LIÊN HỆ VỀ THI PHÁP
THƠ “NGƯỜI ĐÀN BÀ TRẮNG” PHẠM NGỌC
THÁI
. Với “Đây thôn Vĩ Dạ” Hàn Mặc Tử
Nguyễn Thị Hoàng
Nguyên GV Trường ĐH Sư phạm
Trong Tập “64 bài thơ hay”, Nxb Hồng Đức 2020 – Bình luận về
“Người đàn bà trắng”, nhà nghiên cứu văn học Trần Đức – Nguyên CB Viện ngôn ngữ
và văn hóa dân gian, đã viết: “Người Đàn Bà Trắng là một bài thơ tình hay,
điển hình, viết theo thi pháp của dòng thơ tượng trưng hiện đại Châu Âu. Những
yếu tố thơ tượng trưng xuyên suốt khắp bài…”.
Bài
viết này, tôi xin phân tích cho rõ nét về sự tương đồng giữa thi pháp thơ tượng
trưng, trong thi phẩm của nhà thơ Phạm Ngọc Thái – Với bài “Đây thôn Vĩ Dạ” của
thi nhân Hàn Mặc Tử.
A. NGƯỜI ĐÀN BÀ TRẮNG
* Khổ thơ đầu
- Khắc họa chân dung "Người đàn bà trắng" (tác giả gọi em là
"người đàn bà", thực ra khi đó em vẫn còn thiếu nữ). Anh đã lấy những
hình ảnh của vũ trụ qua cảm xúc để miêu tả về nàng:
Chiếc mũ trắng mềm em đội
bầu trời
Khóm mây trắng
bay nghiêng trôi trên tóc
Đôi mắt em đong
những áng mây
Đó là đôi mắt của mùa thu huyền diệu và xa thẳm. Nàng được miêu tả qua ấn tượng trong trí nhớ nhà thơ.
Điểm ở thi đàn xưa nay - Thi nhân Bích Khê từng tả về ánh mắt người mỹ nữ trong
bài thơ “Tranh lõa thể” nổi tiếng của ông:
Mắt
ngời châu rung ánh sáng nghê thường
Xuân Diệu
thì ví:
Mắt em
thăm thẳm như màu gió
Thơ cũng vàng trong như
nắng hanh
Đều là
những hình ảnh tượng trưng.
* Các khổ thơ sau
– Chân dung người thiếu nữ hiện lên trong khung cảnh thiên nhiên rực rỡ:
Em đi, về... chao những hàng cây
Hồ gió thổi, lệch
vành mũ đội
Thấm đẫm mình em cả
thềm nắng gội
Xoã ngang vai mái hất
tơi bời.
Cả thềm nắng hắt lên mình em như tơ lụa đất trời, có gió thổi, cây đưa...
Tả cảnh nhưng tình thơ thật gợi cảm. Giờ
đây trên con đường đi qua, bồi hồi trong ký ức, anh chỉ còn nghe thấy tiếng gió
táp, mưa sa. Thiên nhiên trở nên hoang dã trong qui luật bụi cát của thời gian:
đã đầy xác mưa, xác gió, xác lá, xác ve trôi…
Nhà thơ
nghe thấy cả khúc tình ca xưa đang êm đềm sống lại:
Đường xưa đó về đây, em ơi!
Để diễn tả về phẩm chất người đàn bà, hình
ảnh thơ đã được cách điệu hóa:
Chùm trinh em hát: Đấy chỗ thiên thai!
Người đàn bà ai mà định
nghĩa?
Biểu tượng mô tả tuy ảo, trừu
tượng, nhưng vẫn xoáy vào trong tâm thức người đọc: Chùm trinh em hát… /-
Suy cho cùng cả
vũ trụ cùng cuộc sống đều tồn tại và sinh ra ở đấy! Đúng vậy, người đàn bà không thể nào định nghĩa được? Đó là
“thế giới của đàn bà”… Khó có nhà thơ nào tả về người đàn bà sâu xa hơn thế.
* Khổ thơ thứ năm
- Triết lý về tình yêu và cuộc sống. Dù mối tình tan vỡ làm cho
cả hai trái tim đều đau đớn: Vì sao tan vỡ thì ta không biết? Nhưng:
Em không biến thành đá để hoá
Vọng Phu
Anh cũng không làm
chàng Trương Chi, suốt đời chèo sông vắng
Ta không đi theo “con đường lông ngỗng trắng”
Nghĩa là: chung tình như nàng Mỵ Châu và
chàng Trọng Thủy, để rồi cả hai đều nhảy xuống biển tự tử? Thần tượng thì đẹp,
nhưng cuộc sống trở nên bi đát quá. Họ vẫn phải sống và tồn tại, dù suốt
cuộc đời:
Dẫu hình hài khắc mãi tim nhau
Ở
đây, thơ được viết như đời. Song nó vẫn không làm cho ý nghĩa của tình yêu bị
xấu đi.
* Khổ thơ cuối
- Nhà thơ khắc khoải nhớ người xưa? Hình ảnh thiên nhiên đã được nhân
cách hóa:
Những đêm sao buồn,
những đêm gió khát
Khúc thơ tình anh lại
viết về em
Hình ảnh “sao buồn, gió khát” đều mang ý nghĩa tượng trưng. Cuối cùng tình thi được kết thúc
bằng một hình tượng đẹp nhất về nàng:
Người đàn bà ngậm cả
vầng trăng
Chữ “ngậm” mang màu sắc thơ siêu thực: “ngậm cả vầng trăng” - Một
thiên tạo đang nép trong tấm thân người đàn bà, hay chính nàng là một vầng
trăng !?
“Người đàn bà trắng” là một bản tình ca về "tình yêu và đàn bà"
rất mẫu mực của nhà thơ Phạm Ngọc Thái, viết theo thi pháp của dòng thơ tượng
trưng thật súc tích và hay.
B. THI PHÁP
TRONG “ĐÂY THÔN VĨ DẠ”
CỦA
HÀN MẶC TỬ
Nói
về “Đây thôn Vĩ Dạ” (1938) của Hàn Mặc Tử, cũng được viết theo thi pháp dòng
thơ tượng trưng hiện đại châu Âu - Từ thuyết “tương ứng cảm quan” do
Charles Baudelaire (1821-1867), nhà thơ Pháp bậc thầy khởi xướng:
Thơ diễn
tả theo phương pháp loại suy qua quan hệ tương đồng giữa hai sự vật, thể hiện
mọi sự vật bằng biểu tượng. Nghĩa là: giữa vật này với vật khác, giữa con người
– cuộc sống với thiên nhiên, đều có thể thay thế nhau bằng biểu tượng. Để phản
ảnh một cách tương ứng, dựa vào cảm thụ từ các giác quan (gọi là cảm quan), hay
từ trong tâm linh. Cho nên ngôn ngữ thi ca nhiều khi mang tính ảo…
Tính chất
tượng trưng giữa ảo và thực này cũng rất rõ trong bài thơ “Người đàn bà trắng”
của Phạm Ngọc Thái. Tôi đã phân tích trên - Thực ra, Hàn Mặc Tử chính là
một trong những thần tượng thi ca của Phạm Ngọc Thái. Anh đã chịu ảnh hưởng về
hình tượng tư duy thơ ông khá nhiều. Không ít độc giả và các văn sĩ phát
biểu rằng: Phạm Ngọc Thái là một phiên bản của thi nhân Hàn Mặc Tử. Đọc
trong bài thơ "Khóc Hàn Mặc Tử được in ở tập "64 bài thơ hay"
thì rõ. Anh đã viết:
Ngồi đọc Tử, tim
vỡ toang máu đỏ
Tôi khóc biển,
khóc trời xanh, khóc gió...
Hay là:
Tử có nghe! Thơ
Người tôi viết tiếp
Cúi
lậy không gian cả tám phương
Chính
bài thơ "Người đàn bà trắng" đã chịu ảnh hưởng về thi pháp tượng
trưng từ những bài thơ hay như: "Đây thôn Vĩ Dạ" và "Mùa xuân
chin” của thi nhân họ Hàn. Nếu tìm hiểu sâu về thi ca Phạm Ngọc Thái, thì thấy:
Thơ anh không hề giống với Xuân Diệu, Huy Cận hoặc Thế Lữ - Ngoài Hàn Mặc
Tử, anh còn chịu ảnh hưởng cả tính triết lý trong thơ Chế Lan Viên.
Đối với các thi nhân nước ngoài, Phạm Ngọc Thái chịu ảnh hưởng nhiều nhất về
giọng điệu thi ca của thiên tài Nga vĩ đại Pushkin, qua bản dịch Thúy Toàn.
Trở
lại với “Đây thôn Vĩ Dạ”: Những hình ảnh tượng trưng theo thuyết “tương ứng cảm
quan” đã xuyên suốt bài thơ của thi nhân. Bài thơ thuộc trong ít tình
thi hay nhất thế kỷ XX. Sở dĩ thi phẩm
được đánh giá tầm vóc cao? Chính vì tính chất tượng trưng, ảo huyền của nó. Như
Chế Lan Viên từng có suy lý về thơ, rằng:
Bên kia bờ hư ảo
– Bờ thơ
(trích Di cảo)
Xin phân
tích vài nét để làm rõ những yếu tố tượng trưng của bài thơ Hàn Mặc Tử:
* Khổ thơ
đầu – Bắt đầu vào thơ, thi nhân nhớ lại
lời của nàng Hoàng Cúc (người thôn nữ mà Người đã yêu):
Sao anh không về chơi
thôn Vĩ
Cảnh quê được hiện lên:
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Đó là cảnh thôn hương của nàng: Hàng
cau trong nắng mới; vườn ai mướt xanh như ngọc…
Tất cả hiện ra từ trong hồi ức Người – Nhưng đến câu thơ cuối của khổ:
Lá trúc che ngang mặt chữ
điền
Cảnh ở đây không còn thuần túy chỉ là hồi ức nữa?
Qua tư duy, hình ảnh thơ đã chứa ý nghĩa tượng trưng bên trong:
... “lá trúc”
là biểu tượng về làng quê – “mặt chữ điền” theo cách nói của người Phương
Đông, chính là biểu tượng cho gương mặt người đàn ông - Ý của câu thơ: Thôn Vĩ
với thi nhân giờ đây đã hoàn toàn cách biệt (che ngang), không còn gần gũi được
như xưa nữa.
Nghĩa là, giữa ông và nàng giờ đã hoàn
toàn cách xa nhau.
Vậy
là cũng bằng hình ảnh tượng trưng, nhưng cảnh thơ ôm bọc cả tâm tư cùng thế giới nội tâm ở bên trong: Tất cả đã bị…
“cắt ngang”:
Lá trúc che ngang mặt chữ
điền
Chính nhờ những yếu tố tượng trưng sâu xa
ấy, tầm vóc thơ cao và hay.
* Khổ thơ
hai - Nói về duyên phận: Đây chỉ là tình yêu đơn phương của thi nhân.
Giờ ông lại lâm bệnh hiểm nghèo, tình càng bẽ bàng, hẩm hiu. Hàn Mặc Tử đã sử
dụng hình ảnh thiên nhiên để diễn tả về nỗi lòng mình:
Gió
theo lối gió, mây đường mây,
Dòng
nước buồn thiu, hoa bắp lay...
Nghĩa là:
Em đi đường em, anh
đường anh
Duyên phận đôi ta có thế
thôi
Lòng thi nhân buồn bã tựa dòng nước lặng lờ
trôi… Hay như những bông hoa bắp phật phờ lay bên sông…
Hình ảnh thơ chứa chất nỗi tình.
* Khổ
thơ cuối với hai câu kết:
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
“
sương khói mờ nhân ảnh” vừa là cảnh thực
nơi thi nhân đang sống heo hút, khói sương (để chữa bệnh ở Gành Ráng, Qui Nhơn)
– Đồng thời cũng là hình ảnh tượng trưng cho thân phận Người lúc này: “ nhân
ảnh mịt mờ như sương khói” – Tâm trạng
Người rơi vào nỗi xót xa, trước sự lãng quên của người đời. Sau đó thi nhân
buông ra một câu hỏi để kết bài:
Ai biết tình ai có đậm đà?
Liệu
nàng còn nhớ đến ta không? Thơ giàu cảm xúc, oán than mà đằm thắm chứa chan. Thấm
đầy lệ.
Sở dĩ “Đây thôn Vĩ Dạ” trở thành một áng thi nổi
tiếng, được đánh giá cao như thế? Chính nhờ nghệ thuật thơ tinh hoa ấy! Giữa
ngôn ngữ và hình tượng đã kết hợp nhuần
nhuyễn, trong thi pháp của dòng thơ tượng trưng “tương ứng cảm quan” mà tôi đã
nói trên.
C.
MỐI TƯƠNG QUAN GIỮA HAI BÀI
THƠ
Như đã phân
tích: “Người đàn bà trắng” của Phạm Ngọc
Thái, cũng được viết theo thi pháp dòng thơ tượng trưng “tương ứng cảm quan” do
nhà thơ Pháp Charles Baudelaire khởi xướng.
Liên
tưởng với “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử: Hai bài thơ ra đời cách nhau
nửa thế kỷ, nhưng cùng được viết theo thi pháp của một dòng thơ tượng trưng.
Tuy nhiên, nỗi tình và cảm xúc mỗi bài có sự biến hóa khác nhau - Bởi vậy, từng thi phẩm lại có cái độc đáo và
hay riêng.
Vâng, người đời nay chỉ biết phân tích sự tương quan về thi pháp giữa hai
bài thơ như thế! Xin dành để cho đời nay và mai sau thưởng lãm, bình phẩm tiếp.
Nguyễn Thị Hoàng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét