà Thuấn hay bỏ cơ
quan cưỡi xe máy phất phơ phố xá. Vì thế đôi lần cậu thấy bà vui vẻ trò chuyện
với anh nhà báo cùng phố. Cậu kể chuyện với bố mẹ. Ông Thuấn cho gọi bà vợ vào
buồng và nói: “Bà là bà phải cảnh giác, chứ cứ để bà già dưới nhà nói chuyện
với thằng nhà báo lắm rồi mà có ngày lắm chuyện”. “Ôi dào, nó ở phố mình ấy
mà”. “Phố nào thì phố, khối tay chẳng chết vì chúng nó ấy à”.
Một lần đi chợ về, Thiện hỏi thăm gia đình bà. Bà định
nói dối anh. Nhưng bà lại thấy không nỡ nói dối một thanh niên đáng tuổi cháu
mình. Hơn nữa, anh là một người nhân hậu và đức độ. Bà tin như thế bởi bà nhìn
thấy cái miệng anh cười. Người có nụ
cười như thế có chết cũng chẳng dám làm điều ác. Bà kể cho Thiện nghe về gia
đình bà, đặc biệt là đứa em trai bà mất tích đã mấy chục năm nay. Nghe xong
Thiện nắm chặt lấy tay và hỏi dồn: “Mất tích ở đâu? Như
thế nào? Bác kể cho cháu nghe. May ra…” “Anh bảo may ra làm sao”. “Đã mấy cục
năm rồi”. - Bà nói rưng rưng. “Bà ơi, bây giờ đài phát thanh truyền hình và báo
chí họ mở mục nhắn tin. Bao nhiêu người tìm thấy nhau sau hàng mấy chục năm đấy
bà ạ”. “Thật thế ư? Nào tôi có biết gì”. “Cháu làm báo, bà cứ kể cho cháu nghe
thật tỉ mỉ, cháu sẽ giúp bà trên mục nhắn tin ấy, may ra…”. Ánh mắt Thiện sáng
lên niềm vui. Bà nhìn vào đôi mắt anh mà muốn khóc và cảm thấy như chỉ chớp mắt
thôi là đứa em bà thuở xưa hiện về. Bà đặt làn rau xuống cạnh gốc cây xà cừ và
kể cho Thiện nghe về cảnh ngộ của bà.
Đó
là nạn đói năm 1945 khủng khiếp. Bố mẹ bà chết đói để lại hai chị em bà. Năm đó
bà khoảng mười lăm tuổi và đứa em trai tuổi độ lên mười. Hàng ngày bà dắt em đi
xin ăn, đêm gặp đâu thì ngủ đấy. Một ngày hai chị em bà đi qua một cái chợ quê.
Đứa em bà đói lả không thể đi được nữa. Bà đặt em nằm dưới gốc cây đa đầu chợ.
Còn bà đi vào chợ để xin ăn cho em. Chợ quê năm đó như bãi tha ma ngổn ngang
người chết và người chờ chết. Đi mấy vòng chợ bà cũng không kiếm được một chút
gì cho em. Cuối cùng bà liều cướp một quả ổi còn xanh và bị đánh ngất xỉu. Khi
tỉnh dậy bà hoảng hốt tìm em, nhưng không thấy. Bà gào khóc thảm thiết và ngất
lịm đi trong cơn đói man dại và lòng thương nhớ đứa em. Và thế là trong suốt
bao năm bà lang thang làm thuê, ở mướn với hy vọng tìm lại đứa em máu mủ của
mình. Mấy năm gần đây thì bà không còn hy vọng gì nữa, vì thời gian đã quá lâu
và bà mỗi ngày một già yếu. Bây giờ gặp Thiện lòng bà lại loé lên hy vọng. Đêm
đêm bà thao thức không sao ngủ được. Bà hồi hộp đợi một tiếng gõ cửa và đứa em
trai mình đầy ghẻ lở xưa kia tìm về. Bây giờ một chiếc lá rụng ngoài sân, một
tiếng cánh gián bay trong đêm, một tiếng nhảy của con nhỏ trong chuồng cũng làm
bà giật mình đến choáng váng, nhưng bà cũng cảm thấy hơi thở yếu đuối của bà
đôi khi nghẹn lại. Và ngay cả những lúc còn thức bà cũng nghe thấy mơ hồ có ai
đó gọi mình. Tiếng gọi oà qua khu vườn như một cơn gió lạ, rồi lan xa về những
cánh đồng ngoại ô xanh cỏ. Nhiều đêm đang ngủ bà vùng dậy, hoảng hốt thầm gọi:
“Tèo ơi! em ơi!” Sau đó bà cảm thấy rằng, nếu đến khi gà gáy canh năm đêm nay
mà đứa em của bà không về, bà sẽ không bao giờ trở dậy nữa.
Vào
một đêm khi đợt gió mùa đông bắc đầu tiên tràn về thành phố, bà không bao giờ
ngồi dậy được nữa. Buổi sớm hôm sau, như thường lệ, ông Thuấn dậy và tìm phích nước
nóng pha trà sen. Khi sờ đến những phích nước đã nguội ông giận dữ gắt ầm lên:
“Bà Thuấn đâu? Xuống dưới nhà xem nước nôi thế nào. Đến bây giờ mà chẳng có
giọt nước nào để uống”. Bà Thuấn mặc váy ngủ xuống nhà, một lát sau bà hoảng
hốt chạy lên “Ối giời ơi! ông ơi, là ông”. “Cái gì? Cái bà này làm gì mà, mà…”.
“Bà, bà ta… chết rồi”. “Chết rồi! Thật không?”. “Còn thật giả gì nữa. Làm thế
nào bây giờ ông ơi là ông”. “Im, im, im… Im cái mồm ngay, làm toáng lên lại
hỏng hết việc bây giờ”. Ông Thuấn rít lên và đè vai bà Thuấn ngồi xuống xa
lông. Ông vừa đi quanh phòng khách vừa bóp trán. Bỗng ông chợt reo lên “Thế
này, thế này. Xuỵt! Nghe tôi nói đây. Bây giờ hàng phố họ biết chuyện thì họ ỉa
vào mặt mình, và cái thằng nhà báo nó dựa vào đấy nó viết láo viết toét thì
khốn nạn. Bà già này không có họ hàng, con cái gì cả. Nên tôi tính thế này, bí
mật gọi một thằng xích lô, tống cho nó đầy mồm vào rồi sai nó mang xác bà ta
đến một bệnh viện nào xa xa, rồi là bảo nó nói thấy bà ta cảm ngã ở góc phố,
bến xe nào đấy nhờ bệnh viện lo giúp. Đúng không? Chứ để hàng phố biết thì mình
phải làm tang ma, tốn kém chứ bà, mà còn bao nhiêu nghi ngờ nữa chứ. Còn sau
này có ai hỏi, ta nói bà ấy xin về quê rồi. Xong chuyện. Đấy, đấy bà có thấy
tôi tính kín kẽ không”
“Tôi,
tôi hiểu, nhưng sợ quá”. “Sợ cái con khỉ”. “Bây giờ bà xuống dưới nhà đắp cho
bà ta cái chăn như là đang ngủ ấy. Rồi gọi thằng Vương lên đây tôi phải dặn dò
nó, chứ không thì thì…”
Đêm
ấy vào lúc phố xá vắng tanh. Một chiếc xích lô được kéo vào sân nhà ông bà
Thuấn. Sau khi gã xích lô đặt bà già ngồi ngay ngắn vào lòng xe gã xoa oa hai
tay và nói: “Bà chị cho em xin tiền”. “Tôi đãi anh năm chục”. Bà Thuấn đưa tiền
và nói. “Thưa bà chị, cho em xin năm trăm ạ”. “Năm trăm! Anh cắt cổ tôi đấy à? Làm gì thì cũng
phải có trước có sau chứ”. “Nếu bà chị không đồng ý thì em quẳng hàng của bà
chị xuống về ngủ cho khoẻ”. “Giời ơi! Ông Thuấn rít lên - Đưa cho nó, cò kè cái
con, con… gì nữa. Đồ ngu”. Bà Thuấn lầu bầu gì đó trong mồm và lên nhà lấy tiền
trả gã xích lô. Sau khi đếm đủ số tiền, gã nhe răng cười. “Cẩn thận nhé, giữ
mồm hộ đấy”. Bà Thuấn thì thào dặn gã.
“Bà chị yên chí. Phi vụ này đã là quái gì với thằng này”. Vừa nói gã vừa huýt
một điệu sáo mồm và đẩy xe ra cửa.
Một
buổi tối, sau một tuần bà già mất. Ông Thuấn ngồi uống trà và xem báo trong
phòng khách. Ông có cái thú xem các mục rao vặt. Khi ông lướt mắt qua mục “Nhắn
tin” thì ông bất chợt gặp địa chỉ nhà ông. ( Khi bà già còn sống. Thiện đăng
báo mục nhắn tin tìm đứa em của bà. Bà lấy địa chỉ nhà ông bà Thuấn vì bà đang
ở đó, hơn nữa mấy chục năm nay bà làm gì có nhà cửa riêng). Ông Thuấn vội vàng đọc
mục nhắn tin ấy. Đôi mắt ông cứ to dần, to dần đến khi hai con mắt sau cặp kính
lão tròn xoe như hai con mắt cá. Gương mặt ông tái đi như mào gà bị cắt tiết.
Cả tấm thân to béo của ông run lên bần bật. “Đúng rồi, trời ơi!”. Ông hét lên
và ngã vật xuống đất. Hai bên mép ông
bọt sùi trắng như bọt xà phòng. Chân tay ông co quắp. Mắt ông mờ đục. Quanh ông
cảnh vật quay tít. Ông nghe tiếng gió rít. Tiếng gió của mùa đông năm 1945 trên
con đường đầy cỏ của một miền quê xa xôi xác xơ, đầy âm khí của những người
chết đói. Trên con đường ấy có một cô bé bẩn thỉu, gầy như que củi. Cô cõng
trên lưng đứa em ruột đỏi lả, mình đầy ghẻ lở. Thỉnh thoảng cô ngoái lại thều
thào “Tèo ơi! Em ơi!”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét