Kỳ 2:
BI KỊCH MUÔN ĐỜI
Như chính những lời thơ tự bạch, Phan Thanh Giản đã phải ôm vào lòng mình nhiều vết cắt thương đau, khi nhận lãnh trọng trách nan giải với Tổ quốc rơi vào thế cuộc lâm nguy. 151 năm đã trôi qua kể từ ngày ông cạn chén thuốc độc, một độ lùi thời gian đủ để tường minh tấm lòng tiền nhân.
Như chính những lời thơ tự bạch, Phan Thanh Giản đã phải ôm vào lòng mình nhiều vết cắt thương đau, khi nhận lãnh trọng trách nan giải với Tổ quốc rơi vào thế cuộc lâm nguy. 151 năm đã trôi qua kể từ ngày ông cạn chén thuốc độc, một độ lùi thời gian đủ để tường minh tấm lòng tiền nhân.
Nỗi đau thời cuộc
Trong ngôi thờ nhỏ bé kế bên mộ phần Phan Thanh Giản ở làng quê nghèo Ba Tri, Bến Tre, tôi lặng nhìn tượng ông ẩn mờ sau làn hương khói. Mặt tượng khắc khổ, ưu tư như chất chứa bao nỗi niềm không thể tỏ cùng ai. Thắp nén hương muộn cho tiền nhân, lần lại nỗi bi kịch muôn đời mà bùi ngùi cảm như vết thương lòng ông vẫn còn rỏ máu đến tận hôm nay!
Chính sử ghi sau khi phải hạ bút ký Hòa ước Nhâm Tuất 1862 chịu mất đất, mất tiền cho Pháp để mang tiếng đời “Phan Lâm mãi quốc, triều đình khí dân” (Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp bán nước, triều đình coi thường dân), Phan Thanh Giản bị triều đình quở trách rồi điều về làm Tổng đốc Vĩnh Long. Chính tại đây, ông đã không làm điều mà Pháp buộc triều đình phải thực hiện là giải giới quân dân kháng chiến chống xâm lược. Một chi tiết đặc biệt mà minh sử công tâm phải soi rọi cho ông …
Rồi thời thế lại đẩy Phan Thanh Giản vào trọng trách nặng nề. Năm 1863, khi cử phái bộ đi Pháp thương thuyết chuộc ba tỉnh miền Đông, vua Tự Đức không biết chọn ai lại cậy vào ông. Trên đường đi ông đã viết bài thơ bày tỏ lòng mình: “Lo nỗi nước kia cơn phiến biến. Thương bề dân nọ cuộc giao chinh. Ngàn trùng biển cả sang Tây địa. Muôn dặm đường xa thẳng đế kinh…”.
Ban đầu, chuyến đi sứ tưởng phần nào đã thành công, nhưng cuối cùng lại thất bại trước phe Pháp chủ chiến, chiếm đoạt thuộc địa. Đó cũng là lúc Phan Thanh Giản đã xế bóng. Ông xin vua cho về trí sĩ nhưng không được. Năm 1865, ông lại vâng mệnh vua vào Nam kỳ làm Kinh lược sứ Vĩnh Long để nhận cái chết ngậm ngùi.
Và nỗi uất hận cuối cùng của Phan Thanh Giản chính là sáng 20-6-1867 khi đô đốc De la Grandière dẫn hạm đội tiến chiếm Vĩnh Long. Diễn biến nhanh chóng sau khi De la Grandière trao cho Phan Thanh Giản một bức thư đòi trao thành, rồi ông cùng quan án sát Võ Doãn Thanh xuống tàu Pháp. Lập tức quân viễn chinh đổ bộ vào thành mà không gặp kháng cự. Nghi án này đổ đầy tràn nỗi bi kịch muôn đời của Phan Thanh Giản khi cho rằng chính ông trao thành Vĩnh Long.
Sự thật thế nào?
Đến nay đã có nhiều tài liệu giúp cho người sau sáng tỏ hơn:
Sáng 20-6-1867, thành Vĩnh Long ngoài Phan Thanh Giản, Võ Doãn Thanh, còn có tổng đốc Trương Văn Uyển, bố chánh Nguyễn Văn Nhã, lãnh binh Huỳnh Chiêu... Khi triều đình nghị xử tội Phan Thanh Giản, các nhân chứng đã tường trình:
Tổng đốc Trương Văn Uyển khai rằng: Ngày 19-5, khoảng giờ Thìn, thấy viên quan Tây đem số lớn đến bến tỉnh thành thả neo, kỳ thủy một viên quan ba cùng một người tên Cố Trường đưa một phong thơ. Trong thơ nói quan Tây nhận thấy bọn giặc quấy rối lâu nay phần nhiều là dân của tỉnh Châu Đốc. Nay y muốn quý quốc nhường lại ba tỉnh để y kiểm soát thì chúng không dám quấy rối như xưa... Thần đẳng xem xong bức thơ, cùng nhau thương nghị, rồi kinh lược sứ (Phan Thanh Giản) đem theo niết ty Võ Doãn Thanh theo xuống dưới tàu cùng viên chúa tàu đàm thoại, trách y vin cớ nhỏ mọn mà đã làm tổn thương đại nghĩa... Y trả lời rằng: bổn ý thế nào đã nói trong thơ. Nói đoạn y cho chiến thuyền tiến sát vào phía ngoài thành rồi cho bộ binh vào thành đóng giữ.
Lãnh binh Huỳnh Chiêu khai rằng: Hôm ấy khoảng giờ Thìn, thấy bọn Tây kéo chiến thuyền đến bỏ neo ở tỉnh..., mời tỉnh quan xuống tàu nói chuyện. Quan kinh lược và án sát theo bọn chúng, còn y trèo lên thành coi sự thể, chẳng ngờ chỉ trong chốc lát đã thấy bọn quan binh kia xô đẩy các quan tỉnh thần vào thành rồi chúng chiếm đóng các sở...
Ngoài ra, lời khai của các quan nhân chứng khác cũng không
buộc tội Phan Thanh Giản đã nộp thành Vĩnh Long, trừ quan Hà Tiên trách ông không theo ý họ từ trước về việc phòng bị.
buộc tội Phan Thanh Giản đã nộp thành Vĩnh Long, trừ quan Hà Tiên trách ông không theo ý họ từ trước về việc phòng bị.
Đặc biệt, linh mục Trương Bá Cần trong luận án tiến sĩ “Hoạt động ngoại giao của nước Pháp nhằm củng cố cơ sở tại Nam kỳ (1862-1867) không chỉ dùng sử liệu trong nước mà tiếp cận nhiều tư liệu, tài liệu của bộ ngoại giao, bộ hải quân và thuộc địa Pháp, đã viết rằng: “Từ những chứng cớ này, rất có thể Phan Thanh Giản và đồng sự đến để cố gắng phân bua với Grandière. Nhưng trong hoàn cảnh đó họ còn nói năng gì được nữa, người Pháp đã quyết định chiếm ba tỉnh... thay vì thả các nhà thương thuyết, Grandière muốn biến họ thành tù nhân... Trương Văn Uyển và thuộc hạ sẽ làm gì khi thấy thượng cấp trở về xung quanh toàn lính Pháp? Một khi quân địch đã tiến vào thành với vũ khí hiện đại thì không kháng cự được nữa...”.
Sử gia thời nay như giáo sư Phan Huy Lê cũng chỉ vai trò riêng của Phan Thanh Giản trong trách nhiệm lớn của triều đình. Cho rằng việc nghiên cứu Phan Thanh Giản phải tiếp tục, nhưng ông không đồng ý gán tội vị quan “bán nước” vì nó trái với tấm lòng suốt đời tận tụy vì nước, vì dân của ông.
Mượn lời Đại Nam chính biên liệt truyện, sử gia nói lòng mình: “Thanh Giản là người ngay thực, làm quan cần mẫn, giữ lòng liêm khiết, thận trọng, gặp việc dám nói. Trải thờ ba triều vẫn được yêu quý. Đến khi mang cờ tiết đi Nam, thế không làm sao được, biết tội tự uống thuốc độc chết. Thực là vào ở chỗ người ta khó xử. Xem tờ sớ để lại thì thấy lòng trung ái chứa chan ...".
151 năm đã trôi qua, tôi thắp nén hương chia tay ông mà bùi ngùi tự hỏi: "Nếu không phải Phan Thanh Giản, mà là đại thần khác nhận gánh nặng nan giải ký hòa ước với Pháp thì nỗi đau vong quốc 100 năm này có đổi thay được không? Hãy nhìn sòng phẳng vào làn sóng thực dân phương Tây và hiện tình nước nhà lúc ấy. Lớn như Trung Quốc cũng đại bại và chịu nỗi ô nhục ngàn đời. Nhật Bản cũng thất thế trước phương Tây nhưng nhanh chóng xoay chuyển được tình thế nhờ biết canh tân, học hỏi văn minh xứ người mà vẫn giữ được hồn cốt quốc tổ. Việt Nam liệu có khác biệt được không?
Xưa nay, lịch sử quá nặng nề với "tội bán nước" của Phan Thanh Giản mà quên một góc cạnh đặc biệt khác của tư tưởng ông. Sau chuyến đi sứ ở Pháp về, ông đã nhìn thấy được nhiều vấn đề cần phải đổi thay của Tổ Quốc mình. Những dòng thơ Tư Thán của ông nặng nỗi niềm này: "Từ ngày đi sứ Tây Kinh. Thấy việc Âu Châu phải giật mình. Kêu tỉnh đồng bang cho kịp bước. Hết lời năn nỉ chẳng ai tin". Cũng như Nguyễn Trường Tộ, tư tưởng canh tân, phát triển đất nước của ông gửi đến Tự Đức bị chìm ngập trong lời lẽ bảo thủ ác nghiệt!
Đây cũng chính là thời điểm bước ngoặt của lịch sử Nhật Bản. Quốc đảo với các Samurai vô cùng bảo thủ này đã chọn thay đổi để nhanh chóng phát triển vượt bậc ...
Mặc dù chịu nhiều miệng đời cay đắng, nhưng cũng không ít người soi rọi thấu cùng tâm tư của Phan Thanh Gỉan. Hòa để còn giữ được triều đình, hòa để còn giữ được một phần sơn hà và nền tự chủ tương đối, mà truyền lưu tinh thần ái quốc, kháng chiến Cần Vương, phục quốc và phát triển dân tộc mai sau ...
Tin rằng lịch sử và lòng dân tường minh cho Phan Thanh Gỉan! Tin rằng hương hồn ông sẽ không phải sầu nặng nỗi bi kịch muôn đời!
(Còn tiếp)
(Còn tiếp)


Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét