Tiếng gọi
cuối mùa đông
Thuỳ
tỉnh giấc lúc gần sáng. Chị nằm yên lặng trong chăn một hồi lâu và nhận ra
những cơn gió lạnh thổi vật vã đêm qua đã đi xa. Chắc chúng đã thổi dọc theo
sông Đáy và đi ra biển. Trong đêm gần sáng tĩnh lặng. Chị nghe mơ hồ như có
tiếng ai gọi. Tiếng gọi ấm áp lạ thường. Đã mấy năm rồi, giờ chị mới có một đêm
hồi hợp và náo nức đến diệu kỳ. Trong căn phòng của khu tập thể nhà máy tơ tằm
còn tối om, bên cạnh hai đứa con nhỏ, hình như chị thấy có ai đó đang ở rất gần
chị, phả những hơi thở ấm áp và nồng ngát hương cỏ cây vào chị. “Chẳng có ai cả, sao mình lại mơ mộng như thế
nhỉ”. Chị nghĩ và mỉm cười “Còn sớm lắm” chị đoán vậy và nhắm mắt định ngủ
tiếp. Nhưng những hơi thở ấm áp kia cứ lùa vào chị. Chị nghe thấy bằng giác
quan có tiếng gọi chị. Tiếng gọi mênh mang và đầm ấm.
Chị
khẽ khàng ngồi dậy, sau khi ấp lại chăn cho con. Chị mở cửa bước ra ngoài. “Mùa
xuân” chị thốt lên. Trời đã mờ sáng. Những hạt mưa li ti như không có thật toả
mờ không gian. Chị hít một hơi thật sâu và nghe người nhẹ bỗng. Chị thấy có ai
đang thở trong lồng ngực của mình. Chị khẽ đặt tay vào ngực. Chị thấy hình như
ngực mình bỗng đầy lên, căng tròn và rực nóng.
Chị
đứng thở một lúc rồi đi ra phia bờ sông. Con sông Đáy trong mưa bụi và sương
sớm trông như một dòng sữa. Những ngọn cỏ trên đê sông cọ vào cổ chân chị mát
lạnh. Chị ngửa mặt lên trời. Mưa khẽ khàng đậu mơ hồ lên da thịt chị. Chị run
lên. Tất cả những vất vả, dằn vặt và lo âu trong lòng chị chợt tan đi. Chị đứng
lặng trên mặt đê nhìn sang bờ bên kia. Trong những lùm cây xanh thẫm đã le lói
ánh lửa. Những ngọn lửa bên kia quen thuộc với chị biết chừng nào. “Tết lại sắp
đến rồi” chị nghĩ và chợt như muốn khóc.
Trời
sáng dần. Chị đã nhìn rõ lối mòn quen thuộc từ một ngôi nhà nhỏ bên bờ sông
chạy xuống bến nước. Chính con đường nhỏ ấy đã dẫn chị đến hạnh phúc và cả khổ
đau.
Quê
chị ở một làng quan họ ven thị xã Bắc Ninh. Học xong phổ thông, chị thi vào
trường Đại học Nông nghiệp. Ra trường chị về công tác ở sở Nông nghiệp của một
tỉnh khác. Và cuối cùng chị về làm việc ở bến sông này trong khu nhà máy tơ
tằm. Với chị làm ở đâu cũng được. Chị yêu công việc, và chị luôn nghĩ “ở đâu có
con người thì đều có niềm vui trong cuộc sống cả”. Khi đến nhận công tác ở nhà
máy tơ tằm, chị vô cùng hạnh phúc. Chị ngỡ ngàng trước thiên nhiên đầy thơ mộng
và yên tĩnh ở đây. Những bãi dâu bát ngát. Một dãy núi tím xa xa. Một con sông
đầy quyến rũ.
Chiều
chiều, sau một ngày làm việc mệt nhọc, chị thường ra bờ sông ngồi và nhìn sang
bờ bên kia. Chị say sưa ngắm nhìn những sợi khói xanh bay lên từ những vòm cây
tum tùm, xanh thẳm. Những đàn trâu trên sông. Những con thuyền lững lờ trôi dọc
sông trong sắc chiều tím như những quả dâu chín
Nhưng
có một hình ảnh làm chị xúc động hơn tất cả. Và nếu chiều nào không nhìn thấy
thì lòng chị không yên. Đó là bóng một bà mẹ. Chiều chiều chị nhìn thấy bà đi
từ ngôi nhà nhỏ theo con đường đỏ phù sa xuống bến. Thường thường bà dắt theo
một con trâu. Khi con trâu đã đằm mình xuống sông thì bà giặt giũ hay rửa rau,
vo gạo. Trong suốt một thời gian dài chị không thấy ai đỡ đần bà. “Bà sống một
mình à? Hay con cái bà đi làm xa hết?”. Nhiều lần Thuỳ tự hỏi. Chị bị ám ảnh
với những câu hỏi ấy.
Có
lần đi công tác xa mấy ngày, khi trở về nhà máy dù đã rất muộn, nhưng chị vẫn
chạy ra bờ sông đứng nhìn sang bên kia. Chỉ khi chị nhận ra ánh lửa mà chị tin
là từ bếp của bà hắt ra, chị mới yên tâm trở về phòng.
Tự
nhiên như có một sợi dây vô hình đã nối chị với bà cụ bên kia sông mà chưa một
lần chị biết mặt.
Cho
đến một lần, trên con đường nhỏ đỏ màu phù sa kia vắng bóng bà mẹ, chị chờ suốt
chiều. Và tối đến chị chạy ra bờ sông để mong tìm thấy ánh lửa quen thuộc.
Nhưng không thấy. Chị đi mãi xuống mép sông, mắt căng ra tìm kiếm cho đến khi
chân chị chạm vào nước sông đêm chị mới dừng lại. Những đêm ấy chị lo lắng. “Mẹ
ốm hay mẹ đi thăm con cháu ở đâu xa?” chị tự hỏi. Nhưng không tin câu trả lời
của mình.
Cuối
cùng chị quyết định hỏi thăm ông lái đò.
-
Bà ấy bị ốm. Cô con gái lớn lấy chồng ở trong Nam. Còn cậu con trai chẳng mấy
khi về. Cô quen bà ấy hả?
-
Thế ai nấu nướng, thuốc thang cho bác ấy ạ? - Chị lo lắng hỏi:
-
Họ hàng, làng xóm. Bà ấy ăn uống được là bao.
Ngay
chiều hôm đó, Thuỳ mua chục trứng gà, nửa cân đường và mấy viên thuốc. Cô quyết
định sang sông thăm bà.
Vừa
bước đến chiếc sân gạch nhỏ chị chợt đứng lại. Lá vàng rụng lác đác trên sân.
Từ trong bếp chiều, khói toả ra lặng lẽ. Chị bước rón rén đến trước cửa bếp.
Chị nhận ra bóng dáng quen thuộc của bà mẹ. Bà ngồi im lặng trước bếp lửa. Mái
tóc bạc gần hết. Đôi vai nhỏ của bà như sụp xuống. Tự nhiên Thuỳ thấy ngại
ngùng. Chị sẽ nói với bà như thế nào về mình? Trong lúc chị đang lúng túng thì
bà quay lại. Chị nhận ra gương mặt nhỏ nhắn đầy phúc hậu của bà. Và trong một
khoảnh khắc chị ngỡ mẹ chị đang ngồi đó.
-
Cháu… cháu chào bác ạ - Chị lúng túng.
-
Chào cháu. Cháu hỏi ai đấy? - Giọng bà nhỏ và ấm như hơi lửa.
-
Nghe bác ốm … cháu… đến thăm bác…
-
À, bác cũng đỡ rồi - bà mỉm cười - cháu vào đây. Thế cháu là con nhà ai nhỉ?
- Cháu ở bên kia sông. Cháu… cháu làm ở trại tằm…
- Có phải cháu là bạn học của thằng Đán nhà bác không?
- Vâng … vâng ạ - Thuỳ nói dối bà mẹ. Gương mặt chị ửng
đỏ.
- Ấy, bác cũng chẳng biết ai vào ai. Thằng Đán nhà bác có
khối bạn học thuở xưa ở bên đó. Lần nào về nó chẳng sang thăm bạn, thăm bè.
Nói rồi bà lấy ấm nước vối ủ trong giỏ rót cho chị một
bát.
- Cháu uống nước đi. Từ lúc bé đến giờ bác chỉ quen uống
nước vối, lành lắm cháu à. Cũng may nhà trồng được một cây. Bác phơi khô rồi
treo trên gác bếp. Lúc uống thì lấy xuống cho tiện. Tuổi già leo trèo làm sao
được.
Thuỳ không biết nói gì. Chị cứ ngồi im lăng nghe bà. Bao
nhiêu điều dự định từ trước để nói chuyện với bà, chị quên biến cả. Một lúc sực
nhớ, chị lấy những thứ quà chị mua biếu bà.
- Chết, tiền đâu mà mua thế này - Bà kêu lên - Bác chỉ
xin mấy thìa đường để nấu cháo. Còn đâu cháu mang về.
- Bác phải ăn chục trứng cho khoẻ, không thì…
- Năm nay bác làm được chum tương. Thế là khỏi lo, ốm đau
có cái mà ăn. Chiều ở lại ăn cơm với bác, hôm nay bác có đu đủ xanh kho tương.
Chị ở lại ăn cơm với bà mẹ. Hai người ngồi ăn cơm trong
bếp. Chị luộc trứng gà và ép bà ăn. Mãi đến tám giờ tối chị mới về. Khi lên đến
mặt đê, chị dừng lại nhìn sang phía nhà bà mẹ một lúc lâu. Gió đêm mát mẻ từ
sông thổi tung mái tóc dài của chị.
Từ ngày đó, dăm ba ngày chị lại qua đò sang thăm bà mẹ.
Lúc thì chị mang cho bà một bó củi dâu, lúc thì vài lạng nhộng của nhà máy, lúc
thì vài ba lạng đường và có khi một hai bao diêm... Mỗi lần thấy chị sang, bà
rối rít như đón đứa con gái của bà đi lấy chồng xa về thăm mẹ. Bà phần chị từng
quả chuối, quả bưởi. Đôi lúc bà nấu cho chị một nồi nước lá bưởi với cây mùi
khô. Dưới gốc bưởi bên bể nước nhỏ, bà tự tay dội nước cho chị gội đầu. Thỉnh
thoảng nước vào mắt, chị lại kêu lên nũng nịu bắt đền bà.
Cho đến một chiều.
Chị ngồi bên sông nhìn sang con đường nhỏ và hồi hộp chờ đợi. Khi con trâu xuất
hiện ở chiếc cổng tre ngõ nhà bà mẹ thì chị nhắm mắt lại để đoán xem hôm nay bà
mẹ sẽ mang theo quần áo để giặt, hay rửa rau. Khi chị mở mắt ra thì người đi
theo con trâu không phải là bà mẹ mà là một chàng trai. Đi theo con trâu một
đoạn anh nhảy lên lưng trâu và lấy gót chân thúc vào sườn con vật. Con trâu
lồng lên, lao về phía bến sông. Đến mép nước, con vật rống lên và lao mình
xuống sông, chàng trai bị văng ra khỏi lưng trâu rơi tòm xuống nước. “Như trẻ
con ấy” Thuỳ khẽ kêu lên và bật cười khúc khích. Nhưng chờ mãi không thấy chàng
trai đâu. Chị hốt hoảng đứng dậy. Chị đi như chạy và miệng thốt lên hoảng hốt
“kìa, kìa”. Chợt Thùy nhận ra anh từ dưới sông nhô lên ngay gần bên phần bờ chị
đứng. Thuỳ nhoẻn miệng cười, nhưng tim vẫn đập hối hả. “Cắc anh ta là Đán. Thế
là con trai của mẹ về thăm mẹ rồi”. Chị thầm nghĩ và vô tình thấy lúng túng.
Chị quay về phòng nấu cơm chiều.
Chàng trai mải bơi lặn để con trâu bơi qua sông. Nó mò
vào ăn mất một vạt dong giềng của các cô gái ở khu tập thể nhà máy tơ tằm. Các
cô tóm lấy và buộc vào gốc nhãn trước cửa phòng Thuỳ. “Giữ con trâu này ở đây
chúng mày ạ. Xem nhà nào đến nhận phạt cho một trận”. Khi hoàng hôn đổ xuống
thì chàng trai đi tìm trâu.
- À trâu nhà cái anh này. Mau mau bỏ tiền ra phạt. Các cô
công nhân kêu lên.
Chàng trai chỉ cười.
- Thôi giao cho chị Thùy giải quyết. Chị ấy là đội trưởng
phụ trách kỹ thuật - Một cô gái nói như ra lệnh.
- Đúng đấy, đúng đấy - Các cô khác nhao lên tán thưởng.
- Trâu nhà anh đấy à? - Thuỳ bước ra hỏi. Chị nhận ra đó
là chàng trai vừa làm chị hoảng hốt.
- Vâng. Tôi mải bơi quá.
- Anh ở bên kia sông à? Anh tên là gì?
- Tôi là Đán. Nhà tôi ở bên kia.
- À, à… mà - Thuỳ đỏ mặt, chị cảm thấy như anh đã biết
hết mọi quan hệ của chị với mẹ anh - Mà… lần sau đừng mải chơi thế nhé.
- Tên chị là gì nhỉ.
- Tôi ấy à - Thuỳ định nói dối. Nhưng chị vẫn trả lời -
Tôi là Thuỳ.
- Thuỳ ? - Chàng trai như reo lên - Có phải chị hay sang
thăm mẹ tôi. Mẹ tôi kể nhiều chuyện về chị lắm. Tôi nghĩ mãi mà không biết ai
là bạn học của tôi có tên là Thuỳ. Hoá ra là …
- Thôi, anh dắt trâu về đi.
- Tôi còn nghỉ dăm hôm. Mời chị sang chơi.
Thuỳ không nói gì. Chị cởi dây thừng buộc trâu đưa cho
chàng trai. Rồi chị bước vội vào phòng.
Chiều hôm sau anh đi đò sang thăm chị. Anh vác một ba lô
đầy bưởi và ổi.
- Tôi mang sang để nộp phạt các chị.
Các cô gái reo lên ầm ĩ. Họ nhào vào tranh nhau những quả
ổi chín vàng. Và chỉ một loáng sau các cô gái lại biến mất sau những dãy nhà
nuôi tằm. Chỉ còn lại Thuỳ và Đán ngồi im lặng trong phòng.
- Anh về thăm bác có lâu không? Anh đang đóng quân ở đâu
ạ - Thuỳ hỏi, phá tan bầu không khí im lặng.
- Tôi đóng quân ở Vĩnh Phú. Tôi về thăm mẹ được năm ngày.
- Bác ở nhà một mình buồn lắm. Sao anh để bác chăn trâu
làm gì cho vất vả.
- Tôi viết thư nói mẹ tôi nhiều lắm. Nhưng mẹ tôi thích
có bầu có bạn.
- Anh lấy vợ cho bác yên tâm, rồi đi đâu cũng được - Nói
xong chị thấy mình ngớ ngẩn. Và chị càng lúng túng.
Đán không trả lời Thuỳ. Anh im lặng và nhìn vào mắt chị.
Cái nhìn đầy táo bạo và da diết.
- Bác có khoẻ không? Lâu nay em cũng không sang. Mà có
anh về rồi…
-
Hôm nay Thuỳ sang nhé. Tôi đưa Thuỳ sang. Mẹ mong lắm.
Thuỳ
không nói gì chỉ lắc đầu.
Đến
khi gà lên chuồng Đán mới về. Thùy tiễn anh ra tận bến sông. Phía dãy núi xa,
có những ngôi sao sớm đã mọc. Khi nghe thấy tiếng mái chèo của con đò quậy nước
đến gần, Thuỳ nhìn Đán và nói với anh như bằng hơi thở. “Anh về đi, đò sang
đấy”. Rồi chị bước vội lên đê. Chị ngồi xuống đám cỏ trên mặt đê nhìn sang bến
bên kia. Chợt chị nghe một tiếng hú dài từ bờ bên kia vọng lại. Chị biết đó là Đán
đang gọi chị. Chị thèm khát được đứng lên kêu thật to “Đây, em đây, anh ơi!”.
Buổi
chiều trước ngày trở về đơn vị, Đán lại sang thăm Thuỳ. Vẫn một ba lô đầy bưởi
và ổi anh mang theo. Các cô gái cùng khu tập thể lại được bữa vui vẻ. Anh ngồi
chơi và nói chuyện với chị đến khi trời tối. Khi anh về, Thùy tiễn anh ra tận
bến đò. Họ không nói gì. Chỉ đứng lặng nhìn nhau trong bóng đêm mờ mờ. Chợt Đán
cầm lấy tay chị, Thuỳ run lên. Người chị bỗng chao đảo, chơi vơi. Chị như một
cánh diều giấy mỏng manh trong cơn gió mạnh. Cánh tay chị như sợi dây diều nhỏ
bé nằm trong bàn tay anh. Nếu lúc đó chị rút tay mình ra khỏi bàn tay anh chị
sẽ trở thành cánh diều đứt dây. Chị sẽ bị gió thổi tạt và rơi xuống một nơi nào
đó không nơi nương tựa. Đán kéo sát chị lại gần. Chị thấy anh như bếp lửa của
bà mẹ phả ấm vào chị. “Anh muốn đưa em về ở với mẹ” - Anh thì thào. “Anh về đi
kẻo mẹ mong, nhớ viết thư về cho em” giọng chị run rẩy như muốn vỡ oà. Nói
xong, chị gỡ tay anh và lảo đảo đi lên mặt đê.
Một
tháng sau chị nhận được thư anh. Buổi chiều đi làm về muộn, chị thấy thư anh ai
để ở trên gối đầu giường. Chị run rẩy mở thư “Thuỳ thương yêu…” chị không đọc
tiếp được nữa. Chị cầm chặt lá thư trong tay và đi như chạy ra đê. Chị ngồi
xuống cỏ. Từ đôi mắt to, đen thẳm trào ra hai giọt nước mắt.
“Ơ…
ơ. ơ!…” tiếng ai đó trên một chiếc thuyền dọc dưới bến sông âm vang da diết và
rạo rực khôn cùng. Chị dứt những lá cỏ đưa lên miệng. Cỏ ngọt ngào nồng ngái.
Chị ngồi mãi trên đê cho đến khi nghe các cô bạn gái đang nhao nhác hỏi nhau về
chị, chị sung sướng đứng dậy về nhà.
Khoảng
sáu tháng sau anh về phép trước khi đơn vị anh đi Campuchia. Tối tối anh sang
thăm chị. Có một đêm anh đưa chị xuống bến và nói thầm vào tai chị “Đêm nay anh
đưa em đi chơi thuyền, hơn thuyền Hồ Tây nhiều” “Anh lấy thuyền ở đâu đấy”.
“Anh ăn cắp của ông lái đò. Tối rồi không có khách nữa đâu”. Nói rồi anh bế xốc
chị lên thuyền. Con thuyền tròng trành. Chị ôm chặt lấy cổ anh. Anh đặt chị
xuống sàn thuyền và đẩy sào. Anh đẩy
thuyền rất thạo. Con thuyền êm ả rời bờ và lặng lẽ trôi xuôi.
-
Lại đây với em - Chị gọi khẽ.
Anh
gác sào lên dọc mạn thuyền và bước lại phía chị.
-
Em yêu anh - Chị nói và ghì đầu anh vào ngực mình. Nhiều lúc em mơ thấy anh…
chết. Em sợ quá và khóc mãi.
-
Chết thế nào được anh - Anh nói và cười trong ngực chị. Có em rồi anh chẳng làm
sao mà chết được.
-
Mẹ biết thế này mẹ sẽ mắng em mất.
-
Mẹ yêu em lắm. Yêu hơn cả anh nữa đấy.
“
Ơ… ơ… ơ” tiếng một ai đó trên một chiếc
thuyền dọc ngân lên. Dòng sông tiếp lấy tiếng “ơ… ơ…”, nửa như một câu hò, nửa
như một tiếng gọi và chở mãi ra biển.
Cả
hai người áp vào nhau im lặng. Họ chỉ nghe thấy tiếng thở của nhau và hình như
có tiếng cá ăn đêm quẫy mơ hồ trên mặt sông.
-
Tết năm tới, anh sẽ về cưới em.
-
Thế anh đón cô dâu bằng gì nhỉ? - Thuỳ hỏi.
-
Anh sẽ thuê một trăm chiếc đò ngang để đón dâu.
-
Thế thì đẹp lắm.
-
Anh sẽ cho cắm những cây sào dài từ bến nhà anh sang bến này. Trên mỗi cây sào
sẽ treo một bánh pháo. Thuyền cô dâu đi đâu thì đốt pháo đến đó.
