Chủ Nhật, 14 tháng 11, 2021

TẬP TRUYỆN KÝ KỲ THỦ XI CÀ QUE

 

THUYỀN KAGOR CỦA NGƯỜI RAGLAY

 

 

Thuyền Kagor không phải là phương tiện giao thông đường thủy, cũng không phải mô hình dùng làm vật trưng dụng, trang trí. Kagor là một công trình nghệ thuật, kiến trúc độc đáo và cũng lắm công phu của những nghệ nhân dân tộc Raglay dành cho “người về thế giới bên kia” với mong muốn người khuất núi sẽ được con thuyền trắng đưa linh hồn về cõi vĩnh hằng.

 

Kagor mang hơi thở biển cả

Người Raglay sớm xuất hiện cùng với sự vận động, phát triển, sinh tồn song hành với dân tộc Chăm trên đất Khánh Hòa nói riêng, vùng núi của một số tỉnh khu vực duyên hải  miền Trung nói chung. Trong đó, phần lớn đồng bào Raglay sinh sống ở các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, Lâm Đồng.

Ở Khánh Hòa, người Raglay chiếm 3,4 % dân số toàn tỉnh, sống tập trung chủ yếu ở các huyện Khánh Sơn, Khánh Vĩnh, Cam Ranh, Cam Lâm. Đồng bào có tập quán du canh du cư, sống quây quần thành từng plây (làng) và rất đoàn kết. Pô pa-lây (già làng) và “các đầu khôn người già” có uy tín nhất thường đứng ra giải quyết việc làng. Các gia đình tuân theo chế độ mẫu hệ và là 1 trong 5 tộc người thuộc ngữ hệ Mã Lai- Đa Đảo (Chăm, Raglai, Chu Ru, Ê Đê, Gia Rai). Đây là dấu hiệu đầu tiên cho thấy, người Raglay có nguồn gốc thủy tổ sinh cư ven biển.

 

Cũng như các dân tộc khác cư trú lâu đời trên dãy núi phía Nam Trường Sơn và Tây Nguyên, dân tộc Raglay có đời sống lao động, sản xuất và sinh hoạt tín ngưỡng phụ thuộc lớn vào sự tác động của môi trường tự nhiên, môi trường xã hội trong cộng đồng. Từ tư duy, quan niệm sống chịu ảnh hưởng của văn hóa Á Đông. Đồng bào sống trọng tình nghĩa, tôn sùng thần linh, biết ơn ông bà đã sinh ra nòi giống.

Theo các nhà nghiên cứu, văn hóa Raglay mang đậm hơi thở của biển, dấu ấn đặc thù còn lại đó là thuyền Kagor. Di sản văn hóa này được xem như linh vật được đúc kết, chọn lọc từ tinh hoa, sản vật của núi rừng, biển cả… qua bàn tay tài hoa, khéo léo. Thạc sĩ Trần Kiêm Hoàng, Phòng Văn hóa và Thông tin TP. Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa cho rằng: “Nếu rừng là toàn bộ văn hóa Raglay hiện tại thì biển chính là toàn bộ văn hóa Raglay trong quá khứ."

Giải mã huyền bí “con thuyền úp ngược”

Từ điều kiện cư trú, thời tiết, khí hậu, thổ nhưỡng đất đai, lao động sản xuất, người Raglay đã tạo cho mình một bản sắc văn hóa độc đáo, riêng biệt mà không dị biệt. Qua khảo sát không gian văn hóa Raglay, từ hệ thống các nghi lễ, văn hóa tổ chức đời sống cá nhân, đời sống cộng đồng thể hiện khá rõ nét về nghệ thuật điêu khắc, kiến trúc xây dựng luôn gắn liền với đời sống tinh thần, nhu cầu tâm linh, tín ngưỡng đa thần của họ. Cấu trúc nhà ở gần giống các dân tộc thiểu số khác trên dãy Nam Trường Sơn - Tây Nguyên, khác là có cột cái lớn giữa nhà. Nhìn chung, nghệ thuật bài trí và điêu khắc nhà ở đơn giản, không cầu kỳ, hoa văn. Tuy nhiên, riêng kiến trúc nhà mồ thì người Raglay đặc biệt chú trọng và trau chuốt, chỉnh chu hơn.

 

Khi nói đến nhà mồ Raglay thì phải kể đến thuyền Kagor. Theo PGS. TS Ngôn ngữ học Mai Thị Kiều Phượng và các nhà nghiên cứu văn hóa thì Kagor xuất phát từ cách phát âm, chỉ những người Raglay ở Ninh Thuận. Theo cách phát âm, từ gor chỉ địa danh Ninh Thuận. Còn Kagau xuất phát từ hình ảnh quen thuộc là sừng trâu, tiếng địa phương thì cuvau là trâu. Thí dụ, bà con hay nói câu “Nãu palơi Gor” tức là Đi đến làng Ninh Thuận. Hay câu nói: “Chhar, salau, cuvau, goq, cheh jro (tức là Mã la, mâm thau, con trâu, nồi đồng, ché cổ là năm tài sản quý).

Trong tín ngưỡng cúng “vạn vật hữu linh” đều có lễ vật Ahòq (Thuyền/ tàu đưa linh) để dâng lễ vật, cầu cúng. Ahòq có cả hai loại Kago và Kagau, đều chung một mục đích là đưa linh hồn người chết về với thế giới ông bà, tổ tiên. Nhưng khác nhau ở cấu trúc và cách thức lễ. Kagau có hình dạng như sừng trâu, được nối chặt với trụ chính từ trái bầu mẹ (bằng gỗ) bên trong mái của nhà mồ.

Còn Kagor theo giải thích của già làng Bo Bo Đe (73 tuổi, ở Sơn Tân, Cam Lâm, Khánh Hòa) thì “Thuyền Kagor được làm trước và cúng mâm cơm tại nhà chủ tang. Sau đó mới khiêng rước từ nhà lên. Khi đưa lên nóc nhà mồ, phải “đập heo”, “đập gà”, “bốc ché” để cúng Kagor. Người khiêng phải là trai tráng chưa có vợ, người chủ lễ là chủ nhang có tiếng.”

Cuối cùng là Lễ bỏ mả (hay Lễ bỏ ma). Sau khi làm xong các nghi lễ cúng bái, chôn cất, đợi ngày lành tháng tốt, người Ralay sẽ làm lễ bỏ mả, thường thì vào tháng ba, tháng tư dương lịch. Hiện nay, một số nơi đã áp dụng làm Lễ bỏ mả kết hợp Lễ tang ma cho bớt tốn kém, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, thời tiết mà họ tổ chức. Nhà mồ Raglay truyền thống được làm bằng chất liệu từ núi rừng: Mái bằng tranh, mây; có 4 cột, được chọn lựa và đẽo gọt, chạm khắc hoa văn, họa tiết theo dạng khấc tròn, vặn tròn, đối xứng, thường hai cột tròn và hai cột vuông. Các màu chủ lực là đen, trắng, đỏ, tím, lam, vàng…

Người Raglay vốn gắn bó, thân thiện với thiên nhiên nên họ chọn chất liệu chính từ vỏ cây, lá và các loại củ, quả, dây leo, với tro… để pha trộn, chế tác chất liệu. Thuyền Kagor được làm bằng chất liệu cũng giống như nhà mồ. Riêng phần họa tiết hoa văn có phần tỉ mỉ, công phu hơn, đòi hỏi người nghệ nhận phải khéo léo và có cái tâm. Hình dạng như tên gọi, Kagor là như một biểu tượng linh hồn nên người Raglai có câu “Ahòq tanruaq rugãq atơu”, tức là con tàu quan tài hình thuyền úp xuống. Thông thường, trên thuyền luôn có nhà cửa tượng trưng, có cửa gần giống dạng tam môn quan, ngôi giữa cao hơn hai ngôi hai bên.

Mô hình Kago thường nhỏ nhất khoảng 50cm x 70 cm 80cm, hoặc lớn hơn gấp đôi tùy quy mô ngôi nhà mồ và điều kiện gia chủ. Người nghệ nhân cố gọt giũa, bào nhẵn đuôi thuyền, mũi thuyền vẽ hoa văn hình rồng (lưỡng long chầu nguyệt) uốn chầu trên đỉnh các ngôi nhà rất đối xứng tâm, thêm nữa là hình rắn garai. Bên dưới là hàng rào, chim chóc, cá, trái bầu và cả dụng cụ là dao, rìu... Điều đó cho thấy, người Raglay cổ xưa rất sùng bái tự nhiên, cầu phúc, cầu an, no ấm với người về bên kia. Bằng chất liệu thiên nhiên, đồng bào dùng lá trầu giã trộn củ nghệ, đá sỏi, than, tro và cây củ, nhựa cây trong rừng, trên núi để phối trộn màu sắc và chế tác. Còn nhà mồ hiện nay được hiện đại hơn bằng vật liệu xi măng, cốt thép, lợp ngói hoặc tôn.

Trải qua suốt chiều dài lịch sử, dân tộc Raglay từ buổi sơ khai đến nay vẫn giữ được nét văn hóa cho riêng mình. Thuyền Kagor là một biểu tượng không chỉ đông đặc phạm trù tập quán xã hội, tín ngưỡng “đa thần”, sùng bái các đấng siêu nhiên, kính trọng, biết ơn ông bà thủy tổ mà còn hiện rõ tính nhân văn, nhân sinh quan sâu đậm. Ngày nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế thị trường, Nhà nước quan tâm chăm lo đời sống Nhân dân, người Raglay có mức sống khá ổn định. Nhà của đồng bào được xây dựng bằng vật liệu vững chãi như sắt thép, xi măng. Nhà mồ cũng kiên cố hóa nên hình tượng nhà mồ truyền thống, thuyền Kagor đa sắc màu đã dần mai một.

Ông Lê Văn Hoa, Phó Giám đốc Sở Văn hóa Thể thao tỉnh Khánh Hòa: “Trong hệ thống các nghi lễ của người Raglay thì Lễ bỏ mả là nghi lễ tâm linh tiêu biểu, nó mang đậm màu sắc văn hóa dân gian. Vừa tích hợp các giá trị văn hóa nghệ thuật truyền thống, vừa thể hiện sự gắn kết cộng đồng. Qua đó, thấy được tính nhân văn, tính giáo dục qua việc thực hiện làm thuyền Kagor trên nóc nhà mồ. “Lễ hội bỏ mả của người Raglay ở Khánh Sơn” được Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia năm 2012, thuộc loại hình tập quán xã hội và tín ngưỡng. Hiện nay, khi nhu cầu xã hội nâng cao, đời sống phát triển, ngôi nhà mồ được xây dựng bằng chất liệu kiên cố, dần mất đi hình ảnh Kagor đầy sắc màu. Cho nên việc cấp bách hiện nay là phải phục dựng, duy trì, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa nhằm xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII đã đề ra.”

 

Báo Dân tộc và Phát triển đăng 23/11/2020)

 

 

 

 

 

 

 

 

VIẾNG MỘ LIỆT SỸ TẬP THỂ BẮC LÝ

 

Ký sự

Tháng sáu hàng năm, cứ ngày mười tám là chúng tôi lại hội mặt về lễ giỗ các vị anh hùng liệt sỹ đã anh dũng hy sinh trong trận đánh Ấp Bắc Lý ở phố núi Củng Sơn. Thắp lên “ngôi mộ chung” nén hương và nghiêng mình tri ân, suy tôn công lao ấy.

Tròn 50 năm qua, (ngày18/6/1971 – 18/6/2021), Đảng bộ, Chính quyền và nhân dân thị trấn Củng Sơn (Sơn Hòa - Phú Yên) luôn ghi nhớ công lao và sự hy sinh vô cùng to lớn của 57 liệt sỹ cán bộ Dân chính Đảng, Hội đoàn thể, quân và dân huyện Sơn Hòa và cán bộ, chiến sỹ của Tiểu đoàn bộ binh 13 đã anh dũng hy sinh trong trận đánh ấp Bắc Lý không cân sức năm 1971. Trong khóe mắt của những cựu binh và người thân của liệt sĩ là nỗi thương tiếc pha lẫn niềm tự hào về người thân, đồng chí, đồng đội sâu như “hố bom ngày ấy”. “Ngôi mộ lớn” ngày nay đã được tôn tạo, trùng tu trở thành di tích lịch sử cấp tỉnh  -  Di tích lịch sử Mộ liệt sỹ tập thể Bắc Lý.

Theo số liệu khảo tả trong “Lý lịch Di tích Mộ liệt sỹ tập thể Bắc Lý” của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Phú Yên duyệt ngày 29/10/2014) thì Mộ liệt sỹ tập thể Bắc Lý là nơi yên nghỉ của 57 liệt sĩ hy sinh trong cuộc đấu tranh chống Mỹ. Tọa lạc trên cánh đồng lúa, mía xanh bạc ngàn liền cận khu dân cư khu phố văn hóa Bắc Lý trên trục đường Lê Lợi, thị trấn Củng Sơn, huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên (trước đây có tên Mỹ Ngụy dồn dân lập ấp chiến lược Bắc Lý) cách trung tâm thành phố Tuy Hòa khoảng 50 km về phía Tây có diện tích khuông viên rộng 2.228,2m vuông, bao gồm các hạng mục: cổng chính và nhà tưởng niệm - nơi có ngôi mộ liệt sỹ tập thể.

Sau ngày đất nước giải phóng, Đảng bộ, Chính quyền và nhân dân thị trấn Củng Sơn đã xây nấm mồ chung thành “Ngôi mộ lớn”. Năm 2012 được sự quan tâm của Lãnh đạo Tỉnh Ủy Phú Yên và Huyện ủy Sơn Hòa và sự chung tay của nhân dân, thân nhân liệt sỹ, khu mộ ấy đã được đầu tư kinh phí, nâng cấp, tôn tạo thành ngôi mộ lớn, khang trang như ngày nay. Ngày 29/12/2014, UBND Tỉnh Phú Yên ban hành Quyết định số 2181/QĐ-UBND về việc xếp hạng di tích cấp tỉnh đối với di tích  Mộ liệt sỹ tập thể Bắc Lý. Ngày 12/03/ 2015, thị trấn Củng Sơn long trọng tổ chức Lễ đón nhận Bằng xếp hạng di tích cấp tỉnh Mộ liệt sỹ tập thể Bắc Lý. Chúng tôi gặp cựu chiến binh Hàn Nghĩa bộc bạch: “Chiến tranh đi qua, nay tôi trở lại thăm các anh em. Những người may mắn sống sót như chúng hàng năm về giỗ các anh chén nước gọi là nghĩa tình đồng đội. Cũng là dịp tri ân, tưởng nhớ anh em”.

Mùa xuân năm 1971, những vùng căn cứ  địa cánh mạng ở miền Tây Phú Yên đã lần lượt giải phóng. Ban thường vụ Tỉnh ủy, Tỉnh Đội Phú Yên  đã chủ động xây dựng kế hoạch, chủ trương tổ chức tập trung lực lượng của tỉnh và huyện Sơn Hòa nhằm tấn công tiêu diệt quân địch, phát động quần chúng nổi dậy diệt ác, phá kèm, phá ấp chiến lược, giải phóng quận lị Củng Sơn mở rộng vùng giải phóng.

Tỉnh đội đã vạch rõ kế hoạch tác chiến, giao nhiệm vụ  cụ thể cho từng đơn vị là Đại đội đặc công 202 phối hợp với Tiểu đoàn 96 tập kích Đại đội biệt kích địch ở cao điểm Hòn Ngang, chốt lại đánh địch phản kích. Đại đội đặc công 25 phối hợp Đại đội 3 của Tiểu đoàn 13 tập kích quận lỵ Củng Sơn có nhiệm vụ tiêu diệt đại đội lính bảo an địch. Đại đội 2 của Tiểu đoàn 13 phối hợp đại đội bộ đội địa phương huyện Sơn Hòa tiêu diệt địch tại sân bay, ấp Bắc Lý chốt lại để tổ chức, phát động quần chúng nổi dậy xây dựng chính quyền cách mạng và đưa một bộ phận nhân dân về lại làng cũ.

Đại tá Lưu Công Thục, ( Nguyên Trưởng ban tuyên giáo Hội Cựu chiến binh tỉnh Phú Yên- Phó Trưởng Ban liên lạc tiểu đoàn BB 13, nguyên Tiểu đội trưởng , Trung đội 5, Đại đội 2, Tiểu đoàn bộ binh 13(at.b5.c2.d13) nhớ như in: “Nhận được mệnh lệnh của Ban chỉ huy Tỉnh đội từ hậu cứ  của đơn vị đóng ở Trại Cháy (Suối Đục, xã Sơn Xuân) Tiểu đoàn 13 hành quân theo hướng Tây Nam đến gộp Hòa Nguyên; tại Suối Phường Bà Tám (nay là thôn Nguyên Hà, xã Sơn Nguyên) thì tạm dừng, làm công tác tổ chức chuẩn bị chiến đấu. Chiều ngày 18/6/1971 đơn vị tiếp tục hành quân đến đường số 7 đoạn ngã  ba Ba Bản (nay là Suối Bạc) thì sẩm tối. Đến 19 giờ, Đại đội 2 do đồng chí Nguyễn Khắc Kế làm Đại đội trưởng, đồng chí Nguyễn Văn  Kiềm làm chính trị viên chỉ huy bí mật hành quân vượt qua Suối Bùn chiếm lĩnh trận địa tại ấp Bắc Lý. Khoảng 24 giờ cùng ngày, đơn vị đã hoàn thành mọi công tác chuẩn bị sẵn sàng chờ lệnh nổ súng”.

Rạng sáng ngày 19/6/1971, khoảng 4 giờ 00, Đại đội đặc công 202 và Đại đội 3 của Tiểu đoàn 96 bộ binh nổ súng tập kích vào Đại đội biệt kích của địch tại cứ điểm Hòn Ngang. Cùng thời điểm đó, đại đội 2 của tiểu đoàn bộ binh 13 và đại đội bộ đội địa phương huyện Sơn Hòa tấn công đánh chiếm ấp Bắc Lý, sân bay Củng Sơn, làm tiêu hao quân địch, số sống sót chạy về co cụm ở quận lỵ. Do nước lũ sông Ba quá lớn nên Đại đội đặc công 25 không qua sông được, nên không hợp đồng tác chiến được với Đại đội 3 của Tiểu đoàn BB 13 để tập kích địch ở quận lỵ Củng Sơn như kế hoạch. Trời sáng, địch tổ chức phản kích chiếm lại Hòn Ngang cùng với lực lượng ở quận lị  tổ chức phản kích ta trên trận địa Đông Hòa, Bắc Lý.”.

          Cuộc chiến vô cùng ác liệt, ta chiến đấu rất kiên cường trong điều kiện không có công sự, địa hình trống và thấp. Địch ngoan cố, oanh tạc từ các  phía, gây thương vong không ít cán bộ, chiến sỹ của ta. Đến 9 giờ sáng cùng ngày, địch dùng máy bay trực thăng chở quân từ Tuy Hòa lên tăng cường cho lực lượng tại chỗ tổ chức nhiều đợt phản công vào trận địa của ta ở ấp Bắc Lý. Nhưng đều bị c2, d13 bẻ gãy và tiêu diệt rất nhiều địch, giữ vững trận địa.

“Khoảng 19 giờ ngày 19/6/1971, ta rút khỏi trận địa, vì chiến bị bị thương nhiều nên không di chuyển thi thể  đồng đội theo được. Sáng  ngày 20/6/1971, địch gom thi thể cán bộ chiến sỹ ta đã thương vong chôn ở một hố bom lớn tại ấp Bắc Lý. Trong số thi hài những vị anh hùng liệt tử có nhiều đồng chí là người các tỉnh thành, miền xuôi, miền ngược, đồng bào dân tộc thiểu số, phụ nữ…. Dù chưa trọn vẹn như phương án, nhưng trận đó đã giúp ta kịp thời rút ra bài học kinh nghiệm để tiếp tục cho cuộc chiến nối tiếp đi đến thắng lợi hoàn toàn” -  Đại tá Lưu Công Thục bùi ngùi nói tiếp.

Tuy trận đánh không giành được thắng lợi trọn vẹn, nhiều cán bộ, chiến sỹ ta phải hy sinh. Song, khói lửa, trận địa của ngày 19/6/1971 luôn là hình ảnh đẹp trong kí ức của những cựu binh còn sống sót, trong những mốc của trang sử đỏ vẻ vang, chói lọi của lịch sử Đảng Bộ, Chính quyền và nhân dân địa phương.

          Cùng chúng tôi dự lễ giỗ các vị liệt sỹ, bà Nguyễn Thị Thanh Hương, Chủ tịch UBND Thị trấn Củng Sơn trao đổi: “Mộ liệt sỹ tập thể Bắc Lý là một “điểm son” có ý nghĩa to lớn trong công cuộc bảo vệ và xây dựng tổ quốc, trong giáo dục truyền thống cách mạng cho mọi thế hệ. Di tích Mộ liệt sỹ tập thể Bắc Lý là nơi tưởng niệm, suy tôn những người con yêu tổ quốc, từ mọi miền của đất nước đã xả thân trước bom đạn của kẻ thù. Hàng năm, vào ngày 18/6 Ban liên lạc tiểu đoàn BB1 cùng với địa phương tổ chức Lễ giỗ long trọng nhằm tưởng nhớ các anh hùng, chiến sỹ ấy”. 

Ông Nguyễn Thiện Tình, Trưởng phòng Văn hóa và Thông tin huyện Sơn Hòa bày toe lòng tri ân và tự hào: “Mộ liệt sỹ tập thể Bắc Lý là di tích lịch sử ghi đậm chiến công, tinh thần chiến đấu, hy sinh anh dũng của quân và dân ta vì mục tiêu hòa bình, độc lập, thống nhất Tổ quốc. Ngày nay, di tích không chỉ là niềm tự hào của Đảng bộ, quân và dân Sơn Hòa mà còn là địa chỉ đỏ để mọi người, đặc biệt là những người trẻ, về đây ôn lại truyền thống đấu tranh, cách mạng của cha anh đi trước. Qua đó, bồi dưỡng thêm niềm tin, tinh thần nỗ lực phấn đấu, lao động, học tập để cống hiến nhiều hơn nữa sức mình cho quê hương và Tổ quốc, xứng đáng với sự hy sinh cao cả của những người đã anh dũng nằm xuống nơi đây”.

Rời mảnh đất anh hùng Sơn Hòa, chúng tôi cứ mãi dõi về hướng Tây – nơi có nấm mồ chung Bắc Lý cho đến khi khuất dần xa.

(Bài được phát trên Đài PTTH huyện Sơn Hòa)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

TỦ SÁCH ÁNH SÁNG Ở LÀNG BỐC RẪY

 

 

Một ngày đông se lạnh, chúng tôi tìm về ngôi làng mà người ta quen gọi Bốc Rẫy, tên đúng đơn vị hành chính là thôn Bok Rei (thuộc xã Đăk Sơmei, huyện Đăk Đoa, tỉnh Gia Lai). Hơn một năm qua, người dân nơi đây cảm kích, vui mừng và hứng thú đến đọc sách ở Tủ sách mang tên Ánh Sáng do chị Võ Thị Mỹ Diệu tự nguyện lập ra phục vụ buôn làng miễn phí.

Được thành lập, mở cửa phục vụ bạn đọc từ ngày 9/12/2019 Tủ sách mang tên Ánh Sáng đã lan tỏa phong trào khơi dậy văn hóa đọc, thói quen đọc sách, tự học tập qua sách báo in trong thời đại công nghệ số đang lên ngôi.

Chị Võ Thị Mỹ Diệu (35 tuổi), một phụ nữ đơn thân chăm chỉ lao động, được bà con nơi đây quý mến. Đã nhiều năm nay, chứng kiến cảnh các em học sinh “khát sách”, lại thôi thúc chị mở tủ sách phục vụ miễn phí cộng đồng. Chị Diệu chia sẻ nỗi niềm, ước mơ làm việc tử tế này: “Tôi thấy địa phương ở xa trung tâm, các cháu đi học thiếu nguồn sách để đọc, điều kiện vui chơi giải trí hạn chế quá, nên tôi đã tìm mua sách dành cho thiếu nhi và vận động góp sách ba tháng nay. Nay đủ duyên mở cửa đón bạn đọc là điều tôi vui mừng”.

Thôn Bok Rei có 204 hộ, hơn 800 nhân khẩu, 90% là đồng bào Ba Na sinh sống. Đời sống người dân còn khó khăn, việc mua sách là xa xỉ, đọc sách là sự khát khao đối với bao người. Đến Bok Rei hôm nay rộn ràng tiếng cười vui, hớn hở. Người ra kẻ vào đọc tại chỗ, ký mượn về nhà đọc lúc nhàn rỗi.

 

Em Thuk học sinh Trường Tiểu học Đăk Sơmei vui mừng : “Em rất thích đọc sách mỗi ngày, nhưng không có nhiều sách để đọc. Nay nhờ cô Diệu mở tủ sách miễn phí, em đến đây mỗi ngày để giải trí và tự học”.

Khó khăn ban đầu là chị chưa có điều kiện mua được nhiều sách, mỗi tháng chị dành dụm mua 5 đến 7 cuốn, rồi vận động góp sách từ bạn bè, họ hàng. Chị Diệu chia sẻ ý tưởng nhân văn này được nhiều người quen và được sự  ủng hộ, giúp đỡ: chị Dương Thị Kháng (Đăk Lăk) tặng 212 cuốn sách mới về kỹ năng sống,kinh tế Chị Lê Thu Vân (Chợ phiên từ thiện) tặng 200 truyện tranh; chị Mai Thị Huy (Thư viện tư nhân Nắng Mai – Phú Yên) tặng 200 cuốn sách văn học, nông nghiệp, tiếng Anh, truyện đến cho chị. Việc làm động đến trái tim của nhiều thầy cô giáo, trong đó thầy Lê Hữu Nam ở tận Ninh Thuận cũng gửi sách tặng cho tủ sách thêm đa dạng, đáp ứng nhu cầu đọc của bà con, học sinh.

Giờ đây, gian nhà cấp 4 nhỏ của chị Diệu luôn đầy ắp những tiếng cười vui của trẻ và cả những nông dân chân lấm tay bùn. Hình ảnh mà chúng tôi bắt gặp là những chị em buôn làng dịu con trong chăn thổ cẩm cũng chen vào chọn sách để đọc, những cụ già ngồi say sưa bên bàn trà và đọc không mỏi, ....khiến chúng tôi ngỡ ngàng.

Chúng tôi trở lại sau gần 1 năm Tủ sách Ánh Sáng mở cửa, nhìn các em học sinh người Ba Na thổ lộ niềm vui rạng rỡ trên môi mắt, chúng tôi càng thấy giá trị mà chị Diệu đã mang lại nơi đây. Thuận lợi của Tủ sách Ánh Sáng là nhà chị gần phân trường của Trường Tiểu học Đak Sơ Mei, gần Nhà Rông sinh hoạt cộng đồng thôn, không gian nhà chị trang trí đẹp mắt và thoáng mát, rộng rãi, chị có bán quán nhỏ … nên thuận lợi cho việc sinh hoạt, chuyện trò, tạo phong trào đọc sách ở một miền quê xa lơ xa lắc như Bok Rei.

Ông Buk, Bí thư Chi bộ thôn Bok Rei: “Chị Võ Thị Mỹ Diệu là một công dân tích cực, sống giàu nghĩa tình làng bản, xử sự có văn hóa, lành mạnh. Chị tự nguyện góp từng cuốn sách hay để tạo một không gian giải trí, tìm kiếm tri thức giữa chốn non sâu như này thật đáng quý và khen ngợi. Chúng tôi biểu dương tinh thần vì cộng đồng của chị. Hành động này góp phần nâng cao dân trí, xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, làng bản Bok Rei hôm nay và ngày mai”.

(Báo Đại Đoàn kết đăng 19/11/2020)

 

 

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

BÀI MỚI ĐẮNG

Truyện ngắn: BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN _ NGUYỄN HẢI ĐĂNG

Bên cánh gà chánh điện phần 1 BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN Xe dừng lại với tiếng xột xoạt trên mặt đường, như bao chuyến xe đã ghé qua từ thuở ...