THƠ SÂU NẶNG NỖI KIẾP
NGƯỜI
Đào Viết Minh
LÀM MA EM VỢ
Viết theo quan điểm Phật giáo
trong Kiều của Nguyễn Du
Em kết liễu. Tự
giải thoát mình khỏi " kiếp"
Chết thật hèn, nhưng sống thế càng ôi
Anh thắp cho em một nén nhang đời
Và lễ tạ: Nam-mô-di-phật!
Người sống đưa chân người chết đây
Đầu bạc làm ma mái xanh này
Mẹ, cha... queo quắt còn ham thọ
Em nhởn thanh xuân lại vội quay.
Em ơi: chữ “kiếp” trước chữ “người”!
Sống cần cố gắng. Chết rồi thôi
Hãy đi, yên nhé! Coi hết nợ... (*)
Anh ở vì chưng trả nợ đời.
(*) Nàng Kiều trẫm mình trên dòng sông Tiền Đường muốn quyên sinh, nhưng
lại được Giác Duyên vớt cứu. Theo thuyết bản mệnh ở Phật giáo trong Kiều của
Nguyễn Du: Nàng chưa thể chết vì chưa trả hết nợ đời!
- Câu thơ ý muốn vấn
an linh hồn em: Em đi, coi như đã hết nợ đời rồi đó em.
Lời bình: Theo nhận định của các nhà nghiên cứu văn học: “Làm
ma em vợ” thuộc một trong năm bài thơ, đứng vào hàng đỉnh của Phạm Ngọc Thái:
- Anh vẫn về theo dòng lệ em tiếc nuối
- Người đàn
bà trắng
- Anh đứng
nhìn theo bóng chim câu
- Làm ma em
vợ
- Tiếng hát đời thường
Đó là một bài thơ khóc. Đứng trước bao
cảnh đời khốn khổ trên bờ bến nhân gian, với tâm khảm xót xa một người em vợ,
nhà thơ đã viết ra bài khóc tang này:
Em
kết liễu. Tự giải thoát mình khỏi "kiếp"
Chết thật hèn, nhưng sống thế càng ôi...
Hai câu mở đầu cách thức cảm xúc của tác giả, giọng điệu tựa như những lời khóc
van khi đưa đám trong dân gian. Ta xem trong câu hai, nửa vế đầu viết: "
Chết thật hèn", nửa vế sau lại nói:"... nhưng sống thế càng
ôi" - Như thế là ngay trong một câu thơ đã đưa ra hai nhận định về cả
lẽ sống và cái chết của người em vợ. Chết như nó thì dở, thì hèn. Còn sống mà
sống kém, sống tệ như vậy cũng…? - Bởi đây là bài thơ khóc trước vong linh em,
có thể trách nó về sự chết uổng, chết phí... thì còn được, nhưng nếu đem cả
cách sống tệ ra trách móc trước mồ mả em, e sẽ trở thành bất nhẫn?
Tôi xin trích những lời của Hoài Thanh khi nói về cái chết của Hàn Mặc Tử trong
Thi Nhân Việt Nam, ông đã viết: " Một người đau khổ nhường ấy, lúc sống
ta hững hờ bỏ quên, bây giờ chết rồi ta xúm lại kẻ chê người khen. Chê hay khen
tôi đều thấy có gì bất nhẫn".
Trở lại với bài Làm Ma Em Vợ - Thế là lòng nhà thơ mâu thuẫn. Muốn
viết một bài thơ khóc tang sâu sắc thì phải nói đến cả nghĩa sống và cái chết.
Huống hồ tính nhân bản trong thi ca, nó đòi hỏi phải đặt ra một giác độ nhìn
nhận trách nhiệm của một con người trước xã hội cũng như cộng đồng, mà ở đoạn
cuối tác giả có nói:
Sống cần cố gắng. Chết rồi thôi...
Bởi vậy để đỡ cho hai câu thơ khóc rất
thật đầu tiên ấy, nghĩa tử là nghĩa tận, lệ của nhà thơ đã nhỏ xuống, anh xót
xa thắp nén hương lòng khấn cầu cho vong hồn em sớm được siêu thoát:
Anh thắp cho em một nén nhang đời
Và lễ tạ: Nam-mô-di...phật!
Trách là trách những người thân đang sống quanh không cứu vớt được nó? Trách
thực tế cộng đồng không đủ sự nhân ái cần thiết đưa nó ra khỏi bờ vực thẳm?
Nhưng thôi, dù sao thì em cũng đã chết rồi! Hãy để cho vong hồn em được an ủi,
yên nghỉ nơi suối vàng. Nhưng ý tưởng bao trùm tình thi đã được tác giả khai
phá ngay từ câu thơ đầu. Tôi quay lại để bình xét về câu thứ nhất ấy:
Em kết liễu!
Tự giải thoát mình khỏi "kiếp"
Ba chữ "tự
giải thoát" là tiếng kêu trong trời đất và xã hội, từ dưới đáy hạ tầng
của lớp chúng sinh. Cuộc đời đến mức phải tự kết liễu để giải thoát mình ra
khỏi "kiếp sống", thật là bi thương! Nhìn theo quan điểm nhân đạo,
suy cho cùng nó cũng chỉ là một nạn nhân đáng thương của xã hội mà thôi. Tiếng
kêu chúng sinh đó đòi hỏi, thậm chí chất vấn...cả thượng tầng kiến trúc kia?
Đến câu thơ thứ chín, ta thấy nhà thơ còn nhắc lại
chữ "kiếp" ấy một lần nữa:
Em ơi: Chữ “kiếp” trước chữ “người”!
Huống hồ cảnh đời còn bao thương tâm, oan nghiệt, phi lý, bất công vẫn đè nặng
lên lớp nhân quần lương thiện. Chữ "kiếp" đã được vọt trào ra chính
vì nỗi đau đời đó! Tôi bình sang đoạn thơ hai:
Người sống đưa chân người chết đây
Đầu bạc làm ma mái xanh này
Cái lời tiễn người đã chết ở đây nó ngược cảnh:
đầu bạc lại làm ma mái đầu xanh, nghe rền rĩ như tiếng kèn đám ma. Đó là sự bi
ai của cuộc sống. Trong dân gian lắm khi cảnh gia đình lục đục, cha mẹ già hay ông bà tính
khí trái nắng giở giời...thường rít lên rỉa rói con cháu: Đến con giun, con dế nó còn muốn sống nữa là con người? Tâm lý cảnh
đời thường ấy đã được tác giả vận vào hai câu sau của đoạn thơ hai, để nói lên
nỗi xót xa đối với người em:
Mẹ, cha...queo quắt còn ham thọ
Em nhởn thanh xuân lại vội quay.
Quay là quay lơ, lăn ra chết... đi liền
với "nhởn thanh xuân" (nhởn
nhơ tuổi thanh xuân): nghĩa thơ có ý trào lộng. Ngôn ngữ, nhịp điệu hợp với sự
cúng điếu của cảnh khóc tang. Lời than ấy giống như những người đi theo xe tang
khóc viếng, đưa linh hồn kẻ chết về nơi chín suối. Nghĩa là, một cái chết tội
tình đáng thương thay! Mẹ, cha đã phải chịu đựng bao nhiêu khốn khổ, tủi nhục,
đắng cay mà vẫn sống đó? Em còn trẻ, dù có cảnh đời thế nào đi nữa, cũng việc
gì phải phẫn chí tìm cách quyên sinh!
Bài thơ tuy cũng dựa trên một nỗi đời cụ thể,
nhưng nó có cấu trúc của một bài thơ tượng trưng, nhuốm đầm sắc thái theo quan
điểm của nỗi kiếp đoạn trường, nơi bể khổ dân tình của cụ Nguyễn
Du. Cho nên tác giả đã kết:
Hãy đi, yên nhé! Coi hết nợ...
Anh ở vì chưng trả nợ đời.
Để cho rõ ý nghĩa hàm súc của hai câu cuối đó,
xin liên hệ đôi nét về thân phận nàng Kiều: trải qua bao khổ ải, nhục nhã ê chề
phải trẫm mình xuống dòng sông Tiền Đường để chết, nhưng lại được Giác Duyên
vớt cứu - Nàng chưa thể chết vì chưa trả hết nợ đời! Như thế món nợ Kiếp của
Kiều, dù đã phải trải qua hai lần thanh lâu, mấy lần muốn tự vẫn không thành:
Làm cho sống đoạ thác đầy
Đoạn trường cho hết kiếp này mới thôi!
( Kiều )
Còn cái việc nàng đã được cụ Nguyễn Du cho tái
hợp lại với chàng Kim Trọng để cuộc đời bi thảm của Kiều có phần kết hậu, âu đó
cũng chỉ là món nợ đời cuối cùng mà nàng phải trả nốt đó thôi: món nợ tình! Bởi
15 năm khổ ải định chết, chết không xong. Tới khi được Giác Duyên cứu sống lại
rồi, Kiều chỉ muốn đem tấm thân đã "dơ" của mình:
Trông hoa đèn chẳng thẹn mình lắm ru?
Để mà yên thân nơi cửa chùa:
Đã đem mình bỏ am mây...
Mầu thiền ăn mặc đã ưa nâu sồng
Thế mà phận cũng có được yên đâu? Khi Kiều từ
chối duyên tái hợp với chàng Kim kia, từng thốt ra than:
Nói chi kết tóc xe tơ
Đã buồn cả ruột mà nhơ cả đời...
Thế mà Vương Ông vẫn còn trì triết , mắng con
gái rằng:
Tình kia, hiếu nọ ai đền cho đây?
Vì "hiếu" đã phải bán cả tấm thân
trong trắng, ngà ngọc của mình để chuộc cha. Với "tình" lòng vẫn thuỷ
chung son sắt, cũng đành phải dứt duyên nhờ em là Thuý Vân thay mình!... Hiếu,
tình sâu nặng đến thế, mà vẫn chưa đủ trả? Cuối cùng Kiều vẫn cứ phải đem cái
tấm thân mình, như nàng đã nói:
Ong qua bướm lại đã thừa xấu xa...
Để mà đền nốt cho chàng Kim. "Món nợ kiếp
người" tưởng cũng chỉ khổ đến thế là cùng.
Trở lại với bài Làm Ma Em Vợ, câu thứ ba
của đoạn thơ này:
Hãy đi, yên nhé! Coi hết nợ...
Cái nạn kiếp người nơi hạ tầng của chúng sinh thời nào
mà chẳng khổ? Trải qua những thăng trầm bể ải trong nhân tình thế sự, chiêm
nghiệm trong thẳm sâu tâm linh cuộc đời mình, thấm đẫm về chữ "kiếp"
luân hồi ấy để nỗi xót thương từ trong lòng tác giả trào ra: Em chết, là coi như đã trả hết nợ đời đó em!
Vì muốn nó cũng có sống lại được nữa đâu?
đồng thời đó cũng là lời an ủi, xoa bớt nỗi đau cho vong hồn người em nơi chín
suối. Mặt sau của bản thơ là tiếng kêu cứu xã hội, tiếng khóc nấc bật ra từ
trong khối cộng đồng của thời đại hiện đại này!
Ta trở lại với câu thơ đầu tiên:
Em kết liễu! Tự giải thoát mình khỏi "kiếp"
Lời khóc tang của bài Làm Ma Em Vợ này là tiếng khóc bật ra
từ trong nỗi kiếp nhân gian:
Anh ở vì chưng trả nợ đời.
Anh còn phải sống tiếp, cũng chả sung
sướng gì đâu? Bao khổ nạn ê chề, chẳng qua vì đời chưa hết nợ, trả hết nợ rồi
anh cũng đi thôi! Bài thơ chỉ như một lời khấn cầu từ bi nơi cửa phật để thắp
cho đứa em tội nghiệp, cùng những kẻ đáng thương đã sinh ra ở trên cõi sống
trần ai đây một nén nhang đời!
(Trích tập “PNT chân
dung nhà thơ lớn thời đại”, 2014)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét