BÁ NHA
Tên thật: Nguyễn
Bá Nha
Quê quán: thôn
Định Thiện Tây, Phước Quang, Tuy Phước, Bình Định
Cử nhân Việt Nam
học
Từng công tác
truyền thông tại Trường Đại học Thái Bình Dương.
Chủ tịch HĐQT –
Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Truyền thông Đam Books (Đam Books Media JSC)
Có nhiều tác phẩm
phóng sự, ký sự, tin tức được đăng các báo, tạp chí.
Sách in riêng:
Gương sáng đời thường (NXB Lao động, 2020)
Chủ biên nhiều tác
phẩm: Khát vọng tập 1, Tình mẹ (NXB
Lao động, 2021); Khát vọng xanh, 99 bài
thơ tình miền hạ, Tình cha, 222 bài thơ tình…(NXB Hội Nhà văn, 2021)
Đồng tác giả các
tác phẩm: Tình người đất Phú, Miền yêu
thương, Hoa nở ba miền…(NXB Hội Nhà văn, 2021)
SÀN BÁNH HỎI CỦA MÁ
Truyện ngắn
Bác xà ích ghì dây cương, ra hiệu cho con ngựa tía
dừng hẳn rồi bảo tôi xuống xe. Tôi gửi tiền, chào bác rồi thong thả bước vào
làng. Gần năm năm đi biền biệt, nay tôi trở về thăm quê trong dạ bồi hồi. Làng
Nước Mặn vẫn yên bình, hoài cổ bên sông Cầu Ngói tồn tại hơn bốn trăm năm. Tôi
nhớ ba má và em gái nhỏ. Bất chợt, thoảng trong hương gió nhẹ ngai ngái mùi rạ
mới, tiếng rít từ lũy tre bên đồng Cây Giới. Giọng ai đó ru con dìu dặt: “Ầu ơ…
mấy đời bánh đúc có xương, mấy đời dì ghẻ… hờ hơ ơ… mấy đời dì ghẻ mà thương
con… hờ ơ ờ… chồng”.
Tiếng ru như làm não lòng, bàng hoàng kẻ cố hương. Tôi không dám trách ai
đó đang ru những lời buồn, nhưng tôi cảm thấy không vui, dẫu biết những lời ru
góp nhặt của ông bà xưa là đúc kết từ hơi thở cuộc sống bao đời. Tôi nghĩ trên
đời này vẫn còn có những tấm lòng bao dung, nhân hậu của những người kế mẫu.
Tôi mong những âm vọng ấy đừng lọt tai má tôi. Tôi không muốn má chạnh lòng, vì
má tôi là người phụ nữ “thương con chồng”.
Tôi lớn lên trong lời ru êm ả của bà, những giọt sữa ngọt lành của cô dì,
bà con lối xóm. Má Mười của tôi sinh ra tôi và cũng giã từ cuộc đời ở tuổi đôi
mươi. Tôi không biết mặt má. Hồi não đến giờ, tôi cứ mong gặp má dù chỉ một lần
trong mơ. Trong cuộc đời của đứa trẻ 75 ngày tuổi đã mồ côi mẹ, có may mắn được
kế mẫu yêu thương, chăm sóc, nuôi dưỡng như con ruột thì quả là điều hạnh phúc,
phép màu diệu kỳ của cuộc nhân sinh.
Tôi có hai má. Má Mười sinh ra tôi mà không dưỡng được vì đoản mệnh. Má Hà
xuất hiện trong cuộc đời tôi như một sự hiện thân của vị cứu tinh. Từ lâu, tôi
cứ ngỡ là chiêm bao hay tôi đang sống trong một huyền thoại tình mẹ, một thước
phim truyện, một tập tiểu thuyết được dựng lên bởi một nhà văn nào đó khéo
tưởng tượng. Bởi má tôi đã sống một cách sống giản dị, nhân hậu hiếm thấy. Với
tôi, má Hà là Bồ tát hiện thân.
75 ngày chào đời, tôi non nớt, yếu ớt, hình hài bé tí chỉ 2,5 kg. Tôi khóc
vì khát sữa và bắt đầu cuộc lay lất của bệnh tật, đói khát. Cô ruột tôi kể, tôi
toàn bú ké, bú dạo từ đầu làng đến cuối xóm. Khi thì bú vú cô Dư (chị ruột ba
tôi), khi thì bú vú mấy cô gần nhà, có cả bầu sữa mẹ sinh con “so”, cả bầu sữa
thiếu phụ đã dăm bảy lửa. Khi thì bú vú da bà nội, rồi cô Út tôi. Và trời Phật
thương tình đã ban cho tôi một người mẹ thứ hai trong cuộc đời, mà mãi đến bây
giờ tôi chưa bao giờ biết xếp vần phát âm hai từ “dì ghẻ”. Tôi nghe kể đó là
năm tôi lên ba.
Có lẽ, duyên hay nợ từ kiếp nào xa xưa mà má tôi - người con gái lớn lên đi
lấy người chồng đã một đời vợ. Má dám chấp nhận đối mặt với lời cay nghiệt của
thói đời, dèm pha của bạn bè cùng lớp, sự sỉ vả của họ hàng nhà ngoại. Má Hà và
ba tôi đến với nhau cả hai đều tay trắng. Má tôi biết ba tôi nghèo. Ba tôi dắt
vợ con lên núi lập nghiệp, ở nhờ nhà người dưng.
Ba má tôi lam lũ, làm lụng để tạo dựng mái ấm riêng mình bằng chính sức lao
động, sự đồng cam cộng khổ. Má dành tình yêu thương đứa con bé bỏng, bệnh tật
bằng cả tấm lòng của một người mẹ. Khi biết tập nói bi bô, tôi đã gọi: “Má,
má!”. Chín năm má tôi mới có em bé, em gái tôi tên Út Nhi. Má yêu thương hai
anh em như chính hai giọt máu của mình. Đi chợ mua quà gì cũng hai anh em đồng
đều. Tôi thì thương em, hay nhường em.
Từ khi ba má lo bề gia thất cho tôi, tôi lại xin phép ba má để đi lập
nghiệp ở vùng đất mới. Thế rồi, người nhà họ bên nội tôi cứ cay nghiệt cho rằng
má tôi không thương tôi nên tôi ra đi. Năm tháng qua đi, má vẫn thầm lặng,
không giải thích, không đôi co. Má vẫn lặng lẽ và trăn trở, gửi từng bao gạo
cho tôi. Má bảo: “Nếu có cơ hội, con hãy gắng con nhé!”
Sau bao năm xa nhà, tôi chạy theo cuộc mưu sinh dài hơi. Vừa đến cửa nhà,
tôi gọi: “Má, má ơi, con về rồi!”. Ngôi nhà được xây mới và khang trang hơn
ngôi nhà tranh mà tôi từng sống thời
thơ ấu. Tôi nhìn quanh không thấy má, tôi vào nhà và đi tìm. Tôi
lên gác. Má tôi đang lau chùi bàn thờ ông bà và cả bàn thờ của má Mười tôi.
Thấy thoáng bóng tôi từ cầu thang, má vui mừng nói to:
- Thằng
Hai về hả con? Con đi đâu mà năm năm trời biền biệt vậy?
- Dạ, má ơi con về. Ba và em Út Nhi đâu rồi má?
- Ba con đi làm thợ nề ở Sài Gòn rồi con. Em Út Nhi nó làm công ty may
ở Quy Nhơn. Mà con về một mình na? Sao con không dắt vợ con về chơi?
- Dạ, nay các cháu đang học và vợ con làm bận bịu làm rẫy nên không về
được ạ.
- Vô rửa mặt đi con, rồi má lấy bánh hỏi, nhúng bánh tráng con ăn
nhen.
- Dạ.
Má tôi đã già đi theo năm tháng. Tóc má đã ngã màu muối tiêu. Má ăn chay
trường nhiều năm nay. Má phát tâm ăn chay, cầu nguyện cho con cháu được mạnh
khỏe. Nói rồi má dọn bánh cho tôi ăn. Lâu lắm rồi tôi mới ăn bánh hỏi má làm.
Ngon đến vô cùng!
Ăn miếng bánh hỏi của má vừa hấp nóng hổi, vừa được gỡ từ sàn tre làm tôi
nhớ như in ngày cũ. Hồi nhỏ, tôi thường giúp má tách lựa và rửa lá hẹ. Có khi
chợ không có bán lá hẹ, má phải dùng lá hành và phải lấy kim tước ra, cay ứa
nước mắt. Và cứ mỗi đêm như thế, má ngồi bên ngọn đèn dầu hột vịt tước lá hành,
lá hẹ để kịp sớm mai bán chợ.
Nghề làm bánh hỏi khá công phu, má tôi phải vất vả lắm mới học được. Má đã
theo nghề suốt để mưu sinh, nuôi cả gia đình. Ba tôi hồi ấy làm rẫy, đến mùa
mới có thu hoạch. Một mình má lo toan cơm áo gạo tiền, ơn qua nghĩa lại ở xóm
làng đều từ sàn bánh hỏi của má.
Má phải ngâm gạo từ lúc gà gáy, mà phải là gạo hạt tròn, lúa nhà quê, gạo
cũ mới làm được. Vì gạo hạt dài dẻo, lúa mới
làm bột ép ra khuôn rất khó, sợi bánh bị nghẹt khuôn và không suông
sợi bánh hỏi. Ngoài khâu chọn gạo, má tôi còn phải chọn loại dầu, phải là dầu
tốt, không bị đông vào mùa mưa. Đó là kinh nghiệm mà tôi học lóm được lúc theo
phụ má làm bánh.
Tiếp đến, má tôi ngâm gạo, vớt gạo rồi chở đi đến dịch vụ xay bột bằng xe
đạp đến bảy cây số. Sau này, ba tôi thấy má cực nên về quê tìm mua cho bằng
được bộ cối đá. Rồi cái cối đá đã giúp má chủ động hơn để xay bột bằng tay.
Buổi trưa tan chợ, má nấu cơm xong là lại xay bột. Hình ảnh của má tôi tảo tần
với dáng đứng xay bột trong tiếng kẽo kẹt luôn là hỉnh ảnh đẹp trong lòng đứa con
xa quê. Tôi càng nhớ từng dụng cụ làm nghề của má: sàn tre, lò và nồi hấp bánh,
thúng bánh, tàu lá chuối má tước ra và
buộc lại thành cây quét dầu hành cho khách…
Tôi đang hoài niệm những ngày thơ ấu thì bỗng có
tiếng cô hàng xóm vang lên từ cửa:
- Chị Hà ơi, còn bánh hỏi không? Chị cân cho tui ba ký. Nhà hôm nay có khách. Bánh chị
ngon, về ăn cháo lòng heo là nhất hạng.
Má tôi đang chưng hoa quả lên bàn thờ ông bà và bàn thờ má Mười. Má đáp
vọng:
- Còn bánh chị ơi, mà còn đúng ba ký luôn chị ạ!
Cô hàng xóm thấy tôi về nên hỏi thăm:
- Ủa thằng Hai về hồi nào cháu?
- Dạ, cháu vừa về cô Năm. Cô chú khỏe chứ ạ?
- Khỏe cả con. Mày đi đâu biệt tích biệt tăm vậy? Sao bỏ nhà bỏ quê đi
ở quê vợ?
- Chuyện dài cô Năm ạ! Con đi học lấy cái chữ cô ạ.
- Học gì nữa bay? Nay học chi cho lắm, thằng cháu cô nó có học hành gì
đâu, nó mần hồ tháng cũng mười mấy triệu. Sao cháu không theo nghề này, kiếm
nhiều tiền về nuôi dì mày?
Tôi chưa kịp trả lời cô Năm, má tôi nói dặm vào:
- À, cháu nó học đại học đó chị. Tội nghiệp, lúc trước lập nghiệp ở
Tây Nguyên nhà khó khăn quá nên cháu nghỉ học sớm, đi làm nông. Giờ cháu cố
gắng học lại cũng tốt.
- Thiệt không đó, sao đi học trong mát mà đen thui như “nậu” làm rừng
làm rẫy vậy? - Cô Năm Lẻo nhìn tôi soi mói.
- Hay mày ghét bà dì ghẻ mà bỏ nhà đi?
- Dạ, dì nào ạ? Con chỉ có má, má con chứ bộ!
Tôi rất bực mấy câu hỏi soi xỉa của cô Năm. Cô Năm Lẻo nổi tiếng là buôn
dưa lê ở cái làng Nước Mặn này. Chuyện nhà người chưa tỏ mà cô Năm Lẻo đã tường
từng li từng tí. Biết má thương tôi, mà cô vẫn “đàn đệm” vài câu cho nhà tôi
mất vui. Má tôi nháy mắt ra hiệu như là mặc kệ cô Năm. Tôi bâng quơ và chuyển
sang chuyện khác. Mắt má đỏ và đượm buồn.
Cô Năm mua bánh đã về, má tôi lại tiếp tục lau bàn thờ má Mười. Hình như
bàn thờ má Mười luôn được một bàn tay cần mẫn, chăm chỉ, đều đặn mỗi ngày của
má Hà lau sạch đến bóng cả thanh đèn đồng, lư gỗ. Trên bàn thờ, má đã đơm hoa
quả, má thắp nhang vái lâm râm: “Chị Mười sống khôn thác thiêng, độ trì cho
thằng Hai. Con mình nó đã đỗ đạt. Hôm nay, ngày rằm tháng Bảy, em có chút lòng
thành tưởng nhớ chị! Con nó cũng đã trở về, nó thăm chị thăm em! Nam mô A Di Đà
Phật!”.
Bữa cơm chay đạm bạc rau quả chỉ có hai má con. Vẫn không thể thiếu món
bánh hỏi còn nóng hơi ấm như tình mẹ. Tôi ăn hết sàn bánh vừa ra lò đầu tiên
của buổi chiều. Tôi mong gặp ba và Út Nhi, mà chắc Tết mới đoàn tụ được. Đã năm
mùa lúa trổ đòng, tôi xa làng quê. Tôi nhớ những buổi chăn bò bên gò Ông Bảy,
gò Chùa Bà… những kỷ niệm xưa cứ ùa về. Tôi ước mình trẻ lại, để phụ giúp má ép
bánh hỏi, vớt bánh, tước lá hành…
TIẾNG VỌNG LẠC CẦM
Bút ký
Chẳng hiểu sao từ
hôm tôi đọc được cuốn sách kể về cây đàn của một “cố văn chương, nhạc sỹ, nhà
giáo” chợt thôi thúc tôi đi tìm những điều tưởng chừng như quên lãng, ngủ yên.
Tôi đi dọc miền duyên hải, từ “Xứ sở hoa
vàng trên cỏ xanh” đến “Xứ trầm
hương” để tìm về tiếng vọng Lạc Cầm - cây đàn mang hình Chim Lạc trên Trống
đồng Ngọc Lũ, nhạc cụ được mệnh danh là “Công
trình bác học”* mang hơi thở cội nguồn dân tộc của Cố nhà giáo, nhạc sỹ Mác
Tuyên (1937 – 2015).
Đây cũng là nhạc cụ
độc đáo, đa năng có một không hai. Một nhạc khí đa âm giai, âm sắc, đa thanh,
đa điệu, có thể độc tấu, hòa tấu và trình diễn
được nhiều thể loại vừa truyền thống vừa hiện đại mà cũng không kém phần
sinh động, đặc sắc. 50 năm chế tác 16 thế hệ Lạc Cầm, tác giả hiến tặng Bảo
tàng Cách Mạng Việt Nam (nay là Bảo tàng lịch sử Việt Nam) 03 cây đàn tâm đắc
nhất, và chưa kịp dâng tặng Lạc Cầm cuối cùng cho quê hương thì đã ông đã thành
“người thiên cổ”...
Cố Nhà giáo, nhạc
sỹ Mác Tuyên, người con Phú Yên; trưởng thành dưới mái trường Xã hội chủ nghĩa.
Hơn 40 năm nhiệt thành với thiên chức ông giáo sử, cháy đam mê nghiên cứu “Âm học”
chảy qua hai thế kỷ. Ngỡ đã lãng quên trong hơn một thập niên qua. Song, dưới
góc nhìn giới chuyên gia và hậu thế hiện vật Lạc Cầm là di sản văn hóa vật thể,
còn âm sắc, thanh điệu là giá trị nghệ thuật vẫn nguyên giá trị và mãi trường tồn
với thời gian.
Mặc dù là thế hệ
sinh sau đẻ muộn, tôi mãi đi tìm, nghe cho bằng được âm vọng của Lạc Cầm. Tôi
đã dò hỏi, hai lần tìm đếm căn nhà số 09, đường Lạc Long Quân ( Nha Trang,
Khánh Hòa). Căn nhà thứ hai ở phố biển này vợ chồng ông mua lại của người bạn,
sau Giải phóng trong sự ngẫu nhiên, phù hợp tâm niệm, ước ao của ông từ
lâu. Mỗi ngày đi dạy nhìn con đường mang
tên Lạc Long Quân, con số 09 đẹp, ông hằng ước ao được ngôi nhà như vậy. Hay
tin bạn của vợ cần chuyển nhượng, ông bán căn nhà ở số 22 , Chi Lăng góp nhặt
mua cho bằng được. Cũng từ đó, con đường “Lạc
Long Quân”, ngôi nhà “số 09”, với
cây đàn Chim Lạc, ông sống an lạc, say sưa soạn giáo án sử, viết nhạc, chế đàn
Lạc. Cũng ngôi nhà ấy là nơi sau này chứng kiến ông tiêp đón những vị khách
quý, lãnh đạo Đảng, Nhà nước: Ông Vũ Mão,
Bà Nguyễn Thị Bình (Nguyên Phó Chủ tịch nước), …Các chuyên gia, nhà khoa
học, Nghệ sỹ : GS. TS Hoàng Chương, GS.
TS Trần Văn Khê, NS Lưu Hưu Phước, …..Bằng
hữu quê hương Phú Yên, bạn vong niên: Th.S
Phan Thanh Bình, Phan Đình Phùng, Trần Hữu Thế, …
Gia đình đã cho hộ
kinh doanh thuê bán cà phê Quỳnh, người nhà đã chuyển đến 50 Lê Thành Phương:
quán sinh tố Thiên Nhiên. Tiếp chúng tôi với sự bất ngờ và xúc động, bà Lương
Thị Bích Thìn ( 79 tuổi) phu nhân ông
Mác Tuyên rất minh mẫn bộc bạch: “ Bà cử
tưởng mọi người đã lãng quên Lạc Cầm, tên Ông Mác Tuyên ít ai còn nhớ. Nay có
người trẻ như cháu còn nghĩ đến, tìm về Lạc Cầm, tìm gia đình thầy, nhưng thầy
đã đi xa lâu rồi. Bà mong những thế hệ sau, nhất là người đam mê và theo nghiệp
âm nhạc nhớ về cội nguồn, trân trọng âm nhạc nói chung, những nhạc cụ như Lạc Cầm
nói riêng. Cháu muốn nghe trọn bài
thì khó rồi, vì đã thất lạc băng đĩa. Không biết ở ngoài Học viện âm nhạc Hà Nội
họ còn lưu không. Những năm cuối đời ông nhà cũng có ý tặng cho Bảo tàng Phú Yên
để lưu niệm và nhân dân cùng bè bạn năm cau chiêm ngưỡng, nhưng không kịp.” Bà
cụ ngồi vào gảy một đoạn cho chúng tôi nghe, bà không thuộc nhiều, cũng am tường
nhạc lý. Mặc dù đã khá lâu không ai sử dụng, nhưng tiếng đàn vút lên, âm thanh,
điệu Lạc Cầm trong trẻo và thanh tao, mang âm hưởng nhạc khí dân tộc. Bà nhiệt
thành kể chuyện đời nhạc, đời người và ký tặng toàn bộ sách ông viết, hình ảnh
gốc về sự nghiệp giáo dục và âm nhạc của ông.
Tuổi thơ ông ở vùng Gành Đỏ, Sông Cầu là buổi
đồi nhô, đảo hoang, hay biển giã lênh
đênh với anh trai và thân phụ. Ở 13 tuổi ông đã tham gia giao liên lạc, theo
gót đàn anh hoạt động cách mạng chống Pháp và có lần vào lao tù của thực dân.
Cũng ít ai biết vì sao danh xưng “Mác Tuyên” lại mang đậm chất tuyên giáo, tính
triết học đến vậy mà vẫn mang tâm hồn luôn mượt mà, qua văn chương và nhạc lý.
Đó cũng là giai thoại đã hun đúc, tôi luyện nên một con người tài hoa Phú –
Khánh.
Năm 1954, thanh
niên Trần Quang Mát rời quê hương đi tập kết ra Bắc, được tổ chức phân
công công tác ở Vụ Lễ Tân, Bộ Ngoại Giao
năm 1955 đến năm 1958. Đây là quãng thời gian đáng nhớ nhất trong cuộc đời mà
ông đã ghi chép cẩn thận. Năm 1955, trong lúc
trực nghe điện thoại, ông bắt máy nghe cuộc gọi của Bác Hồ gọi đến cơ quan, được Bác hỏi thăm ân
cần về tên, tuổi, quê hương, gia đình… Tết năm 1956, Bác Hồ đến Bộ Ngoại giao
thăm cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc. Anh được giao nhiệm vụ mời nước Bác, xúc động,
vui mừng nên anh trịnh trọng nhưng lại run và làm rơi nắp ca tráng men,lúc bấy
giờ, ông Nguyễn Duy Kỳ, bảo vệ Bác rất lo lắng lao tới, Bác ngăn và nói cảm
thông: “Các đồng chí ngồi xuống, không có
gì cả,cháu xúc động nên nắp ca rơi…”. Năm 1957, vào một dịp Bác sắp đi thăm
12 nước xã hội chủ nghĩa, nên đến thăm Bộ Ngoại giao chuẩn bị quà lưu niệm đến
đâu. Lần gặp này, Bác Hồ và Bác Đồng đã ân cần hỏi thăm tên, tuổi, và đặt tên
là Nguyễn Trung Tuyên, vì quê miền
Trung, lại năng nổ ca hát, tuyên truyền nên đặt Trần Trung Tuyên. Mát tuyên
truyền chủ nghĩa Mác, gọi Mác Tuyên.
Năm 1958, Bác Hồ đi thăm Ấn Độ, được Tổng thống
Paraxat và Thủ tướng Nêru tặng một nhánh bồ đề chiết ra từ Cây Bồ đề nơi Phật
Thích Ca Mâu Ni nhập niết bàn. Mác Tuyên được giao nhiệm vụ trồng nhánh Bồ Đề ở
gần Chùa Một Cột, ông với ông Lâm Thanh Điền
chăm tưới. Ngày nay đã thành cây cổ thụ.
Khi còn là sinh viên Nhạc viện Hà Nội
1960, ông được đào tạo căn bản về đàn bầu và sáng tác nhạc, tốt nghiệp năm
1963. Những năm tháng đi B “ xẻ dọc Trường
Sơn đi cứu nước; rồi đi học sư phạm sử năm….dạy học ở Nam Định ( 1968 đến
Ngày Giải Phóng), ông nung nấu, hoài
bão và liên tục cải tiến đàn bầu. Ông bắt đầu nghiên cứu, sáng chế nhạc cụ mới
nhưng mang tính dân tộc này từ năm 1960
đến 1970 ra đời cây 11 thế hệ Lạc Cầm. Sau do hỏa hoạn ở khu Nhà tập thể, ông trắng tay. Tuy nó là sản phẩm ban sơ, còn
khiếm khuyết, chịu sự bàn tán, chê khen. Không nản lòng, ông tiếp tục nghiên cứu
hoàn thiện Lạc Cầm 1970 đến năm 2004, bắt
đàu lại từ đầu cây 12 -16.
Hội tụ mô phỏng,
cách điệu từ đàn bầu, đàn tranh, đang guita phím lõm, và bộ phím gõ piano nên
hình dáng, mỹ thuật, tên gọi, âm thanh, nhạc khí rất mềm mại, và phương diện biểu
cảm, diễn tấu đa năng các thể loại: cải lương, tuồng, chèo, dân ca, ngâm thơ,
nhạc hiện đại. Lạc Cầm 16 được nhạc sỹ nghiên cứu rất khoa học về vật lý, sinh
học, ngũ hành, âm thanh, tiết tấu ….Với
chất liệu đa hợp Mộc, Kim: đồng, xương, sừng, gỗ, tre, nứa, sắt, thép, gang,
inoc. Ông ứng dụng các loại âm thanh, sóng nhạc,tần suất, ẩn số.... Ông Phan
Văn Ngà, một cựu học sinh của ông những năm 1978 Trường Hoàng Văn Thụ ( Nha Trang)
kể: Ngày học thầy vui lắm, mỗi giờ ngoại
khóa, đi lao động, thầy ôm đàn ghi ta, trò thay phiên ca. Thi thoảng tôi đến
nài thầy cho nghe đàn bầu chế tác cải tiến của thầy.
Lần lượt những đứa
con tinh thầm ra đời, ông đã tặng Bảo tàng Cách mạng Việt Nam( Nay là Bảo tàng
lịch sử Việt Nam) hệ thống đàn Lạc Cầm 12, Lạc Cầm 13 và Lạc Cầm 15 vào năm
2007. Với cây đàn 15, năm 1996, ông được Chủ tịch nước Tặng Huân chương lao động
hang ba. Lạc Cầm 16 vinh dự được Triển lãm toàn quốc và trình diễn tại chương trình
“Hồn nhạc Việt”, chào mừng Đại Lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội; Kỷ niệm 80 năm
Ngày Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhiều nghệ sỹ biểu diễn : NSƯT Hoàng Anh Tú, Việt Hồng, Quốc Lộc, Thái
Hùng, Ngọc Anh, …
Trong một lần được
đàm đạo với Nhà báo, ThS Phan Thanh Bình (Hội viên Hội VNDG, Hội Khoa học Lịch
sử tỉnh Phú Yên) cho tôi những minh định
sâu sắc: Tôi từng thưởng thức âm giai mượt
mà, du dương và mãn nhãn nét đẹp hồn thiêng sông núi của Lạc Cầm rạng ngời tính
nhân văn truyền thống Phú Yên,văn hóa tinh khôi Việt. Di sản thể hiện trong những
sản phẩm văn hóa nghệ thuật do người Phú Yên sáng tạo từ thuở xa xưa, kết nối đến
nay. Trong đó, bộ bộ đàn đá, kèn đá Tuy An và Lạc Cầm 16 là minh chứng hùng hồn
quá trình tiến hóa về tâm thức, trí tuệ, tình cảm và tâm hồn của nhân dân Phú
Yên lồng lộng thanh cao, hòa chung dòng chảy cội nguồn dân tộc.”
Về miền Đá Đỏ, gặp
bà cụ Sáu Rượi ( Trần Thị Rượi, 78 tuổi) em
gái ông Mác Tuyên ở quê Sông Cầu rươm rướm kể trong hoài niệm: Lần cuối anh “Mát” về thăm quê nhà và họ
hàng bà con, ông cho vốn luyến cho con cháu nghèo khó, đi thăm nhiều bằng hữu…trong
đó có Ông Cao Xuân Thiêm, Ông Th.Sỹ Phan
Thanh Bình lúc bấy giờ nằm viện, ông đến thăm và cũng nói là “ Tui về lần này nữa thôi!”
Nhiều nhạc sỹ,
chuyên gia Âm học quốc tế phải thán phục công trình nghiên cứu xuyên thế kỷ
này. Ông Ru Kow Kritorukow – Viện Trưởng Viện Hàn lâm Nghệ thuật sân khấu điện ảnh
Krixto Xara cơ Sofia ( Bungarri) nhận định:
“Ông Mác Tuyên, Nhạc sỹ, nhà sáng
tạo nhạc cụ dân tộc Việt Nam – người bạn lớn của Bungari đã để lại trong lòng
chúng tooimootj tình cảm tốt đẹp tại ngôi nhà thân yêu của chính mình. Và tình
cảm ấy chính là sự sáng tạo không chỉ biểu hiện tâm hồn, tính cách của người Việt
Nam mà còn cả tâm hồn tính cách người Bungari chung tôi nữa”.(trích trong
cuốn “Mác Tuyên - 50 năm Lạc Cầm”, NXB Hội Nhà Văn, năm 2007).
Năm 1993, ông Nicholes Barter ( Viện Hàn lâm nghệ thuật
Hoàng Gia Anh) từng nói: “Cảm ơn lòng mến
khách của Ngài Mác Tuyên. Những âm điệu tuyệt vời từ nhạc cụ độc đáo mang tính
dân tộc Việt Nam sâu sắc sẽ làm cho nhân dân Việt Nam và các dân tộc trên thế
giới xích lại gần nhau hơn. Âm nhạc của ngài là xuất phát từ trái tim.” (
Trích “ Âm nhạc nhịp cầu tâm linh với lịch sử” của Mác Tuyên, năm 1996, NXB Văn
hóa thông tin).
Qua sách báo, phim
tài liệu “Người đi tìm Lạc Cầm”, phim
truyền hình Việt Nam “Lạc Cầm”, cùng
với tư liệu gia đình, bút tích của những vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đồng nghiệp,
gia đình và bằng hữu, khách quốc tế dành cho ông, quá đủ để minh định thành quả
khoa học của Mác Tuyên. Cuối đời, ông đã đi thăm nhiều nước Châu Âu, cuốn sách
cuối cùng ông xuất bản là “ Châu Âu dưới
ánh hoàng hôn” năm 2013, cũng đã thể hiện tài hoa không chỉ là cung đàm nốt
nhạc, thông số kỹ thuật, cơ học, sinh, hóa, lý…mà còn uyển chuyển trong ngòi
bút văn chương.
Qua quá trình
nghiên cứu, chế tác 16 đời Lạc Cầm, chúng tôi băn khăn cây Lạc Cầm 14 hiện ở
đâu? Khi sách báo và người nhà không nhớ rõ. Phải chăng ông đã tặng cho bạn tri
âm hay Bảo tàng nào đó ? Cuộc đời, sự nghiệp của ông những thập niên cuối thế kỷ
trước đến mãi thời đại mới rung lên rực rỡ, huy hoàng. Trong kho tàng nghệ thuật
diễn xướng, âm nhạc cổ truyền, nhạc cụ dân tộc, nhạc khí Việt Nam từ buổi sơ
khai, hồng hoang đã mang trong mình nét đặc trưng, độc đáo lạ kỳ. Hòa trong
dòng chảy của văn hóa, truyền thống lịch sử thăng trầm, biến cố, huy hoàng: từ
Kèn đá, Đàn đá, Cồng chiêng, la, tù và, sừng mõ, sáo trúc, kẻng…Đàn T’ rưng,
đàn bầu…Lạc Cầm hệ thống đàn mang hình
con chim Lạc, những thanh, điệu, âm sắc và phương diện diễn tấu như tụ hội mô
tip các loại nhạc cụ dân tộc Việt.
Ngày nay, âm nhạc
phát triển theo hướng công nghệ, một bộ phận trào lưu giới trẻ thích nhạc ngoại
lai, quên dần và thờ ơ âm nhạc cổ truyền.Thiết nghĩ, nếu Lạc Cầm được đưa vào Bảo
tàng địa phương hay trưng bày trình diễn tấu ở không gian văn hóa phục vụ du lịch,
nghiên cứu âm học, văn hóa học, dân tộc học… thì khả năng thu hút rất khả thi.
Qua đó tự hào vùng đất Phú Khánh có một tài nhân sản sinh nhạc khí bắt cầu qua
hai thế kỷ. Chiều nay, nghe cô phát thanh viên phát bài ca Nắng Phú Yên do Cố Nhà giáo,nhạc sỹ Mác Tuyên
sáng tác, bài ca đi vào lòng người, rạo rực, ước vọng, thanh tao như chính khát
vọng dựng xây quê hương phồn thịnh của mỗi người con đất Phú Khánh xưa, người
Phú Yên, Khánh Hòa hôm nay.
Cố nhà
giáo, nhạc sỹ Mác Tuyên (1937 – 2015), tên thật: Trần Quang Mát (cách phát âm
miền Trung thành “Mác”) sau được Bác Hồ và Thủ tướng Phạm Văn Đồng đặt Trần Trung Tuyên (Mác Tuyên). Ông là người
con của mảnh đất Gành Đỏ (nay là Khu Phố
An Thạnh, phường Xuân Đài, Thị xã Sông Cầu, Phú Yên).
Cuộc đời
và sự nghiệp của ông lớn dần lên dưới
trường học Xã hội Chủ nghĩa, được nhân dân miền Bắc nuôi dưỡng, yêu
thương. Ông là trí thức Cách mạng giàu lòng yêu nước, tự hào dân tộc. Sáng chế
16 đời Lạc Cầm, ông đã tặng Bảo tàng Cách Mạng Việt Nam hệ thống Lạc Cầm, gia
đình đang lưu giữ Lạc Cầm 16 độc đáo nhất, mà ông chưa kịp trao tặng nơi chôn
nhau.
Tác phẩm văn chương, nghiên cứu: cuốn “Âm nhạc nhịp cầu tâm linh với lịch sử”;
“Mác Tuyên 50 năm Lạc Cầm”; “Dưới bóng cây Bồ đề”, “ Công Trình chế tác Lạc Cầm”;
văn :Bồng bềnh và nhiều thơ nặng tình quê hương, đất nước, nhân sinh.
Những bài
hát ông sáng tác: Tình ca cây Bồ đề của
Bác, Dòng kênh quê hương, Người ươm hoa, Cánh yến mùa xuân, Bài ca Phú Khánh, Nắng
Phú Yên, Hạt muối Nam Hà, Z753 lươt sóng Trường Sa, Sao sáng trong em, Biển
say, Lung linh Trường Sa – Hoàng Sa, Nỗi nhớ Trường Sa, Gửi miền Tây Tổ quốc, Rạng
rõ Phú Yên, Ánh Mắt đảo xanh…
1. Chú trích trong bài:
* : “Công trình bác học”: Nhận xét của Nhà báo
Hà Đăng ( Nguyên Ủy viên BCH TƯ Đảng Khóa VI, VII, VIII - Trưởng Ban Tư tưởng
văn hóa TƯ, Tổng Biên tập Báo Nhân dân,
một người Phú Yên. ( trích “ Dưới bóng cây Bồ đề” – Mác Tuyên, NXB Từ điển
bách khoa,2011).
**: Ngoài những nhà khoa học, chuyên gia âm học
nước ngoài, ông còn đi ngao du 5 nước Châu Âu.
2.
Tài liệu tham khảo:
-
Âm nhạc
nhịp cầu tâm linh với lịch sử (Mác Tuyên- NXB Văn hóa thông tin, năm 1996)
-
Mác
Tuyên 50 năm Lạc Cầm ( Mác Tuyên, NXB Hội Nhà Văn, năm 2007)
-
Dưới
bóng cây bồ đề(Mác Tuyên, NXB Từ điển bách khoa, năm 2011)
-
Châu Âu
dưới ánh hoàng hôn ( Mác Tuyên, NXB Từ điển bách khoa, năm 2013)
-
Phim Việt
Nam lẻ xưa: “ Lạc Cầm”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét