Thứ Năm, 8 tháng 7, 2021

LIÊN HỆ VỀ THI PHÁP THƠ "NGƯỜI ĐÀN BÀ TRẮNG" PHẠM NGỌC THÁI - NGUYỄN THỊ HOÀNG

 

LIÊN HỆ VỀ THI PHÁP

            THƠ “NGƯỜI ĐÀN BÀ TRẮNG” PHẠM NGỌC THÁI

                        . Với “Đây thôn Vĩ Dạ” Hàn Mặc Tử

 

                                                             Nguyễn Thị Hoàng

                                                    Nguyên GV Trường ĐH Sư phạm

 

     Trong Tập “64 bài thơ hay”, Nxb Hồng Đức 2020 – Bình luận về “Người đàn bà trắng”, nhà nghiên cứu văn học Trần Đức – Nguyên CB Viện ngôn ngữ và văn hóa dân gian, đã viết: “Người Đàn Bà Trắng là một bài thơ tình hay, điển hình, viết theo thi pháp của dòng thơ tượng trưng hiện đại Châu Âu. Những yếu tố thơ tượng trưng xuyên suốt khắp bài…”.

      Bài viết này, tôi xin phân tích cho rõ nét về sự tương đồng giữa thi pháp thơ tượng trưng, trong thi phẩm của nhà thơ Phạm Ngọc Thái – Với bài “Đây thôn Vĩ Dạ” của thi nhân Hàn Mặc Tử.

                         A.  NGƯỜI ĐÀN BÀ TRẮNG

*  Khổ thơ đầu - Khắc họa chân dung "Người đàn bà trắng" (tác giả gọi em là "người đàn bà", thực ra khi đó em vẫn còn thiếu nữ). Anh đã lấy những hình ảnh của vũ trụ qua cảm xúc để miêu tả về nàng:

                          Chiếc mũ trắng mềm em đội bầu trời
                          Khóm mây trắng bay nghiêng trôi trên tóc
                          Đôi mắt em đong những áng mây

      Đó là đôi mắt của mùa thu huyền diệu và xa thẳm. Nàng được miêu tả qua ấn tượng trong trí nhớ nhà thơ. Điểm ở thi đàn xưa nay - Thi nhân Bích Khê từng tả về ánh mắt người mỹ nữ trong bài thơ “Tranh lõa thể” nổi tiếng của ông:

                        Mắt ngời châu rung ánh sáng nghê thường

    Xuân Diệu thì ví:

                       Mắt em thăm thẳm như màu gió

                       Thơ cũng vàng trong như nắng hanh                 

     Đều là những hình ảnh tượng trưng.

*  Các khổ thơ sau – Chân dung người thiếu nữ hiện lên trong khung cảnh thiên nhiên rực rỡ: 

                    Em đi, về... chao những hàng cây
                    Hồ gió thổi, lệch vành mũ đội
                    Thấm đẫm mình em cả thềm nắng gội
                    Xoã ngang vai mái hất tơi bời.

      Cả thềm nắng hắt lên mình em như tơ lụa đất trời, có gió thổi, cây đưa... Tả cảnh nhưng tình thơ thật gợi cảm. Giờ đây trên con đường đi qua, bồi hồi trong ký ức, anh chỉ còn nghe thấy tiếng gió táp, mưa sa. Thiên nhiên trở nên hoang dã trong qui luật bụi cát của thời gian: đã đầy xác mưa, xác gió, xác lá, xác ve trôi…

     Nhà thơ nghe thấy cả khúc tình ca xưa đang êm đềm sống lại:

                       Đường xưa đó về đây, em ơi!

     Để diễn tả về phẩm chất người đàn bà, hình ảnh thơ đã được cách điệu hóa:

                       Chùm trinh em hát: Đấy chỗ thiên thai!

                       Người đàn bà ai mà định nghĩa?

     Biểu tượng mô tả tuy ảo, trừu tượng, nhưng vẫn xoáy vào trong tâm thức người đọc: Chùm trinh em hát… /- Suy cho cùng cả vũ trụ cùng cuộc sống đều tồn tại và sinh ra ở đấy! Đúng vậy, người đàn bà không thể nào định nghĩa được? Đó là “thế giới của đàn bà”… Khó có nhà thơ nào tả về người đàn bà sâu xa hơn thế.

*   Khổ thơ thứ năm Triết lý về tình yêu và cuộc sống. Dù mối tình tan vỡ làm cho cả hai trái tim đều đau đớn: Vì sao tan vỡ thì ta không biết? Nhưng:

                       Em không biến thành đá để hoá Vọng Phu
                       Anh cũng không làm chàng Trương Chi, suốt đời chèo sông vắng
                       Ta không đi theo
“con đường lông ngỗng trắng” 

      Nghĩa là: chung tình như nàng Mỵ Châu và chàng Trọng Thủy, để rồi cả hai đều nhảy xuống biển tự tử? Thần tượng thì đẹp, nhưng cuộc sống trở nên bi đát quá. Họ vẫn phải sống và tồn tại, dù suốt cuộc đời:

                       Dẫu hình hài khắc mãi tim nhau

     Ở đây, thơ được viết như đời. Song nó vẫn không làm cho ý nghĩa của tình yêu bị xấu đi.

*  Khổ thơ cuốiNhà thơ khắc khoải nhớ người xưa? Hình ảnh thiên nhiên đã được nhân cách hóa: 

                        Những đêm sao buồn, những đêm gió khát 

                        Khúc thơ tình anh lại viết về em 

       Hình ảnh “sao buồn, gió khát” đều mang ý nghĩa tượng trưng. Cuối cùng tình thi được kết thúc bằng một hình tượng đẹp nhất về nàng:

                       Người đàn bà ngậm cả vầng trăng

       Chữ “ngậm” mang màu sắc thơ siêu thực: “ngậm cả vầng trăng” - Một thiên tạo đang nép trong tấm thân người đàn bà, hay chính nàng là một vầng trăng !?

       “Người đàn bà trắng” là một bản tình ca về "tình yêu và đàn bà" rất mẫu mực của nhà thơ Phạm Ngọc Thái, viết theo thi pháp của dòng thơ tượng trưng thật súc tích và hay.

                         B. THI PHÁP TRONG “ĐÂY THÔN VĨ DẠ”

                                           CỦA HÀN MẶC TỬ

     Nói về “Đây thôn Vĩ Dạ” (1938) của Hàn Mặc Tử, cũng được viết theo thi pháp dòng thơ tượng trưng hiện đại châu Âu - Từ thuyết “tương ứng cảm quan” do Charles Baudelaire (1821-1867), nhà thơ Pháp bậc thầy khởi xướng: 

     Thơ diễn tả theo phương pháp loại suy qua quan hệ tương đồng giữa hai sự vật, thể hiện mọi sự vật bằng biểu tượng. Nghĩa là: giữa vật này với vật khác, giữa con người – cuộc sống với thiên nhiên, đều có thể thay thế nhau bằng biểu tượng. Để phản ảnh một cách tương ứng, dựa vào cảm thụ từ các giác quan (gọi là cảm quan), hay từ trong tâm linh. Cho nên ngôn ngữ thi ca nhiều khi mang tính ảo…

     Tính chất tượng trưng giữa ảo và thực này cũng rất rõ trong bài thơ “Người đàn bà trắng” của Phạm Ngọc Thái. Tôi đã phân tích trên - Thực ra,  Hàn Mặc Tử chính là một trong những thần tượng thi ca của Phạm Ngọc Thái. Anh đã chịu ảnh hưởng về hình tượng tư duy thơ ông khá nhiều. Không ít độc giả và các văn sĩ phát biểu rằng: Phạm Ngọc Thái là một phiên bản của thi nhân Hàn Mặc Tử. Đọc trong bài thơ "Khóc Hàn Mặc Tử được in ở tập "64 bài thơ hay" thì rõ. Anh đã viết:

                          Ngồi đọc Tử, tim vỡ toang máu đỏ

                          Tôi khóc biển, khóc trời xanh, khóc gió...

      Hay là:

                          Tử có nghe! Thơ Người tôi viết tiếp

                          Cúi lậy không gian cả tám phương

      Chính bài thơ "Người đàn bà trắng" đã chịu ảnh hưởng về thi pháp tượng trưng từ những bài thơ hay như: "Đây thôn Vĩ Dạ" và "Mùa xuân chin” của thi nhân họ Hàn. Nếu tìm hiểu sâu về thi ca Phạm Ngọc Thái, thì thấy: Thơ anh không hề giống với Xuân Diệu, Huy Cận hoặc Thế Lữ - Ngoài Hàn Mặc Tử, anh còn chịu ảnh hưởng cả tính triết lý trong thơ Chế Lan Viên.  Đối với các thi nhân nước ngoài, Phạm Ngọc Thái chịu ảnh hưởng nhiều nhất về giọng điệu thi ca của thiên tài Nga vĩ đại Pushkin, qua bản dịch Thúy Toàn.

      Trở lại với “Đây thôn Vĩ Dạ”: Những hình ảnh tượng trưng theo thuyết “tương ứng cảm quan” đã xuyên suốt bài thơ của thi nhân. Bài thơ thuộc trong ít tình thi  hay nhất thế kỷ XX. Sở dĩ thi phẩm được đánh giá tầm vóc cao? Chính vì tính chất tượng trưng, ảo huyền của nó. Như Chế Lan Viên từng có suy lý về thơ, rằng:

                         Bên kia bờ hư ảo – Bờ thơ

                                              (trích Di cảo)

    Xin phân tích vài nét để làm rõ những yếu tố tượng trưng của bài thơ Hàn Mặc Tử:

*   Khổ thơ đầu – Bắt đầu vào thơ, thi nhân nhớ lại lời của nàng Hoàng Cúc (người thôn nữ mà Người đã yêu): 

                      Sao anh không về chơi thôn Vĩ 

      Cảnh quê được hiện lên:

                      Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

                      Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

                      Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

      Đó là cảnh thôn hương của nàng: Hàng cau trong nắng mới; vườn ai mướt xanh như ngọc… Tất cả hiện ra từ trong hồi ức Người – Nhưng đến câu thơ cuối của khổ:

                     Lá trúc che ngang mặt chữ điền

     Cảnh ở đây không còn thuần túy chỉ là hồi ức nữa? Qua tư duy, hình ảnh thơ đã chứa ý nghĩa tượng trưng bên trong: 

    ... lá trúc” là biểu tượng về làng quê – “mặt chữ điền” theo cách nói của người Phương Đông, chính là biểu tượng cho gương mặt người đàn ông - Ý của câu thơ: Thôn Vĩ với thi nhân giờ đây đã hoàn toàn cách biệt (che ngang), không còn gần gũi được như xưa nữa.

      Nghĩa là, giữa ông và nàng giờ đã hoàn toàn cách xa nhau.

      Vậy là cũng bằng hình ảnh tượng trưng, nhưng cảnh thơ ôm bọc cả tâm tư cùng   thế giới nội tâm ở bên trong: Tất cả đã bị… “cắt ngang”:

                     Lá trúc che ngang mặt chữ điền

      Chính nhờ những yếu tố tượng trưng sâu xa ấy, tầm vóc thơ cao và hay.

 

* Khổ thơ hai - Nói về duyên phận: Đây chỉ là tình yêu đơn phương của thi nhân. Giờ ông lại lâm bệnh hiểm nghèo, tình càng bẽ bàng, hẩm hiu. Hàn Mặc Tử đã sử dụng hình ảnh thiên nhiên để diễn tả về nỗi lòng mình:

                   Gió theo lối gió, mây đường mây,

                   Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay...

     Nghĩa là:

                    Em đi đường em, anh đường  anh

                    Duyên phận đôi ta có thế thôi

     Lòng thi nhân buồn bã tựa dòng nước lặng lờ trôi… Hay như những bông hoa bắp phật phờ lay bên sông…

     Hình ảnh thơ chứa chất nỗi tình.

*   Khổ thơ cuối với hai câu kết:

                       Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

                       Ai biết tình ai có đậm đà?

     “ sương khói mờ nhân ảnh” vừa là cảnh thực nơi thi nhân đang sống heo hút, khói sương (để chữa bệnh ở Gành Ráng, Qui Nhơn) – Đồng thời cũng là hình ảnh tượng trưng cho thân phận Người lúc này: “ nhân ảnh mịt mờ như sương khói” – Tâm trạng Người rơi vào nỗi xót xa, trước sự lãng quên của người đời. Sau đó thi nhân buông ra một câu hỏi để kết bài: 

                      Ai biết tình ai có đậm đà?  

      Liệu nàng còn nhớ đến ta không? Thơ giàu cảm xúc, oán than mà đằm thắm chứa chan. Thấm đầy lệ.

     Sở dĩ “Đây thôn Vĩ Dạ” trở thành một áng thi nổi tiếng, được đánh giá cao như thế? Chính nhờ nghệ thuật thơ tinh hoa ấy! Giữa ngôn ngữ và hình tượng đã  kết hợp nhuần nhuyễn, trong thi pháp của dòng thơ tượng trưng “tương ứng cảm quan” mà tôi đã nói trên.

                       C.  MỐI TƯƠNG QUAN GIỮA HAI BÀI THƠ 

    Như đã phân tích: “Người đàn bà trắng” của Phạm Ngọc Thái, cũng được viết theo thi pháp dòng thơ tượng trưng “tương ứng cảm quan” do nhà thơ Pháp Charles Baudelaire khởi xướng. 

     Liên tưởng với “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử: Hai bài thơ ra đời cách nhau nửa thế kỷ, nhưng cùng được viết theo thi pháp của một dòng thơ tượng trưng. Tuy nhiên, nỗi tình và cảm xúc mỗi bài có sự biến hóa khác nhau -  Bởi vậy, từng thi phẩm lại có cái độc đáo và hay riêng.

       Vâng, người đời nay chỉ biết phân tích sự tương quan về thi pháp giữa hai bài thơ như thế! Xin dành để cho đời nay và mai sau thưởng lãm, bình phẩm tiếp.

 

                                                            Nguyễn Thị Hoàng

 

 

                                                                     

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

BÀI MỚI ĐẮNG

Truyện ngắn: BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN _ NGUYỄN HẢI ĐĂNG

Bên cánh gà chánh điện phần 1 BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN Xe dừng lại với tiếng xột xoạt trên mặt đường, như bao chuyến xe đã ghé qua từ thuở ...