THUYỀN KAGOR CỦA
NGƯỜI RAGLAY
Thuyền Kagor không phải là phương tiện giao thông đường
thủy, cũng không phải mô hình dùng làm vật trưng dụng, trang trí. Kagor là một
công trình nghệ thuật, kiến trúc độc đáo và cũng lắm công phu của những nghệ
nhân dân tộc Raglay dành cho “người về thế giới bên kia” với mong muốn người
khuất núi sẽ được con thuyền trắng đưa linh hồn về cõi vĩnh hằng.
Kagor mang hơi thở biển cả
Người Raglay sớm xuất hiện cùng với sự vận động, phát triển, sinh tồn song
hành với dân tộc Chăm trên đất Khánh Hòa nói riêng, vùng núi của một số tỉnh
khu vực duyên hải miền Trung nói chung.
Trong đó, phần lớn đồng bào Raglay sinh sống ở các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận,
Lâm Đồng.
Ở Khánh Hòa, người Raglay chiếm 3,4 % dân số toàn tỉnh, sống
tập trung chủ yếu ở các huyện Khánh Sơn, Khánh Vĩnh, Cam Ranh, Cam Lâm. Đồng
bào có tập quán du canh du cư, sống quây quần thành từng plây (làng) và rất
đoàn kết. Pô pa-lây (già làng) và “các đầu khôn người già” có uy tín nhất thường
đứng ra giải quyết việc làng. Các gia đình tuân theo chế độ mẫu hệ và là 1
trong 5 tộc người thuộc ngữ hệ Mã Lai- Đa Đảo (Chăm, Raglai, Chu Ru, Ê Đê, Gia
Rai). Đây là dấu hiệu đầu tiên cho thấy, người Raglay có nguồn gốc thủy tổ sinh
cư ven biển.
Cũng như các dân tộc khác cư trú lâu đời trên dãy núi
phía Nam Trường Sơn và Tây Nguyên, dân tộc Raglay có đời sống lao động, sản xuất
và sinh hoạt tín ngưỡng phụ thuộc lớn vào sự tác động của môi trường tự nhiên,
môi trường xã hội trong cộng đồng. Từ tư duy, quan niệm sống chịu ảnh hưởng của
văn hóa Á Đông. Đồng bào sống trọng tình nghĩa, tôn sùng thần linh, biết ơn ông
bà đã sinh ra nòi giống.
Theo các nhà nghiên cứu, văn hóa Raglay mang đậm hơi thở
của biển, dấu ấn đặc thù còn lại đó là thuyền Kagor. Di sản văn hóa này được
xem như linh vật được đúc kết, chọn lọc từ tinh hoa, sản vật của núi rừng, biển
cả… qua bàn tay tài hoa, khéo léo. Thạc sĩ Trần Kiêm Hoàng, Phòng Văn hóa và
Thông tin TP. Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa cho rằng: “Nếu rừng là toàn bộ văn hóa
Raglay hiện tại thì biển chính là toàn bộ văn hóa Raglay trong quá khứ."
Giải mã huyền bí “con thuyền úp ngược”
Từ điều kiện cư trú, thời tiết, khí hậu, thổ nhưỡng đất
đai, lao động sản xuất, người Raglay đã tạo cho mình một bản sắc văn hóa độc
đáo, riêng biệt mà không dị biệt. Qua khảo sát không gian văn hóa Raglay, từ hệ
thống các nghi lễ, văn hóa tổ chức đời sống cá nhân, đời sống cộng đồng thể hiện
khá rõ nét về nghệ thuật điêu khắc, kiến trúc xây dựng luôn gắn liền với đời sống
tinh thần, nhu cầu tâm linh, tín ngưỡng đa thần của họ. Cấu trúc nhà ở gần giống
các dân tộc thiểu số khác trên dãy Nam Trường Sơn - Tây Nguyên, khác là có cột
cái lớn giữa nhà. Nhìn chung, nghệ thuật bài trí và điêu khắc nhà ở đơn giản,
không cầu kỳ, hoa văn. Tuy nhiên, riêng kiến trúc nhà mồ thì người Raglay đặc
biệt chú trọng và trau chuốt, chỉnh chu hơn.
Khi nói đến nhà mồ Raglay thì phải kể đến thuyền Kagor.
Theo PGS. TS Ngôn ngữ học Mai Thị Kiều Phượng và các nhà nghiên cứu văn hóa thì
Kagor xuất phát từ cách phát âm, chỉ những người Raglay ở Ninh Thuận. Theo cách
phát âm, từ gor chỉ địa danh Ninh Thuận. Còn Kagau xuất phát từ hình ảnh quen
thuộc là sừng trâu, tiếng địa phương thì cuvau là trâu. Thí dụ, bà con hay nói
câu “Nãu palơi Gor” tức là Đi đến làng Ninh Thuận. Hay câu nói: “Chhar, salau,
cuvau, goq, cheh jro (tức là Mã la, mâm thau, con trâu, nồi đồng, ché cổ là năm
tài sản quý).
Trong tín ngưỡng cúng “vạn vật hữu linh” đều có lễ vật
Ahòq (Thuyền/ tàu đưa linh) để dâng lễ vật, cầu cúng. Ahòq có cả hai loại Kago
và Kagau, đều chung một mục đích là đưa linh hồn người chết về với thế giới ông
bà, tổ tiên. Nhưng khác nhau ở cấu trúc và cách thức lễ. Kagau có hình dạng như
sừng trâu, được nối chặt với trụ chính từ trái bầu mẹ (bằng gỗ) bên trong mái của
nhà mồ.
Còn Kagor theo giải thích của già làng Bo Bo Đe (73 tuổi,
ở Sơn Tân, Cam Lâm, Khánh Hòa) thì “Thuyền Kagor được làm trước và cúng mâm cơm
tại nhà chủ tang. Sau đó mới khiêng rước từ nhà lên. Khi đưa lên nóc nhà mồ, phải
“đập heo”, “đập gà”, “bốc ché” để cúng Kagor. Người khiêng phải là trai tráng
chưa có vợ, người chủ lễ là chủ nhang có tiếng.”
Cuối cùng là Lễ bỏ mả (hay Lễ bỏ ma). Sau khi làm xong
các nghi lễ cúng bái, chôn cất, đợi ngày lành tháng tốt, người Ralay sẽ làm lễ
bỏ mả, thường thì vào tháng ba, tháng tư dương lịch. Hiện nay, một số nơi đã áp
dụng làm Lễ bỏ mả kết hợp Lễ tang ma cho bớt tốn kém, tùy thuộc vào điều kiện
kinh tế, thời tiết mà họ tổ chức. Nhà mồ Raglay truyền thống được làm bằng chất
liệu từ núi rừng: Mái bằng tranh, mây; có 4 cột, được chọn lựa và đẽo gọt, chạm
khắc hoa văn, họa tiết theo dạng khấc tròn, vặn tròn, đối xứng, thường hai cột
tròn và hai cột vuông. Các màu chủ lực là đen, trắng, đỏ, tím, lam, vàng…
Người Raglay vốn gắn bó, thân thiện với thiên nhiên nên họ
chọn chất liệu chính từ vỏ cây, lá và các loại củ, quả, dây leo, với tro… để
pha trộn, chế tác chất liệu. Thuyền Kagor được làm bằng chất liệu cũng giống
như nhà mồ. Riêng phần họa tiết hoa văn có phần tỉ mỉ, công phu hơn, đòi hỏi
người nghệ nhận phải khéo léo và có cái tâm. Hình dạng như tên gọi, Kagor là
như một biểu tượng linh hồn nên người Raglai có câu “Ahòq tanruaq rugãq atơu”,
tức là con tàu quan tài hình thuyền úp xuống. Thông thường, trên thuyền luôn có
nhà cửa tượng trưng, có cửa gần giống dạng tam môn quan, ngôi giữa cao hơn hai
ngôi hai bên.
Mô hình Kago thường nhỏ nhất khoảng 50cm x 70 cm 80cm, hoặc
lớn hơn gấp đôi tùy quy mô ngôi nhà mồ và điều kiện gia chủ. Người nghệ nhân cố
gọt giũa, bào nhẵn đuôi thuyền, mũi thuyền vẽ hoa văn hình rồng (lưỡng long chầu
nguyệt) uốn chầu trên đỉnh các ngôi nhà rất đối xứng tâm, thêm nữa là hình rắn
garai. Bên dưới là hàng rào, chim chóc, cá, trái bầu và cả dụng cụ là dao,
rìu... Điều đó cho thấy, người Raglay cổ xưa rất sùng bái tự nhiên, cầu phúc, cầu
an, no ấm với người về bên kia. Bằng chất liệu thiên nhiên, đồng bào dùng lá trầu
giã trộn củ nghệ, đá sỏi, than, tro và cây củ, nhựa cây trong rừng, trên núi để
phối trộn màu sắc và chế tác. Còn nhà mồ hiện nay được hiện đại hơn bằng vật liệu
xi măng, cốt thép, lợp ngói hoặc tôn.
Trải qua suốt chiều dài lịch sử, dân tộc Raglay từ buổi
sơ khai đến nay vẫn giữ được nét văn hóa cho riêng mình. Thuyền Kagor là một biểu
tượng không chỉ đông đặc phạm trù tập quán xã hội, tín ngưỡng “đa thần”, sùng
bái các đấng siêu nhiên, kính trọng, biết ơn ông bà thủy tổ mà còn hiện rõ tính
nhân văn, nhân sinh quan sâu đậm. Ngày nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của
kinh tế thị trường, Nhà nước quan tâm chăm lo đời sống Nhân dân, người Raglay
có mức sống khá ổn định. Nhà của đồng bào được xây dựng bằng vật liệu vững chãi
như sắt thép, xi măng. Nhà mồ cũng kiên cố hóa nên hình tượng nhà mồ truyền thống,
thuyền Kagor đa sắc màu đã dần mai một.
Ông Lê Văn Hoa, Phó Giám đốc Sở Văn hóa Thể thao tỉnh
Khánh Hòa: “Trong hệ thống các nghi lễ của
người Raglay thì Lễ bỏ mả là nghi lễ tâm linh tiêu biểu, nó mang đậm màu sắc
văn hóa dân gian. Vừa tích hợp các giá trị văn hóa nghệ thuật truyền thống, vừa
thể hiện sự gắn kết cộng đồng. Qua đó, thấy được tính nhân văn, tính giáo dục
qua việc thực hiện làm thuyền Kagor trên nóc nhà mồ. “Lễ hội bỏ mả của người
Raglay ở Khánh Sơn” được Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch công nhận là Di sản văn
hóa phi vật thể cấp quốc gia năm 2012, thuộc loại hình tập quán xã hội và tín
ngưỡng. Hiện nay, khi nhu cầu xã hội nâng cao, đời sống phát triển, ngôi nhà mồ
được xây dựng bằng chất liệu kiên cố, dần mất đi hình ảnh Kagor đầy sắc màu.
Cho nên việc cấp bách hiện nay là phải phục dựng, duy trì, bảo tồn và phát huy
bản sắc văn hóa nhằm xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân
tộc theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII đã đề ra.”
Báo Dân tộc và Phát triển đăng 23/11/2020)
VIẾNG MỘ LIỆT SỸ TẬP
THỂ BẮC LÝ
Ký sự
Tháng sáu hàng năm, cứ ngày mười tám là chúng tôi lại hội
mặt về lễ giỗ các vị anh hùng liệt sỹ đã anh dũng hy sinh trong trận đánh Ấp Bắc
Lý ở phố núi Củng Sơn. Thắp lên “ngôi mộ chung” nén hương và nghiêng mình tri
ân, suy tôn công lao ấy.
Tròn 50 năm qua, (ngày18/6/1971 – 18/6/2021), Đảng bộ,
Chính quyền và nhân dân thị trấn Củng Sơn (Sơn Hòa - Phú Yên) luôn ghi nhớ công
lao và sự hy sinh vô cùng to lớn của 57 liệt sỹ cán bộ Dân chính Đảng, Hội đoàn
thể, quân và dân huyện Sơn Hòa và cán bộ, chiến sỹ của Tiểu đoàn bộ binh 13 đã
anh dũng hy sinh trong trận đánh ấp Bắc Lý không cân sức năm 1971. Trong khóe mắt
của những cựu binh và người thân của liệt sĩ là nỗi thương tiếc pha lẫn niềm tự
hào về người thân, đồng chí, đồng đội sâu như “hố bom ngày ấy”. “Ngôi mộ lớn”
ngày nay đã được tôn tạo, trùng tu trở thành di tích lịch sử cấp tỉnh - Di
tích lịch sử Mộ liệt sỹ tập thể Bắc Lý.
Theo số liệu khảo tả trong “Lý lịch Di tích Mộ liệt sỹ tập
thể Bắc Lý” của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Phú Yên duyệt ngày
29/10/2014) thì Mộ liệt sỹ tập thể Bắc Lý là nơi yên nghỉ của 57 liệt sĩ hy
sinh trong cuộc đấu tranh chống Mỹ. Tọa lạc trên cánh đồng lúa, mía xanh bạc
ngàn liền cận khu dân cư khu phố văn hóa Bắc Lý trên trục đường Lê Lợi, thị trấn
Củng Sơn, huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên (trước đây có tên Mỹ Ngụy dồn dân lập ấp
chiến lược Bắc Lý) cách trung tâm thành phố Tuy Hòa khoảng 50 km về phía Tây có
diện tích khuông viên rộng 2.228,2m vuông, bao gồm các hạng mục: cổng chính và
nhà tưởng niệm - nơi có ngôi mộ liệt sỹ tập thể.
Sau ngày đất nước giải phóng, Đảng bộ, Chính quyền và
nhân dân thị trấn Củng Sơn đã xây nấm mồ chung thành “Ngôi mộ lớn”. Năm 2012 được
sự quan tâm của Lãnh đạo Tỉnh Ủy Phú Yên và Huyện ủy Sơn Hòa và sự chung tay của
nhân dân, thân nhân liệt sỹ, khu mộ ấy đã được đầu tư kinh phí, nâng cấp, tôn tạo
thành ngôi mộ lớn, khang trang như ngày nay. Ngày 29/12/2014, UBND Tỉnh Phú Yên
ban hành Quyết định số 2181/QĐ-UBND về việc xếp hạng di tích cấp tỉnh đối với
di tích Mộ liệt sỹ tập thể Bắc Lý. Ngày
12/03/ 2015, thị trấn Củng Sơn long trọng tổ chức Lễ đón nhận Bằng xếp hạng di
tích cấp tỉnh Mộ liệt sỹ tập thể Bắc Lý. Chúng tôi gặp cựu chiến binh Hàn Nghĩa
bộc bạch: “Chiến tranh đi qua, nay tôi trở lại thăm các anh em. Những người may
mắn sống sót như chúng hàng năm về giỗ các anh chén nước gọi là nghĩa tình đồng
đội. Cũng là dịp tri ân, tưởng nhớ anh em”.
Mùa xuân năm 1971, những vùng căn cứ địa cánh mạng ở miền Tây Phú Yên đã lần lượt
giải phóng. Ban thường vụ Tỉnh ủy, Tỉnh Đội Phú Yên đã chủ động xây dựng kế hoạch, chủ trương tổ
chức tập trung lực lượng của tỉnh và huyện Sơn Hòa nhằm tấn công tiêu diệt quân
địch, phát động quần chúng nổi dậy diệt ác, phá kèm, phá ấp chiến lược, giải
phóng quận lị Củng Sơn mở rộng vùng giải phóng.
Tỉnh đội đã vạch rõ kế hoạch tác chiến, giao nhiệm vụ cụ thể cho từng đơn vị là Đại đội đặc công
202 phối hợp với Tiểu đoàn 96 tập kích Đại đội biệt kích địch ở cao điểm Hòn
Ngang, chốt lại đánh địch phản kích. Đại đội đặc công 25 phối hợp Đại đội 3 của
Tiểu đoàn 13 tập kích quận lỵ Củng Sơn có nhiệm vụ tiêu diệt đại đội lính bảo
an địch. Đại đội 2 của Tiểu đoàn 13 phối hợp đại đội bộ đội địa phương huyện
Sơn Hòa tiêu diệt địch tại sân bay, ấp Bắc Lý chốt lại để tổ chức, phát động quần
chúng nổi dậy xây dựng chính quyền cách mạng và đưa một bộ phận nhân dân về lại
làng cũ.
Đại tá Lưu Công Thục, ( Nguyên Trưởng ban tuyên giáo Hội
Cựu chiến binh tