THUYỀN KAGOR CỦA
NGƯỜI RAGLAY
Thuyền Kagor không phải là phương tiện giao thông đường
thủy, cũng không phải mô hình dùng làm vật trưng dụng, trang trí. Kagor là một
công trình nghệ thuật, kiến trúc độc đáo và cũng lắm công phu của những nghệ
nhân dân tộc Raglay dành cho “người về thế giới bên kia” với mong muốn người
khuất núi sẽ được con thuyền trắng đưa linh hồn về cõi vĩnh hằng.
Kagor mang hơi thở biển cả
Người Raglay sớm xuất hiện cùng với sự vận động, phát triển, sinh tồn song
hành với dân tộc Chăm trên đất Khánh Hòa nói riêng, vùng núi của một số tỉnh
khu vực duyên hải miền Trung nói chung.
Trong đó, phần lớn đồng bào Raglay sinh sống ở các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận,
Lâm Đồng.
Ở Khánh Hòa, người Raglay chiếm 3,4 % dân số toàn tỉnh, sống
tập trung chủ yếu ở các huyện Khánh Sơn, Khánh Vĩnh, Cam Ranh, Cam Lâm. Đồng
bào có tập quán du canh du cư, sống quây quần thành từng plây (làng) và rất
đoàn kết. Pô pa-lây (già làng) và “các đầu khôn người già” có uy tín nhất thường
đứng ra giải quyết việc làng. Các gia đình tuân theo chế độ mẫu hệ và là 1
trong 5 tộc người thuộc ngữ hệ Mã Lai- Đa Đảo (Chăm, Raglai, Chu Ru, Ê Đê, Gia
Rai). Đây là dấu hiệu đầu tiên cho thấy, người Raglay có nguồn gốc thủy tổ sinh
cư ven biển.
Cũng như các dân tộc khác cư trú lâu đời trên dãy núi
phía Nam Trường Sơn và Tây Nguyên, dân tộc Raglay có đời sống lao động, sản xuất
và sinh hoạt tín ngưỡng phụ thuộc lớn vào sự tác động của môi trường tự nhiên,
môi trường xã hội trong cộng đồng. Từ tư duy, quan niệm sống chịu ảnh hưởng của
văn hóa Á Đông. Đồng bào sống trọng tình nghĩa, tôn sùng thần linh, biết ơn ông
bà đã sinh ra nòi giống.
Theo các nhà nghiên cứu, văn hóa Raglay mang đậm hơi thở
của biển, dấu ấn đặc thù còn lại đó là thuyền Kagor. Di sản văn hóa này được
xem như linh vật được đúc kết, chọn lọc từ tinh hoa, sản vật của núi rừng, biển
cả… qua bàn tay tài hoa, khéo léo. Thạc sĩ Trần Kiêm Hoàng, Phòng Văn hóa và
Thông tin TP. Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa cho rằng: “Nếu rừng là toàn bộ văn hóa
Raglay hiện tại thì biển chính là toàn bộ văn hóa Raglay trong quá khứ."
Giải mã huyền bí “con thuyền úp ngược”
Từ điều kiện cư trú, thời tiết, khí hậu, thổ nhưỡng đất
đai, lao động sản xuất, người Raglay đã tạo cho mình một bản sắc văn hóa độc
đáo, riêng biệt mà không dị biệt. Qua khảo sát không gian văn hóa Raglay, từ hệ
thống các nghi lễ, văn hóa tổ chức đời sống cá nhân, đời sống cộng đồng thể hiện
khá rõ nét về nghệ thuật điêu khắc, kiến trúc xây dựng luôn gắn liền với đời sống
tinh thần, nhu cầu tâm linh, tín ngưỡng đa thần của họ. Cấu trúc nhà ở gần giống
các dân tộc thiểu số khác trên dãy Nam Trường Sơn - Tây Nguyên, khác là có cột
cái lớn giữa nhà. Nhìn chung, nghệ thuật bài trí và điêu khắc nhà ở đơn giản,
không cầu kỳ, hoa văn. Tuy nhiên, riêng kiến trúc nhà mồ thì người Raglay đặc
biệt chú trọng và trau chuốt, chỉnh chu hơn.
Khi nói đến nhà mồ Raglay thì phải kể đến thuyền Kagor.
Theo PGS. TS Ngôn ngữ học Mai Thị Kiều Phượng và các nhà nghiên cứu văn hóa thì
Kagor xuất phát từ cách phát âm, chỉ những người Raglay ở Ninh Thuận. Theo cách
phát âm, từ gor chỉ địa danh Ninh Thuận. Còn Kagau xuất phát từ hình ảnh quen
thuộc là sừng trâu, tiếng địa phương thì cuvau là trâu. Thí dụ, bà con hay nói
câu “Nãu palơi Gor” tức là Đi đến làng Ninh Thuận. Hay câu nói: “Chhar, salau,
cuvau, goq, cheh jro (tức là Mã la, mâm thau, con trâu, nồi đồng, ché cổ là năm
tài sản quý).
Trong tín ngưỡng cúng “vạn vật hữu linh” đều có lễ vật
Ahòq (Thuyền/ tàu đưa linh) để dâng lễ vật, cầu cúng. Ahòq có cả hai loại Kago
và Kagau, đều chung một mục đích là đưa linh hồn người chết về với thế giới ông
bà, tổ tiên. Nhưng khác nhau ở cấu trúc và cách thức lễ. Kagau có hình dạng như
sừng trâu, được nối chặt với trụ chính từ trái bầu mẹ (bằng gỗ) bên trong mái của
nhà mồ.
Còn Kagor theo giải thích của già làng Bo Bo Đe (73 tuổi,
ở Sơn Tân, Cam Lâm, Khánh Hòa) thì “Thuyền Kagor được làm trước và cúng mâm cơm
tại nhà chủ tang. Sau đó mới khiêng rước từ nhà lên. Khi đưa lên nóc nhà mồ, phải
“đập heo”, “đập gà”, “bốc ché” để cúng Kagor. Người khiêng phải là trai tráng
chưa có vợ, người chủ lễ là chủ nhang có tiếng.”
Cuối cùng là Lễ bỏ mả (hay Lễ bỏ ma). Sau khi làm xong
các nghi lễ cúng bái, chôn cất, đợi ngày lành tháng tốt, người Ralay sẽ làm lễ
bỏ mả, thường thì vào tháng ba, tháng tư dương lịch. Hiện nay, một số nơi đã áp
dụng làm Lễ bỏ mả kết hợp Lễ tang ma cho bớt tốn kém, tùy thuộc vào điều kiện
kinh tế, thời tiết mà họ tổ chức. Nhà mồ Raglay truyền thống được làm bằng chất
liệu từ núi rừng: Mái bằng tranh, mây; có 4 cột, được chọn lựa và đẽo gọt, chạm
khắc hoa văn, họa tiết theo dạng khấc tròn, vặn tròn, đối xứng, thường hai cột
tròn và hai cột vuông. Các màu chủ lực là đen, trắng, đỏ, tím, lam, vàng…
Người Raglay vốn gắn bó, thân thiện với thiên nhiên nên họ
chọn chất liệu chính từ vỏ cây, lá và các loại củ, quả, dây leo, với tro… để
pha trộn, chế tác chất liệu. Thuyền Kagor được làm bằng chất liệu cũng giống
như nhà mồ. Riêng phần họa tiết hoa văn có phần tỉ mỉ, công phu hơn, đòi hỏi
người nghệ nhận phải khéo léo và có cái tâm. Hình dạng như tên gọi, Kagor là
như một biểu tượng linh hồn nên người Raglai có câu “Ahòq tanruaq rugãq atơu”,
tức là con tàu quan tài hình thuyền úp xuống. Thông thường, trên thuyền luôn có
nhà cửa tượng trưng, có cửa gần giống dạng tam môn quan, ngôi giữa cao hơn hai
ngôi hai bên.
Mô hình Kago thường nhỏ nhất khoảng 50cm x 70 cm 80cm, hoặc
lớn hơn gấp đôi tùy quy mô ngôi nhà mồ và điều kiện gia chủ. Người nghệ nhân cố
gọt giũa, bào nhẵn đuôi thuyền, mũi thuyền vẽ hoa văn hình rồng (lưỡng long chầu
nguyệt) uốn chầu trên đỉnh các ngôi nhà rất đối xứng tâm, thêm nữa là hình rắn
garai. Bên dưới là hàng rào, chim chóc, cá, trái bầu và cả dụng cụ là dao,
rìu... Điều đó cho thấy, người Raglay cổ xưa rất sùng bái tự nhiên, cầu phúc, cầu
an, no ấm với người về bên kia. Bằng chất liệu thiên nhiên, đồng bào dùng lá trầu
giã trộn củ nghệ, đá sỏi, than, tro và cây củ, nhựa cây trong rừng, trên núi để
phối trộn màu sắc và chế tác. Còn nhà mồ hiện nay được hiện đại hơn bằng vật liệu
xi măng, cốt thép, lợp ngói hoặc tôn.
Trải qua suốt chiều dài lịch sử, dân tộc Raglay từ buổi
sơ khai đến nay vẫn giữ được nét văn hóa cho riêng mình. Thuyền Kagor là một biểu
tượng không chỉ đông đặc phạm trù tập quán xã hội, tín ngưỡng “đa thần”, sùng
bái các đấng siêu nhiên, kính trọng, biết ơn ông bà thủy tổ mà còn hiện rõ tính
nhân văn, nhân sinh quan sâu đậm. Ngày nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của
kinh tế thị trường, Nhà nước quan tâm chăm lo đời sống Nhân dân, người Raglay
có mức sống khá ổn định. Nhà của đồng bào được xây dựng bằng vật liệu vững chãi
như sắt thép, xi măng. Nhà mồ cũng kiên cố hóa nên hình tượng nhà mồ truyền thống,
thuyền Kagor đa sắc màu đã dần mai một.
Ông Lê Văn Hoa, Phó Giám đốc Sở Văn hóa Thể thao tỉnh
Khánh Hòa: “Trong hệ thống các nghi lễ của
người Raglay thì Lễ bỏ mả là nghi lễ tâm linh tiêu biểu, nó mang đậm màu sắc
văn hóa dân gian. Vừa tích hợp các giá trị văn hóa nghệ thuật truyền thống, vừa
thể hiện sự gắn kết cộng đồng. Qua đó, thấy được tính nhân văn, tính giáo dục
qua việc thực hiện làm thuyền Kagor trên nóc nhà mồ. “Lễ hội bỏ mả của người
Raglay ở Khánh Sơn” được Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch công nhận là Di sản văn
hóa phi vật thể cấp quốc gia năm 2012, thuộc loại hình tập quán xã hội và tín
ngưỡng. Hiện nay, khi nhu cầu xã hội nâng cao, đời sống phát triển, ngôi nhà mồ
được xây dựng bằng chất liệu kiên cố, dần mất đi hình ảnh Kagor đầy sắc màu.
Cho nên việc cấp bách hiện nay là phải phục dựng, duy trì, bảo tồn và phát huy
bản sắc văn hóa nhằm xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân
tộc theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII đã đề ra.”
Báo Dân tộc và Phát triển đăng 23/11/2020)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét