Chủ Nhật, 31 tháng 10, 2021

MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÊ BÌNH VĂN HỌC VÀ NGƯỜI SÁNG TÁC - LÊ XUÂN

 

Mối quan hệ giữa phê bình văn học và người sáng tác

Lê Xuân

Nhà phê bình Lê Xuân.

 Đặt vấn đề: Nhà thơ Gớt (người Đức) đã nói “Mọi lý thuyết đều là màu xám. Chỉ có cây đồi mãi mãi xanh tươi”. Vì vậy, mọi lý thuyết về Lý luận Phê bình văn học (PBVH) cũng chỉ là điều tham khảo, học hỏi thêm đối với người sáng tác.

Công việc của người phê bình văn học (PBVH):

Nghiên cứu lý luận PBVH là một vấn đề khó, đòi hỏi người viết phải có một trình độ lý luận và một kiến thức tổng hợp trên nhiều phương diện. Và đặc biệt, cần phải có một nhãn quan chính trị tinh nhạy, một quan điểm đúng đắn. Ở thời nào cũng vậy, văn học không thể thoát ly cuộc sống. Muốn hay không văn học từ cái “Tôi” cá thể, thông qua hình tượng nghệ thuật tác động tới con người và cuộc sống, góp phần mở rộng tầm mắt, nâng cao tâm hồn con người.

Trong thời kỳ đất nước mở cửa hội nhập, giao lưu quốc tế trên nhiều lĩnh vực, thời đại bùng nổ thông tin trên mạng internet, thì lý luận PBVH cũng có những điều chỉnh hướng bạn đọc có thể “đồng sáng tạo” với tác giả văn học, và trước hết là cho đội ngũ sáng tác.

Công việc PBVH đòi hỏi người viết phải thấu hiểu tác phẩm, tác giả, khen chê phải khách quan vô tư, không để những tình cảm thân quen hay vụ lợi lấn át, nhằm động viên tác giả phát huy mặt mạnh và thấy được những mặt còn yếu kém để khắc phục. Có người đã nói PBVH như một “ngọn roi”. Nếu ngọn roi ấy quất lung tung sẽ có những tác hại khôn lường.

Người viết PBVH cần phải có tư duy khoa học kết hợp với tư duy nghệ thuật một cách hài hòa, chặt chẽ, và rất cần một sự nhạy cảm trong thẩm định văn chương và phải đọc và hiểu biết thêm nhiều tư liệu ngoài tác phẩm như: âm nhạc, hội họa, kiến trúc, điêu khắc, nhiếp ảnh, địa lý, lịch sử, triết học, xã hội học, ngoại ngữ, internet…

Ngoài ra, người viết PBVH trước hết rất cần một trái tim nhân ái, một tấm lòng vị tha, một cái nhìn khoa học thấu tình đạt lý để hiểu tác phẩm, tác giả. Từ đó hướng dẫn thị hiếu thẩm mỹ cho đông đảo công chúng. Đồng thời còn phải am hiểu tình hình thời sự văn học trong và ngoài nước, nắm được các trào lưu tư tưởng, xu hướng văn học, đặc điểm của các thời kỳ, giai đoạn lịch sử văn học dân tộc.

Mối quan hệ giữa PBVH và người sáng tác ở thành phố Cần Thơ:

Riêng mảng PBVH không những ở Cần Thơ mà cả khu vực ĐBSCL còn thiếu và yếu. Người viết có thể đếm trên đầu ngón tay, còn quá mỏng, chưa tương xứng với sự phát triển của văn học địa phương, ít dẫn đường cho người cầm bút đi đúng quỹ đạo sáng tác. Một số tác giả thỉnh thoảng có viết vài bài PBVH dưới dạng giới thiệu tác phẩm hoặc biên khảo, như: Trần Phỏng Diều, Nguyễn Thanh (Ngũ Lang), Lương Minh Hinh, Trúc Linh Lan, Nắng Xuân. Bài viết phần lớn mới dừng lại ở mức “bàn thêm” về truyện, thơ, bình thơ, hoặc giới thiệu tác giả, tác phẩm… Người viết PBVH ngại đụng chạm những vấn đề “nhạy cảm” của xã hội, của dân tộc. Một số người có ý định trở thành nhà PBVH cũng gác bút, quay sang sáng tác thơ, truyện để đăng báo, tạp chí. Nguyên Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam, Hữu Thỉnh có lần đã nói: “Hiện nay chúng ta đang ‘đốt đuốc’ đi tìm nhà PBVH”. Có lẽ đó cũng là tình trạng chung của cả nước.

Hiện nay có tình trạng là người viết PBVH rất ngại bị “đụng chạm”, sợ bị người khác quy chụp. Trên các Báo và Tạp chí ta thường thấy xuất hiện ba loại nhà PBVH. Một là loại phê bình cánh hẩu, tâng bốc nhau. Hai là loại phê bình bới lông tìm vết, quy chụp. Ba là loại phê bình “dĩ hòa vi quý”, khen chê chung chung. Cả ba loại nhà PBVH trên đều không nên có ở một nền văn học chân chính.

Về phía người sáng tác: Mỗi nhà văn, nhà thơ đều có một năng khiếu “bẩm sinh” mà ta gọi là “thiên phú” (trời cho), không thể lấy cần cù bù lấp được. Nhưng nếu cộng thêm sự cần cù học hỏi, trang bị thêm các kiến thức khác thì rất hữu ích cho việc sáng tác: Ví như: hiểu về ngôn ngữ học, tu từ học, lý luận PBVH… thì tác phẩm của họ sẽ có chiều sâu, có sức nặng hơn. Sáng tác là một công việc cực nhọc như “khổ sai” nhưng nếu có đam mê sẽ đem lại một niềm vui lớn. Nhà thơ Lê Đạt gọi các nhà thơ là “phu chữ”. Khi viết xong một tác phẩm ta như trút được gánh nặng.

Đọc tác phẩm của các nhà văn Cần Thơ đã trãi qua đời lính như: Nguyễn Khai Phong, Phạm Văn Thúy, Nguyễn Đình Thắng, Nguyễn Hồng Chuyên, Trần Thanh Chương, Hkiên Giang, Ngọc Hương… ta sẽ hiểu sâu hơn, đúng hơn về cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trong kháng chiến chống Mỹ, chống bọn bành trướng Trung Quốc ở biên giới phía Bắc và bọn Pôn pốt phía Tây Nam.

Đọc các tiểu thuyết, truyện ngắn, bút ký của các tác giả: Nguyễn Thị Thanh Huệ, Nhật Hồng, Ngọc Tuyết, Vũ Thống Nhất, Ngọc Bích, Lương Minh Hinh, Trần Anh Dũng, Huyền Văn, Cao Thanh Mai… ta hiểu sâu hơn mảnh đất và con người Nam Bộ qua các thời kỳ…

Đọc thơ của các tác giả Lê Chí, Huỳnh Kim, Phù Sa Lộc, Trúc Linh Lan, Đặng Hoàng Thám, Huệ Thi, Nguyệt Ảnh, Nắng Xuân, Phan Huy, Phan Duy… ta cảm nhận được rất nhiều vẻ đẹp về con người và cảnh sắc Nam Bộ qua cái tôi trữ tình đầy cảm xúc…

Nếu các tác giả trên không có vốn sống thực tế, không chịu khó tìm tòi sáng tạo thì làm sao có thể viết được những trang văn, dòng thơ đầy ám ảnh, thuyết phục trái tim người nghe, người đọc.

Song, nếu tác giả được trang bị thêm kiến thức về Lý luận PBVH như: Các trào lưu văn học trong nước và thế giới, các phương pháp sáng tác, các loại thể văn học, đặc trưng văn học, các chủ nghĩa hiện thực, hiện đại, hậu hiện đại, lý thuyết về thi pháp học và các lý thuyết tiếp nhận khác… thì tác phẩm càng mang tính khái quát, phổ biến và có sức nặng. Ví dụ: Đọc tập truyện ký “Đêm vượt sông” của nhà thơ Trần Thanh Chương người đọc không những hiểu biết được nhiều sự kiện, sự việc, con người trong chiến tranh chống Mỹ cứu nước mà còn biết thêm nhiều điều kỳ diệu ở một số nước mà tác giả đặt chân tới, như: Anh, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Phi Lip Pin, Căm Pu Chia… Tác giả đã nắm khá chắc các sự kiện, lịch sử, địa lý liên quan đến bài viết. Anh có 3 bài ký viết về nước ngoài: “Xem bóng đá Anh”, “Uống cà phê Anh” và “Kỳ vĩ Angko Wat”.

Ở “Kỳ vĩ Angkor Wat”, anh luận bàn về nghệ thuật điêu khắc đá: “Về nghệ thuật xếp đá và điêu khắc trên đá, chắc chắn tổ tiên của người Việt và người Trung Hoa đều phải chắp tay bái phục người Khmer cổ đại. Nó xa hơn, tất cả các nghệ nhân chế tác đá trên thế giới – theo tôi, chỉ đáng là học trò của người Khmer. Không hiểu người Khmer cổ đại đã dùng dụng cụ gì để chạm trổ trên đá cứng, tạo ra những bức phù điêu, những hoa văn tuyệt mỹ giống như ngày nay ta chạm trổ trên gỗ. Các nhà khoa học cũng không lý giải nổi bằng cách nào chỉ với phương pháp thủ công, không có chất kết dính mà họ xếp chồng khoảng 10 triệu tảng đá (có tảng nặng 1,5 tấn) thành một công trình cao chót vót vừa vĩ đại, vừa nghệ thuật, gần ngàn năm qua vẫn sừng sững thách thức với thời gian (…) Ngày xưa, người Khmer đã xây dựng được những công trình vĩ đại đạt đến mức hoàn hảo như vậy, thì chắc chắn trình độ khoa học và nền kinh tế của họ phải phát triển đến mức độ rất cao. Không hiểu sao, một nền văn minh huy hoàng bậc nhất Đông Nam Á lại suy tàn nhanh đến thế… Đó là những ý kiến bình luận khá sâu sắc.

Các bài viết về nhân vật lịch sử, như Trạng nguyên Khương Công Phụ hay bài Nhàn đàm về Chúa Trịnh anh đều có những ý kiến bàn thêm về cái đúng, cái sai do lịch sử, do người viết trước để lại.

Ở mảng “Bình thơ”, tác giả thể hiện sự cảm nhận tinh tế và có những so sánh liên tưởng khá thú vị, như bình bài ca dao Thằng Bờm, bài Tình khúc tuổi 50 của Kao Sơn, bài Lơ ngơ một mình của Phạm Phương Lan. Lúc bình thơ ngòi bút của anh tràn đầy cảm hứng thơ, phát hiện được vẻ đẹp tiềm ẩn trong tứ thơ, trong hình ảnh, nhip điệu… làm toát ra giá trị tư tưởng và thẩm mỹ của bài thơ mà tác giả muốn gửi một thông điệp nào đó tới bạn đọc.

Người thứ hai mà tôi muốn nhắc đến là nhà thơ Nắng Xuân (Nguyễn Thanh Toàn): Anh là giảng viên khoa Thủy sản ĐHCT, yêu thích văn chương. Ngoài giảng dạy anh còn là Chủ nhiệm CLB Thơ ca Ninh Kiều, phụ trách nhóm “Gia đình Áo trắng” (phụ san báo Tuổi trẻ) của Cần Thơ, tham gia CLB thơ Đường Cần Thơ… Ở cả hai thể loại Thơ và PBVH anh đều có những gặt hái thành công.

Vậy thì, các kiến thức về PBVH có cần cho nhà văn khi sáng tác văn học hay không? Các bạn hãy tìm lời giải. Xin gợi ý vài điều:

– Các tác giả nên đọc nhiều, đọc cả những tác phẩm có ý trái chiều mà mình không yêu thích để nắm bắt những ý phản biện. Rất cần đọc tác phẩm của các nhà văn lớn trong và ngoài nước. Nếu có điều kiện hãy đọc các giáo trình Đại học về Lý luận văn học hiện nay.

– Khi chưa hiểu một từ hãy tra từ điển ngay (từ điển Tiếng Việt, từ điển Hán Việt…). Riêng các từ địa phương (phương ngữ) không có trong từ điển thì hỏi thêm những người khác…

– Cần tìm hiểu các phương pháp sáng tác, các trào lưu văn học, mối quan hệ giữa “cuộc sống – nhà văn – tác phẩm” để xem tác phẩm của mình có tác dụng gì với bản thân và gửi thông điệp gì tới cuộc sống.

– Luôn trả lời các câu hỏi trước khi viết: Viết cái gì (nội dung), viết để làm gì? (mục đích), viết cho ai? (đối tượng đọc), viết như thế nào? (phương pháp viết).

Tình hình văn học ở Cần Thơ hiện nay:

Văn học ở khu vực ĐBSCL nói chung và TP Cần Thơ nói riêng có bề dày lịch sử và rất giàu tiềm năng, là vùng đất trẻ nhưng có truyền thống văn học đáng tự hào với những danh nhân: Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, Bùi Hữu Nghĩa, Lê Quang Chiểu. Các nhà văn lớp trước và các nhà văn trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ đã làm giàu thêm truyền thống văn học của địa phương.

Nhìn lại những tác phẩm văn học của Cần Thơ thời gian qua trong nền kinh tế tri thức hội nhập, đã có những mặt mạnh và hạn chế đáng lưu ý. Cái mạnh là tác giả luôn giữ được bản sắc văn hoá dân tộc, đặc biệt là những yếu tố mang sắc thái Nam Bộ trong mỗi trang viết. Đọc tác phẩm của nhiều nhà văn Cần Thơ ta thấy mỗi tác giả đều có sự tìm tòi, sáng tạo theo xu hướng mới. Các giá trị “phi vật thể” đó không những là tiếng nói tâm hồn của con người một vùng, một miền mà rộng hơn nó còn là tiếng nói của một cộng đồng với Tổ quốc.

Đội ngũ sáng tác văn học ở Cần Thơ có bước kế thừa và phát triển. Văn xuôi mạnh hơn thơ, nhất là về truyện ngắn và ký. Nhiều tác giả đã xuất hiện trên tạp chí, trên các báo trung ương và địa phương:

Về văn xuôi có: Nguyễn Kim Châu, Trần Minh Thuận, Nguyễn Ngọc Tuyết, Đặng Hoàng Thám, Nhật Hồng, cố nhà văn Nguyễn Khai Phong, Lương Minh Hinh, Nguyễn Thị Thanh Ngọc, Lâm Thị Thanh Hà, Nguyễn Thị Thanh Huệ, Hồ Kiên Giang, Phạm Văn Thuý, Huyền Văn, Ngọc Hương, Cao Thanh Mai, Nguyễn Hồng Chuyên, Hoàng Khánh Duy, Phát Dương, Phong Dương.

Về thơ có: Lê Chí, Trúc Linh Lan, Trần Thanh Chương, Nguyễn Trung Nguyên, Phù Sa Lộc, Huỳnh Kim, Nguyễn An Bình, Phan Duy, Phan Huy, Huệ Thi, Phan Nguyệt Ảnh, Minh Nguyệt, Nắng Xuân, Hoàng Viện … Một số tác giả viết cả thơ và văn xuôi và đã có những thành công đáng khích lệ.

Đời sống văn chương có sôi nổi hơn trước, nhưng ít tranh luận về học thuật, về phương pháp sáng tác. Các cây bút trẻ còn ít, số hội viên lớn tuổi có phần chững lại. Tuy hội viên khá đông nhưng hội viên được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam còn quá ít (hiện nay chỉ có 8 hội viên, thua An Giang, Bến Tre…). Qua các cuộc thi thơ, truyện, ký ở cấp khu vực và cấp tỉnh, các tác giả của Cần Thơ thường đạt giải nhưng giải cao còn ít.

Mặt hạn chế của một số tác giả là vốn tri thức, lý luận và thâm nhập thực tiễn chưa nhiều nên tác phẩm ít có sức khái quát chiều rộng lẫn chiều sâu. Phần lớn các tác phẩm thơ cũng như truyện còn nặng về tường thuật, miêu tả, kể lể, giãi bày tâm sự đơn thuần, khai thác mảng đời tư… Sự tìm tòi, khám phá để có sự cách tân về ngôn ngữ, thể loại còn ít. Số tác giả viết tiểu thuyết càng rất ít.

Kết luận:

Lý luận PBVH có thể xem là một chìa khóa để ta có thể mở cửa tiếp nhận và vận dụng nhiều điều cần và đủ góp phần làm cho tác phẩm có sức nặng hơn.

Cần Thơ là vùng đất còn trẻ, giàu tiềm lực, tôi tin rằng tương lai sẽ có những tác phẩm văn học hiện đại, giàu tính nhân văn, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu được những tinh hoa văn hoá nhân loại, góp phần làm đẹp, làm giàu kho tàng văn học Cần Thơ nói riêng và văn học nước nhà nói chung.

L.X

PHẠM NGỌC LƯ, NGƯỜI VẪN GIỮ LỬA CHO NỀN VĂN HỌC MIỀN NAM - ĐỖ TRƯỜNG

 PHẠM NGỌC LƯ, NGƯỜI VẪN GIỮ LỬA CHO NỀN VĂN HỌC MIỀN NAM

(Chân dung nhà văn- Đỗ Trường)
Từ độ “đất trời dị biệt, gió mây bất đồng“ thì nền Văn học miền Nam bị khai tử. Và tròn bốn mươi năm, tưởng chừng nó cũng đã chìm vào lãng quên. Nhưng nhìn lại, dường như dòng văn học ấy vẫn nảy nở, âm thầm chảy trong lòng đất Việt. Có thể nói, ngay sau biến cố 1975 dòng chảy đó tự chẻ ra như những nhánh sông luân lạc… rồi tìm về, tụ lại đó đây. Tuy chưa thể cháy lên, nhưng nó đã cùng với những nhà thơ, nhà văn hải ngoại làm ấm lại phần nào cho nền Văn học miền Nam.
Nếu được phép đi tìm những khuôn mặt cho Văn học miền Nam còn ở lại trong nước, chắc chắn thi sĩ tôi nghĩ đến trước nhất phải là Phạm Ngọc Lư. Tuy viết không nhiều, nhưng cốt cách Con Người cũng như hồn vía văn thơ của ông trong một cái xã hội dối trá lọc lừa, không phải ai cũng giữ được.
Nhà thơ Phạm Ngọc Lư sinh năm 1946 tại một làng nhỏ vùng duyên hải thuộc huyện Phú Vang tỉnh Thừa Thiên cách thành phố Huế khoảng 30 cây số về hướng Đông Nam, trong một gia đình thuần nông. Ngay từ thuở ấu thơ Phạm Ngọc Lư đã được cha và người bác truyền dạy chữ Hán. Ông là cựu học sinh Quốc Học, sinh viên Viện Hán học và Đại học Văn Khoa Huế. Sau khi tốt nghiệp sư phạm Qui Nhơn, ông về dạy học ở Tuy Hòa. Năm sau, 1968, ông bị (được?) động viên nhập ngũ khóa 5/68 Sĩ quan trừ bị Thủ Đức. Chỉ một thời gian ngắn tập luyện ở quân trường, ông lại được biệt phái trở về ngành giáo dục. Nhưng sau năm 1975, ông bỏ nghề. Từ đây, hoàn cảnh, xã hội đã đẩy Phạm Ngọc Lư phiêu bạt nhiều nơi, có những lúc cuộc sống, tâm hồn tuyệt vọng, tưởng chừng ông đã đoạn tuyệt với thi ca. Nhưng rồi chính nó lại là điểm tựa, giúp ông vượt qua những đắng cay, tủi nhục ấy. Và Đà Nẵng mới là nơi hội tụ, điểm dừng chân cuối, không chỉ riêng ông, mà còn của nhiều thi nhân lỡ bước khác.
Phạm Ngọc Lư xuất hiện trên thi đàn rất sớm. Từ năm 17 tuổi (1963) ông bắt đầu tập viết và vài ba năm sau đó đã có thơ và truyện đăng trên các báo, nguyệt san: Nghệ Thuật, Văn, Khởi Hành, Bách Khoa, Ý Thức, Tuổi Ngọc… Thơ Phạm Ngọc Lư mang đậm chất cổ thi và sử dụng nhiều điển tích cũng như từ ngữ Hán Việt. Do vậy, thơ ông cổ kính sang trọng, nhưng khi đọc lên tưởng chừng rất dễ vỡ.
Qủa thực, khi đọc, nghiên cứu Phạm Ngọc Lư, đôi khi ta bắt gặp một vài thủ pháp nghệ thuật sử dụng hình ảnh, câu từ khá tương đồng với cố thi sĩ Vũ Hoàng Chương. Bởi, có lẽ hai thi sĩ đều có điểm chung, học chữ Hán và có nền tảng cổ văn khá vững, ngay từ thuở thiếu thời chăng? Tuy là vậy, nhưng tư tưởng, hồn vía trong thơ lại có những khúc rẽ rất khác nhau.
*Tiếng chuông chiêu hồn vọng lên trong thơ.
Sinh ra và lớn lên trong giai đoạn đất nước không có một ngày bình yên, do vậy Phạm Ngọc Lư thấm được nỗi đau và sự mất mát trong chiến tranh và nỗi thống khổ sau cuộc chiến. Là nhà giáo, không phải cầm súng nơi chiến trường, nhưng với ngòi bút của mình, người thi sĩ trẻ ấy đã bóc trần sự thật của chiến tranh. Có thể nói, Biên Cương Hành là một trong những bài thơ hay nhất viết về chiến tranh, không chỉ của thi ca miền Nam, mà cho cả nền thi ca đất Việt. Đa số những bài viết về đề tài chiến tranh, hay cổ động chiến tranh thường có giá trị nhất thời. Nhưng Biên Cương Hành lại có sức sống dẻo dai và sự lan tỏa mạnh mẽ, bởi ngoài sự thật tàn khốc của chiến tranh, nó còn chứa đựng giá trị nghệ thuật cao.
Bài thơ này, Phạm Ngọc Lư viết vào tháng 5-1972, theo thể Hành, như những tiếng chuông chiêu hồn vọng lên trong không gian (đã trở về) tĩnh lặng, giữa chiến trường sặc mùi tanh của đất chết. Với chỉ một câu khẩu ngữ so sánh cũ kỹ, bình thường: “Chiến trường ném binh như vãi đậu“ nhưng đã được thi sĩ đặt đúng vào vị trí, văn cảnh, nó trở thành câu mới, hình tượng so sánh ẩn dụ mới. Hình ảnh đó là sự tàn nhẫn, với nỗi đau tận cùng và thân phận rẻ mạt của người lính trong chiến tranh. Và đằng sau nó như một bản cáo trạng tội ác đối với những kẻ đã gây ra cuộc nội chiến, huynh đệ tương tàn của nhà thơ. Chúng ta hãy đọc lại đoạn trích dưới đây để thấy rõ điều đó:
“… Máu đã nuôi rừng xanh xanh ngắt
Núi chập chùng như dãy mồ chôn
Gớm, gió Lào tanh mùi đất chết
Thổi lấp rừng già bạt núi non
Mùa khô tới theo chân thù địch
Ta về theo cho rậm chiến trường
Chiến trường ném binh như vãi đậu
Đoàn quân ma bay khắp bốn phương
Lớp lớp chồm lên đè bẹp núi
Núi mang cao điểm ngút oan hờn…“ (Biên cương hành)
Viết về chiến tranh, có lẽ không có thể thơ nào chuyển tải và lột tả hết cái bi thương bằng thể thơ Hành. Thật vậy, như có lần tôi đã viết: Hành thuộc thơ cổ, có xuất xứ từ Trung Quốc, thường viết theo thể thất ngôn, ngũ ngôn, hoặc dài ngắn tùy thuộc tâm trạng, cảm xúc của tác giả. Nó là thể thơ khó nhằn, khó viết. Nhìn chung, các nhà thơ Việt rất ít sử dụng thể loại này.
Đã đọc khá nhiều thơ thể hành, nhưng quả thực, còn đọng lại trong tôi không nhiều. Bởi, tuy là thể thơ mang tính tự do, phóng khoáng, nhưng để đạt đến cái đỉnh bi tráng, thực sự lay động lòng người, không phải nhà thơ nào cũng làm được. Với tôi, kể từ khi có thơ mới đến nay: Tống Biệt Hành của Thâm Tâm, Hành Phương Nam của Nguyễn Bính, Trường Sa Hành của Tô Thùy Yên, Biên Cương Hành của Phạm Ngọc Lư và Đau Thương Hành gần đây của Thế Dũng là những bài thơ hay, mang lại cho tôi nhiều cảm xúc nhất, khi đọc thể loại này.
Phạm Ngọc Lư dường như đã bước ra khỏi cuộc chiến, để viết. Với cái nhìn bình tâm và khách quan như vậy, hình ảnh chiến tranh cũng như thân phận con người hiện lên một cách trung thực nhất. Và con đường cùng, tịt lối ấy: “Chưa hết thanh xuân đã cùng đường“ không chỉ dành riêng cho những người lính, hay những cô phụ mà là ngõ cụt cho cả một dân tộc:
“…Đá mang dáng dấp hình chinh phụ
Trơ vơ chóp núi đứng bồng con
Khu chiến ngày tràn lan lửa dậy
Đá Vọng Phu mọc khắp biên cương
Biên cương biên cương đi biền biệt
Chưa hết thanh xuân đã cùng đường
Trông núi có khi lầm bóng vợ
Ôm đá mà mơ chuyện yêu đương
Thôi em, sá chi ta mà đợi
Sá chi hạt cát giữa sa trường
Sa trường anh hùng còn vùi dập
Há rằng ta biết hẹn gì hơn?...“ (Biên cương hành)
Có thể nói, Phạm Ngọc Lư là một nhà thơ giầu trí tưởng tượng, có lối nhìn và sự quan sát tỉ mỉ. Chỉ với một vài hình tượng so sánh:“Tử khí bốc lên dày như sương/ Đá chảy mồ hôi rừng ứa máu“ ông đã dựng lại khung cảnh khác tang thương hơn, ngay sau trận chiến. Tuy không nghe tiếng súng tiếng bom, nhưng ta thấy mùi tử khí bốc lên ngùn ngụt. Nó phơi bày sự chém giết, hủy diệt một cách tàn nhẫn của con người với con người.
Nếu Văn Chiêu Hồn của Nguyễn Du làm cho ta phải rợn người khi đọc, thì Biên Cương Hành của Phạm Ngọc Lư sẽ làm ta phải sởn gai ốc, lạnh toát cả sống lưng. Thật vậy, đây là áng văn chiêu hồn hú lên, không chỉ cho những cô hồn đã chết, mà còn cho cả những cô hồn còn sống trong cũng như sau cuộc chiến này:
“…Quân len lỏi dưới tàn lá dữ
Lá xôn xao xanh mặt hoảng hồn
Sát khí đằng đằng rừng dựng tóc
Ma thiêng còn ngán lũ cô hồn
Cô hồn một lũ nơi quan tái
Có khi đã hoá thành thú muông
Cô hồn một lũ nơi đất trích
Vỗ đá mà ca ngông hát cuồng
Chém cây cho đỡ thèm giết chóc
Đỡ thèm môi mắt gái buôn hương…“ (Biên cương hành)
Gần đây có một nhà thơ già bảo tôi: Sau 43 năm, đọc lại Biên Cương Hành, vẫn cảm thấy mới và có những cảm xúc như lần đầu vậy.
Vâng! Đúng vậy, đó là một thi phẩm toàn bích của Phạm Ngọc Lư. Và tôi nghĩ, cùng với Tống Biệt Hành của Thâm Tâm, Hành Phương Nam của Nguyễn Bính…Biên Cương Hành của ông sẽ sống cùng thời gian.
*Thân phận trí thức sau chiến tranh.
Có lẽ, sau chiến tranh, sự bắt bớ cải tạo tù đày, đánh công thương, di dân kinh tế mới còn dã man, rùng rợn hơn cả bom rơi đạn nổ thời chiến. Nếu thời chiến, chiến trường chỉ xảy ra ở một khu, một vùng, thì thời bình (sau 30-4-1975), chiến trường mới thâm hiểm hơn, trải dài trên toàn tấm thân gầy đất Việt. Do vậy, bình an không thể tìm bất cứ nơi nào trên đất mẹ. Dòng người lao ra biển, người ở lại luẩn quẩn trong vòng tròn nghiệt ngã.
Cuộc sống bần cùng không lối thoát ấy, đã được thi sĩ chép lại bằng thơ. Có thể nói, Phạm Ngọc Lư là hình ảnh điển hình nhất của trí thức miền Nam sau ngày 30 tháng 4. Từ một nhà thơ, người thày, bị bật ra khỏi cuộc sống và xã hội, ông ngơ ngác giữa vòng đời nghiệt ngã:“Ma xui quỷ khiến ta ngồi chợ/ bán gió rao trăng một núi dừa!“. Trong tận cùng bi thảm đó, chìm vào những cơn say, mới có thể làm cho người thi sĩ quên đi những bi quan và chán trường chăng?
“Thôi để yên ta bên chén rượu
Uống say…thành bại cũng bằng thừa
Uống say…ném áo lên nóc quán
Hết nợ hết duyên vĩnh biệt dừa“ (Ngồi chợ)
Nhưng thi sĩ đã lầm. Rượu và những cơn say ấy, chỉ có thể bần cùng hóa thi nhân, chứ không thể kéo ông ra khỏi những gian nan, rách nát của cuộc đời. Và biên cương sặc mùi tử khí, cao su rừng được bón bằng những xác người chết trận, chắc hẳn là nơi thi sĩ phải đi đến:
“… Trời sinh chi đôi vai thêm khổ
Gánh gian nan như gánh tội đồ
Sinh chi kẻ sĩ đem đày đọa
Chôn vùi nơi nắng bẩn mưa dơ
Đi giữa rừng cao su trùng điệp
Lòng đau như vết cạo còn tươi
Mủ cứ chảy bám dày tâm sự
Tâm sự đùn cao như gò mối chôn người…“ (Bụi đỏ)
Người thi sĩ như đèn cù bị dẫn chạy trong vòng vạch sẵn. Cánh đồng hoang bủa vây thân người. Chân trời rộng, nhưng đường về không lối. Sự đầy đọa về thể xác lẫn tư tưởng tâm hồn con người của chế độ hoang tưởng đương thời, không chỉ báo hiệu con đường cụt trước mặt, mà còn giết chết linh hồn của cả một dân tộc. Chiều Qua Châu Thổ là ký ức về những năm tháng lặn ngụp ở đầm lầy Đồng Tháp của Phạm Ngọc Lư. Tuy nó không nằm trong số những bài thơ hay nhất của ông, nhưng đọc ta thấy được tâm trạng cũng như thân phận bèo bọt của kiếp người:
“…Đồng khô rậm tiếng ếch kêu
Mây hoang ủ rũ đăm chiêu rối lòng
Chân trời dang rộng mênh mông
Cố hương thăm thẳm tịnh không lối về
Giang hà im bặt thuyền ghe
Tha phương nhật mộ… não nề bèo mây“
Tròn một con giáp trong cái vòng luẩn quẩn “Đất khách lênh đênh tròn một giáp/ Mười hai năm - mười hai bến đục ngầu“ Phạm Ngọc Lư vùi mình trong kiếp lưu đày với nỗi đau xé nát tâm hồn. Và chính giai đoạn này, sự bần hàn cơ cực và chiếc còng vô hình treo lơ lửng trên đầu người thi sĩ thực sự đã giết chết tuổi xanh, khóa chặt thi hứng Phạm Ngọc Lư “Đỏ quạch mồ hôi chua cơm áo/ Cơm áo bạc tình bán hết thanh xuân“. Sau này, trong giây phút tĩnh tâm trở lại, Phạm Ngọc Lư đã mượn hình tượng đề thơ trên đá của tiền nhân, để khắc lại nỗi đau và sự cô đơn ấy của mình. Lên Núi Đề Thơ là một trong những bài thơ hay viết theo thể lục bát đã khắc họa thành công con người, tâm trạng của Phạm Ngọc Lư như vậy:
“…Chiều hôm non nước lặng tờ
Lòng tôi gọt đá đề thơ khóc mình
Đau tay khắc đậm chút tình
Mũi dao là lệ nhân sinh ròng ròng
Ngàn sau hồn chữ rêu phong
Miên man thiên địa… tấc lòng du du …»
Sau biến cố 30- 4- 1975, thì giá trị đạo đức, giá trị con người bị đảo lộn tùng phèo. Nền văn học miền Nam chính thức bị khai tử, nạn đốt sách, truy bức, tù tội các nhà văn một cách dã man và tàn bạo. Phải sống trong một xã hội nhơ nhuốc, bóp chặt bao tử, lấy miếng ăn làm thước đo nhân phẩm và cai trị con người như vậy, giữ được nhân cách biết còn lại bao người?
Tuy nhiên, khi đọc và nghiên cứu Phạm Ngọc Lư, tôi thấy bóng dáng và chí khí kẻ sĩ bất phục trước danh vọng, tiền tài và quyền lực của nhà thơ Hữu Loan ở trong ông. Đề Thơ Trước Mộ Thanh Xuân là một bài thơ hay, được Phạm Ngọc Lư viết gần đây. Nó như một lời tự sự và những chiêm nghiệm nhân tình thế thái về chính cuộc đời của thi sĩ đã trải qua. Có thể nói, chính đọc bài thơ này của Phạm Ngọc Lư đã gây cho tôi một cảm xúc muốn viết về ông. Chúng ta đọc đoạn trích dưới đây để thấy được cái khí khái và con người thi sĩ Phạm Ngọc Lư :
« Có người bảo ta ngu
Không thèm ăn thóc nhà Chu
Bỏ về quê ăn cỏ
Có kẻ khoái ta ương gàn càn rỡ
Dám chê rượu nhà Tần
Thứ rượu cung đình của phường hiển vinh quý tộc
Tuổi mới ba mươi
Có ai ngờ ta uống hèn nuốt nhục
Lấy giẻ rách che tai
Cắm chông gai rào miệng
Nhặt nhạnh gia tư ít đồ tế nhuyễn
Trèo lên xe trâu
Lui về quê kiểng
Mài răng gặm nhấm cái thanh bần...”
Sự trấn áp, bóp nghẹt tư tưởng văn nghệ sĩ, trí thức cho đến nay, càng bộc lộ sự yếu đuối, bất lực của chính quyền. Những việc làm ấy, chỉ có thể cưỡng chế, nhục mạ thân xác con người, chứ không thể bóp méo suy nghĩ, tư tưởng của họ. Và tôi tin, linh hồn ấy vẫn rực cháy lên... Thật vậy! Tiền tài, danh vọng rồi sẽ qua đi, nhưng tài năng, hồn khí của những thi sĩ, trí thức như Hữu Loan, Phạm Ngọc Lư... chắc chắn sẽ còn đọng mãi qua nhiều thế hệ người đọc.
*Tìm lại hồn thơ cũ.
Tôi biết và đọc Phạm Ngọc Lư khi đi vào nghiên cứu thể thơ Hành, cách nay chưa lâu. Nhưng có thể nói, thơ ông không cầu kỳ, nhưng sáng và trau chuốt. Nó gắn liền với số phận cùng cực của chính nhà thơ, dưới một xã hội đương thời điên đảo dối trá. Với tâm hồn muôn năm cũ và là người luôn sống bằng những hoài niệm u buồn: «Ngủ quên bên chén rượu tàn / Giật mình tỉnh giấc: hai ngàn năm qua!»Do vậy, thơ ông mang nhiều những ưu tư, có chiều sâu suy tưởng, cho ta cảm giác được trở về gần gũi với tiền nhân hơn, khi đọc. Có lẽ, được học chữ Hán và tiếp cận rất sớm với văn học cổ, nên nó đã ảnh hưởng rất lớn đến thơ văn cũng như quá trình sáng tác của Phạm Ngọc Lư. Ông viết nhiều thể loại, mọi đề tài, nhưng lục bát mới là sở trường của ông. Thật vậy, đọc thi tập Đan Tâm, ta có thể thấy, những bài thơ hay của Phạm Ngọc Lư hầu như đều thuộc về thể lục bát.
Nếu những năm gần đây, nở rộ trào lưu cách tân của những thơ không vần, hay những tượng trưng, siêu thực…thì Phạm Ngọc Lư cần mẫn đi nhặt lại hồn thơ cũ. Và có thể nói, ông là một trong những nhà thơ đã thổi hồn cổ phong vào thơ lục bát:
« …Một trời mây lặng gió im
Vút lên cánh hạc giữa tiềm thức hoang
Bay bay lá mộng chín vàng
Bay theo oanh yến lai hoàn kiếp chim
Chập chờn một bóng hoàng uyên
Nhập thân hoàng hạc vào thiên cổ rồi!...” (Chim Mộng)
Vẫn hồn vía cổ thi, thơ tình lục bát của Phạm Ngọc Lư lại mang dáng dấp hiện đại, mới lạ. Thơ lục bát dễ làm, nhưng để không bị nhạt và nhàm chán thì thật không phải ai cũng làm được. Chúng ta hãy bình tâm nhìn lại, hiện tượng lục bát được cho tài năng Đồng Đức Bốn (Hải Phòng) từ mấy chục năm qua. Có thể thấy, thơ ông có cái vỏ đẹp, mượt mà, nhưng nhìn tổng thể thiếu bề dày, chiều sâu. Bởi, thành thật mà nói, Đồng Đức Bốn dường như viết theo (năng khiếu) bản năng và thiếu phần kiến thức. Khi đọc lục bát Phạm Ngọc Lư, ta thấy được sự tìm tòi sáng tạo và những kiến thức sâu rộng của ông đọng lại trong thơ rất rõ ràng. Thật vậy, một nhà thơ tài năng, ngoài năng khiếu bẩm sinh dứt khoát phải có kiến thức sâu rộng:
“Em từ tình sử bước ra
Y trang yểu điệu đôi tà mộng bay…
Chờ nhau gác gió lầu mây
Nghìn đêm giọt nến rơi đầy trang thơ
Nghìn đêm sông lạnh trăng mờ
Trương Chi bạc tóc bên bờ Tương giang!..” ( Thuyền Quyên)
Trên nửa thế kỷ qua, Phạm Ngọc Lư không ngừng tìm tòi, sáng tạo dung hòa giữa thơ cũ và mới, để tạo ra một con đường đi riêng. Sóng Vỗ là một bài lục bát rất hay, không chỉ là lời tự sự, cũng như tâm trạng của nhà thơ với người bạn đã vượt thoát và đang sống ở bên kia bờ đại dương, mà còn tô đậm thêm con đường thơ lục bát của ông:
« từ khi mưa nắng đổi thay
đất trời dị biệt gió mây bất đồng
người bờ Tây - ta bờ đông
ngồi nghe sóng vỗ bạc lòng ngày đêm
. . . . .
lòng ta uống gió mà say
tan ra cồn khói đảo mây chập chờn
biển sâu?
ly biệt sâu hơn !
muôn đời sóng vỗ mỏi mòn bến không
mỏi mòn tiếng sóng nghe chung
bờ Tây tóc rụng... bờ Đông bạc đầu! »
Thông thường, một nhà thơ tài năng, dù là cây cao bóng cả, có nhiều bài thơ hay nhưng cũng không thiếu những bài thơ dở. Đặc biệt trong tập Đan Tâm của Phạm Ngọc Lư, đã đọc nhiều lần, quả thật, tôi không tìm ra bài thơ nào dở hoặc quá dở. Có lẽ, do tính cẩn thận và ông viết rất ít, nên chưng lọc được tinh cốt chăng?.
Và cũng như nhà thơ Vũ Hoàng Chương do dùng nhiều từ cổ Hán Việt cũng như điển tích, cho nên thơ của Phạm Ngọc Lư thường khó nhận được sự chia xẻ, đồng cảm trong giới bình dân.
Nói thơ ông kén người đọc là như vậy.
Leipzig ngày 15-6-2015
Đỗ Trường
Có thể là hình ảnh về 1 người, đang đứng, ngoài trời và cây

Thứ Bảy, 30 tháng 10, 2021

" MAI SAU DÙ CÓ BAO GIỜ " - AN SƠN

 " MAI SAU DÙ CÓ BAO GIỜ "

Mùa Đông 2005 tôi xem trên VTV3 chương trình Con đường âm nhạc nói về sự nghiệp âm nhạc của NS Phan Huỳnh Điểu, trong phần đối thoại ông đã nói lên một ý mà tôi còn nhớ nguyên văn đến bây giờ :
Viết nhạc đã khó rồi nhưng đặt lời thì cũng không dễ, bởi vậy nên tôi thường dùng thơ để phổ nhạc, vì từ ngữ của thơ đã được sàng lọc kỹ càng . Ấy vậy mà vừa rồi tôi đi bộ ra đầu hẻm mình ở nghe nhạc trong quán cafe vọng ra : Ô... người con gái kia ...ô ...ô..., tôi ngạc nhiên lắm đi thêm một đoạn đường nữa cũng lại nghe quán khác : Ô...ô..., thất vọng vô cùng, sao mà người ta làm nghệ thuật cẩu thả vậy, mà sao lại được cục biểu diễn nghệ thuật cho lưu hành ?!
Thời gian gần đây, trong những ngày ngồi nhà phòng tránh dịch, tôi dạo trên mạng youtube tìm nghe nhạc Phạm Duy gặp chương trình Paris By Night 19 chủ đề Tác phẩm và con người Phạm Duy, do chính NS trả lời đối thoại với MC, tôi mê ngay từ phút đầu bởi người phỏng vấn là ông Đỗ Văn cựu biên tập viên và xướng ngôn viên ban Việt ngữ đài BBC từ thập niên 60 đến thập niên 80 của thế kỷ XX . Thực ra thì Paris By Night có lâu rồi từ thời Phạm Duy còn ở hải ngoại, chỉ là do mình chưa biết thôi
Sau 17 ca khúc tiêu biểu tâm trạng NS qua các giai đoạn của xã hội, chương trình được kết thúc bằng tiết mục đồng ca của tất cả ca sĩ và người làm chương trình với ca khúc Việt Nam Việt Nam . Tôi thật xúc động cho số phận bài hát này, bỡi có thể nói Việt Nam Việt Nam và Tiếng nước tôi ( Tình ca ) là cặp song sinh độc đáo nhất của sự nghiệp Phạm Duy, nhưng VN VN chưa được cấp phép lưu hành, dù người viết ra nó đã mỏi mòn chờ đợi đến ngày tàn tháng tận trên giường bệnh .
Và tôi chợt nhớ đến NS Phan Huỳnh Điểu rồi thoáng nghĩ vẫn vơ : Cái nghiệp viết lách bây giờ có lẽ viết theo kiểu Ô... người con gái kia ...ô...ô thì dễ được chấp nhận hơn là : Việt Nam đây tiếng nói đi xây tình người
Tôi nhủ lòng với riêng mình nếu như một ngày nào đó bài hát Việt Nam Việt Nam được cấp phép lưu hành thì mình sẽ ngậm ngùi mà nhẩm câu Kiều :
Trông ra ngọn cỏ gió cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về

TÔI CÓ SAI? - PHÙNG HI

 TÔI CÓ SAI?

(Truyện của anh Phung Hi, một nhà văn, nhà giáo ở PY, tôi từng đọc. Cảm ơn anh có những chia sẻ mà gv nào cũng có thể gặp phải )
Tôi là giáo viên dạy toán, không còn trẻ, không tiếng tăm, nghèo, ngoại hình xấu và thường bị vợ chê hơi ngu. Những phụ nữ chê chồng như vợ tôi có thể lập hẳn một câu lạc bộ để sinh hoạt hợp pháp và học hỏi nhau.
Tôi băng ngang sân trường về phòng chờ uống trà. Bỗng nghe sau lưng, từ hành lang trên lầu giọng một nam sinh hét to, vọng xuống: “Ê, mày tưởng mày ngon hả mậy?”.
Chính nó, nam sinh lớp 12 khi nãy bị tôi rầy: “Trong giờ học sao lại chơi game, anh không học thì có cần ở trong lớp không?”.
Tôi không quay lại, nó hét lên lần nữa: “Ê, mày tưởng mày ngon hả mậy?”. Nó gọi tôi khiêu khích. “Mày”, tiếng xưng hô tao - mày vẫn thường nghe trong đối thoại của người Việt, nhưng gọi giáo viên “Ê, mày...” như thế nghe sốc nặng, một sự vô lễ đến kinh hoàng. Tôi loạng choạng vì nhịp tim tăng tốc, máu chuyển hết lên đầu, cặp chân muốn khụy. Về tới phòng giáo viên, tôi run lập cập vì cơn giận muốn bung ra, mà không biết nó sẽ bung ra như thế nào.
Cái câu tôi nói “Anh không học thì có cần ở trong lớp không?” là nặng với nó sao? Tôi uống ly nước trà, bị sặc nước văng tung tóe. Tôi xử lý sao đây, nhất là trong bối cảnh xã hội đang chê giáo viên thiếu kỹ năng sư phạm, dù ít ai tỏ tường kỹ năng sư phạm gồm những gì? Nhẫn nhục, mackeno... hay làm gì đây hả cộng đồng mạng?
Hay tôi gặp nó để chất vấn: “Sao em gọi thầy như thế?”. Nghe xoàng quá, mà chắc chắn nó chối phắt: “Em nói thằng bạn chớ đâu có nói thầy”.
Hay tôi gặp nó mắng: “Trò mất dạy thế à?”. Tôi tưởng tượng nó sẽ rút dao đâm tôi một nhát vô bụng, như có thầy từng bị.
Hay tôi gặp nó xáng cho một bạt tai? Tôi hình dung phụ huynh của nó kéo đến trường chấn cho tôi một cú sập sống mũi, vì có thầy từng bị.
Tôi trù dập nó không được thi tốt nghiệp? Thực chất thì nó cộng trừ số nguyên chưa rành, nó ngồi nhầm cấp học, cấp một ngồi nhầm qua cấp ba, quá đau cho giáo viên. Nhưng coi chừng tôi sẽ bị đình chỉ giảng dạy như chơi, sau khi nghe hàng loạt ngôn từ hình sự rằng cần xử lý nghiêm minh, đúng người đúng tội của các cấp quản lý? Kiếm miếng cơm bằng nghề giáo nay tới lúc hiểm nguy.
Nó sẽ chối khi phụ huynh được mời đến trường để nghe sự việc. Nó sẽ chối khi ban giám hiệu can thiệp. Bỏ qua, coi như không biết ư? Ban giám hiệu cười vỗ vai tôi, thôi coi như nó kêu ai đó, tai nạn nghề nghiệp như bao nghề nghiệp. Nghĩ đến đó tôi giận run, tim đập thình thịch, mệt bã người. Cái câu “TIÊN HỌC LỄ HẬU HỌC VĂN” treo trang trọng kia như làm dáng, như trêu ngươi, như ngón đòn đá xéo giáo viên.
Tôi vô lớp 12 đó đến bốn lần một tuần để dạy đủ năm tiết toán. Đầu giờ nó nhìn tôi cười quái dị một lúc, rồi cúi mặt vô iPhone chơi game, hoặc ngủ, hoặc nó chọc phá các bạn và nói chuyện rất to, to hơn cả tiếng tôi giảng bài. Tôi tức ngợp khó thở, quá ngưỡng chịu đựng. Tôi không thể nào tập trung để dạy cho tốt được. Tôi ước dây thần kinh mình bằng thép.
Mấy tuần sau cứ thế. Tức đến mức ăn không ngon, ngủ mồ hôi toát ra đầm đìa, sụt cân, da xanh tái, già đi trông thấy. Vợ hỏi: “Anh có bịnh gì không, đi khám đi? Dạy có mấy đồng bạc mà lao tâm khổ tứ”. Vợ khinh tôi không biết làm ra nhiều tiền. Vợ chê tôi dạy dở nên không ai thèm tới nhà học thêm. Vợ thường so tôi với thầy dạy toán của nàng khi xưa, một ông thầy tài hoa sang trọng của một nền giáo dục vàng son. Tôi không tin, không cãi, và tất nhiên cũng không thể chia sẻ được với nàng vụ “dính đòn” quá đau lòng này.
Giữa tôi và nó đã đảo lộn quyền uy. Nó, chứ không phải tôi, mới có quyền làm gì trong lớp học. Thầy giáo nắm giữ tri thức ư? Không là cái đinh gì, xưa rồi.
Chịu không nổi nữa. Gặp nó trên hành lang, nó cười quái dị với tôi, tôi đề nghị: “Anh xuống phòng chờ của giáo viên gặp tôi một chút”. Nó hỏi xỏ lá: “Vụ gì đây?”.
Nó yên vị một ghế, tôi ngồi ghế đối diện. Nó cài kín nút cổ nhưng vết xăm trổ vẫn tràn ra, bò lên hai mang tai với ba màu đen, đỏ và chàm.
Trường không có bàn làm việc cho từng giáo viên, lý giải giáo viên đã có bàn làm việc trên lớp. Phòng chờ của giáo viên có cái bàn chung uống trà, nên mấy đồng nghiệp di tản ra ngoài.
Tôi bắt đầu, chậm rãi: “Thầy dạy đến nay hơn hai mươi năm, chưa có cái nhà cho đàng hoàng để ở. Lương bổng không nhiều nên cả xã hội coi khinh nghề giáo. Thầy cũng không tìm cách dạy thêm vì sợ các em tốn thêm tiền”. Tôi nhìn vào mắt nó thấy có chút cảm động nên không than nghèo kể khổ nữa, tôi chốt bằng câu: “Coi ra thầy cũng thuộc dạng đáng thương, đúng không? Sao em nỡ đối xử với thầy như thế?”. Tôi dùng “khổ nhục kế” và thành công, nó nhận câu hét to sau lưng tôi: “Ê, mày tưởng mày ngon hả mậy!?” là nhắm vào tôi, chứ không chối là nói thằng bạn. Thưa các bạn Facebookers, YouTubers... vậy tôi được xem có kỹ năng sư phạm chưa nhỉ?
Tôi tiếp: “Nếu em thấy bất bình trong cuộc sống thì đừng đến trường trút vô thầy cô, tội nghiệp. Xung quanh em đó, gần nhà em đó, có kẻ làm quan cấp xã, cấp huyện lương hằng tháng thua thầy xa nhưng họ cất nhà cao cửa rộng, vợ con sung sướng chi tiêu, xe hơi đưa đón. Em có bao giờ tự hỏi tiền ở đâu họ nhiều thế? Em có dám đối mặt họ để hỏi cho ra lẽ không?”.
Nó ậm ừ xin lỗi tôi rồi về lớp.
Tôi nguôi giận vì vừa thực hiện xong ác ý, xúi nó giải quyết giúp tôi một bức xúc rằng tôi học hành đàng hoàng, chuyên môn nghiệp vụ bài bản mà đời sống cực khổ thế này.
Hôm sau vào lớp, nó không cười quái dị với tôi nữa, chỉ cúi mặt chơi game. Chắc nó nghĩ không quấy tôi dạy đã là ăn năn, là tốt lắm rồi. Nó từng trả treo với tôi: “Toán mà thi trắc nghiệm thì cần quái gì học vẫn làm được bài”.
Thi trung học phổ thông quốc gia nó đậu. Giấy báo gọi nó học đại học và nhiều đứa tương tự như nó, bay về trường như bướm. Nhưng ngay tuần sau tôi nghe tin, từ làng xóm, một vụ choảng nhau ra trò. Nó cùng ba thanh niên choi choi chặn xe ông quan huyện lúc chạng vạng tối với hung khí cầm tay. Nó hỏi: “Đ.M, mày lương tháng bao nhiêu mà giàu có thế?”. Không ngờ ông quan xuất thân võ biền, trong xe còn có tài xế to khỏe, cũng xuất xứ như ông, võ nghệ đầy mình, trên xe thế nào lại sẵn cả gậy gộc. Hai đối bốn, quan huyện cùng tài xế đập cho bọn nó một trận thừa chết thiếu sống. Phần nó bị gãy chân, lại chủ mưu gây rối nên công an huyện gô cổ về đồn, rồi cho đi tù với bản án ba năm.
Giáo viên trong trường ai nấy thở phào, sướng: “Đáng đời cái thằng, nó hành hạ mình mấy năm nay”. Còn tôi, diễn tả tâm trạng thế nào nhỉ? Một chút hả dạ vì nó dám dằn mặt quan huyện, một chút sướng vì có kẻ đập nó một trận tơi bời, một chút ân hận vì xúi nó, một chút bất ngờ sao nó nghe lời mình.
Tôi có sai? Hình như sai, rồi hình như không sai? Tôi sẽ chối tội nếu ai đó biết. Tôi sẽ quẳng cái lương tâm chết bầm để ngủ yên. Tôi đè dễ dàng cái thiện lương yếu ớt, sau bao năm bị bào mòn bởi lắm thứ giả trá, dám ngóc đầu dậy.
***
Hai năm sau, tôi có việc đi lên xã vùng cao Phú Dầu, đường đi ngang qua cổng trại giam Phước Xuân. Con đường gập ghềnh đang sửa sang, chỗ đổ bêtông, chỗ làm cầu, chỗ xẻ núi... bụi mù mịt, nắng hạ chói lòa. Xe 16 chỗ dừng chỗ cây cầu tạm để mọi người xuống suối rửa mặt.
Tôi chợt thấy nó cùng đội bạn tù đang làm đường. Nó thấy tôi đến gần liền sợ sệt chỉ anh quản giáo, anh này đang xông đến rất nhanh.
“Đây là quản giáo của em” - nó vội nói.
“Tôi giáo viên, cậu ấy trò tôi” - tôi tự giới thiệu, rồi rụt rè năn nỉ:
“Xin anh cho tôi gặp ít phút”.
Anh quản giáo ngó tôi từ chân lên đầu, tỏ ý bực:
“Nói nhanh lên”.
Tôi quay lại đặt tay lên vai nó, người nó gầy rộc, ướt sũng mồ hôi vì nắng nóng, hỏi nhỏ: “Em có giận thầy không?”.
“Không, em hiểu ý thầy rồi, em không giận vì chuyện đó đâu” - nó cười, trả lời.
“Cực lắm không?”.
“Em hiểu ra, em lớn lên, nhiều thứ lắm. Thầy đừng nghĩ ngợi gì nhiều”.
Tôi rút ví đưa nó tờ bạc năm trăm, nó nói quản giáo không cho nhận đâu. Tôi rút thêm tờ bạc nữa lại gần anh quản giáo, làm bộ ngó xa xa chỉ tay về phía núi đồi nắng lóa: “Mong anh quan tâm, nó tuổi học trò nhỏ dại”.
Xe gọi tôi đi. Tôi vẫy tay chào nó, nó nói với theo: “Thầy ơi, giữ gìn sức khỏe nghen”.
Giọng nó nẫu rặt nghe cũng thương. Sao nó quan tâm đến sức khỏe của tôi?
Đêm ấy, tôi ngủ nhà sàn của người Ba Na, mát mẻ. Tôi mơ thấy nó bị công an bắt vì tội vận chuyển ma túy, lại nghe nó gọi: “Thầy ơi, giữ gìn sức khỏe nghen!”. Tỉnh giấc, tôi nghe lòng mình cay đắng.
Tôi có sai?...
Phùng Hi
Có thể là hình ảnh về trong nhà

BÀI MỚI ĐẮNG

Truyện ngắn: BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN _ NGUYỄN HẢI ĐĂNG

Bên cánh gà chánh điện phần 1 BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN Xe dừng lại với tiếng xột xoạt trên mặt đường, như bao chuyến xe đã ghé qua từ thuở ...