-
Đốt nhiều thế phí tiền lắm. Mẹ làm gì có tiền.
-
Anh muốn em đẻ cho anh một trăm đứa con, năm mươi con ở bên bờ bên này trồng
lúa, năm mươi đứa trồng dâu ở bờ bên kia, như là Âu Cơ ngày xưa ấy.
-
Đẻ nhiều thế không đủ nước sông cho chúng nó uống… Thuyền trôi đến đâu rồi anh?
-
Gần đến bến Tía rồi.
-
Cũng xa nhỉ.
Sương
đêm mờ như khói. Giữa dòng sông họ không nhận thấy đôi bờ. Thuyền như đang trôi
ở một chân trời nào đó. Lúc đó họ cảm thấy họ đã tan thành sương đêm. Nhẹ bỗng
và miên man. Tất cả cảnh vật quanh họ và cả chính họ cũng không còn, như tan
vào nhau. Cả hai không thể nào nhận ra mình nữa. Họ thấy dòng sông đang dâng
lên. Con thuyền đang dâng lên. Và đôi bờ giang rộng như đôi cánh nâng họ bay
lên gần mãi những vì sao khuya như không có thật. “Anh… anh ơi”. Đó là âm thanh
duy nhất có thực. Âm thanh ấy bay lên từ những cơn mưa của mặt đất. Và chính
lúc thốt lên tiếng gọi ấy. Thuỳ thấy hiện lên bờ bên kia năm mươi đứa con của
họ đang trồng lúa, và bờ bên này năm mươi đứa con của họ đang trồng dâu.
Và
rồi một đêm sau này, khi Đán đã đi vào phía Nam, Thuỳ chợt tỉnh giấc. Chị đặt
tay lên bụng và nhận biết rằng những đứa con ước mơ của họ đang lớn lên từng
ngày. Chị thấy hạnh phúc. Niềm hạnh phúc không giống bất cứ một hạnh phúc nào.
Chính niềm hạnh phúc quá lớn lao và thiêng liêng ấy làm chị quên đi tất cả
những lời dị nghị.
Lâu
không thấy Thuỳ sang, bà mẹ lo lắng. Bà đi đò sang thăm Thuỳ. Thuỳ ôm lấy bà
khóc.
-
Con đã có thai với một người mà con yêu hơn ai hết. Mẹ đừng mắng con, mẹ nhé.
-
Con là người quý nhất - Bà nhìn chị nhân hậu và độ lượng - Đừng lo nghĩ gì cả,
mẹ hiểu con. Cố mà ăn uống cho đứa bé nó khoẻ.
Đôi
ba ngày bà lại sang thăm chị. Bà mang chuối, mang trứng để chị bồi dưỡng. Chị
không nhận và nói thế nào bà cũng không nghe. Bà không hỏi gì chị về người đàn
ông đã chung sống cùng chị. Mặc dù bà không nghĩ rằng người đàn ông mà Thuỳ yêu
say đắm đó là con trai bà.
Nhưng
rồi đến một ngày bà không thể sang thăm chị được nữa. Đó là lúc bà nhận tin Đán
hy sinh. Chiến tranh đã cướp mất đứa con trai duy nhất của bà. Cũng trong chính
thời gian đó Thuỳ trở dạ. Và chị đã sinh ra hai đứa bé, một trai một gái. Hai
đứa đều khoẻ mạnh xinh xắn.
Khi
nghe tin Thuỳ sinh con, bà mẹ sang thăm Thuỳ. Bà không biết mối quan hệ giữa
Thuỳ và con trai mình. Bà buồn bã cho Thuỳ biết cái tin khủng khiếp của mình.
Lúc đó chị đang cho con bú. Chị rú lên rồi đổ xuống giường.
Đứa
trẻ đang bú dở mất vú mẹ cũng thét lên.
Những
ngày sau này chị sống như điên dại.
Nhiều
đêm chị bế cả hai đứa con ra bến sông. Chị tìm kiếm một chiếc thuyền nếu ai vô
tình bỏ quên bên mép nước. Chị sẽ đặt hai đứa con vào lòng thuyền. Còn chị đứng
ở mũi thuyền để đẩy sào. Chị tin con thuyền kia sẽ đưa chị và các con chị trôi
vào một chân trời sương khói thuở trước. Ở đó chị sẽ gặp Đán. Gặp Đán rồi, chị
sẽ ghé thuyền vào hai bờ sông và đặt mỗi đứa lên một bờ. Một đứa con chị sẽ
trồng lúa để ăn, còn đứa kia sẽ trồng dâu nuôi tằm dệt vải. Rồi chị sẽ cùng anh
lên chiếc thuyền đó nằm ôm nhau ngủ vĩnh viễn. Con thuyền sẽ trôi theo sông, ra
biển. Họ sẽ biến thành những đám mây trở về bến cũ, hoá thành mưa cho hai đứa
con của họ lấy nước trồng lúa, trồng dâu.
Nhưng
mỗi lần ra đến bến sông chị lại nhận ra ánh lửa đêm từ phía ngôi nhà bà mẹ. Và
trong trí óc chị lại hiện lên chói chang con đường đỏ phù sa, bóng dáng gầy yếu
của bà, một bếp lửa buồn, một ngọn lửa khói chiều âm thầm bay lên. Những điều
ấy dội vào trái tim chị nhức buốt. Bao nhiêu lần chị muốn chạy ào qua sông để
về ôm lấy bà mẹ. Chị sẽ mang những đứa con của chị - những giọt máu của dòng họ
bà - về cho bà. Nhưng không hiểu lý do gì đã giằng giữ chị.
Và
mỗi ngày chị vẫn thấy bà mẹ chiều chiều xuống bến. Lưng bà mỗi ngày càng còng
xuống. Bước chân bà mỗi ngày một chậm chạp hơn. Tóc bà mỗi ngày bạc trắng. Tất
cả những hình ảnh ấy làm chị thấy có lỗi
với bà.
Thuỳ
ngồi dậy trong đêm. Càng ngày chị càng nghe rõ hơn tiếng gọi chị âm thầm và đau
khổ. Tiếng gọi đã đến bến sông. Gần lắm rồi. Tiếng gọi thôi thúc chị. Đôi lúc
chị thấy tiếng gọi ấy như tiếng gọi của bà mẹ, lúc như của Đán, đôi lúc như của
dòng sông. Có đêm chị mơ thấy năm mươi đứa con của chị đến bến quỳ sụp trước
chị. Chúng cầu xin chị cho chúng về bến bờ bên kia.
Thuỳ
lần tìm diêm. Chị bật diêm châm đèn. Chị cầm ngọn đèn dầu soi lên gương mặt hai
đứa con đang ngủ ngon lành. “Mẹ sẽ đưa các con về bên sông với bà nội”- Chị thì
thầm. Rồi chị mở cửa bước ra ngoài. Mưa bụi mỗi một đêm lại ấm hơn. “Ngày mai
đã ba mươi Tết rồi” - Chị nghĩ. “Ngày mai mẹ sẽ đưa các con về với bà nội” - Chị
thầm hứa. “Trời đã sáng rồi”- Chị đoán.
Và
chị vội vàng quay vào nhà. Chị vặn to đèn. Chị vội vã xếp quần áo của hai đứa
con và mình vào chiếc va li cũ kỹ. Xong đâu đấy chị bước lại chiếc bàn nhỏ và
ngồi xuống. Chị gỡ chiếc gương treo trên song cửa sổ. “Ngày mai mình đi làm
dâu”, chị mỉm cười hạnh phúc và đau đớn. Ngày yêu nhau, chị mơ đến ngày cưới.
Chị sẽ ăn mặc thật giản dị và đẹp. “Anh sẽ thuê một trăm chiếc đò ngang để đón
dâu” “Anh sẽ cho cắm những cây sào dài từ bến nhà anh sang bến bên kia. Trên
mỗi cây sào sẽ treo một bánh pháo. Thuyền cô dâu đi đến đâu thì đốt pháo đến
đó”. Nghĩ đến đó gương mặt chị trong gương nhoà đi. Đôi vai chị rung lên. Rồi
chị vội vàng lau nước mắt. Chị vội vàng chải tóc, với lấy chiếc cặp tóc cặp mái
tóc dài. Chị vội vã tìm chiếc áo đẹp nhất và mặc vào. Chị vội vã như sợ không
kịp giờ đón dâu.
Ngoài
kia mưa xuân đang ngùn ngụt bay.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét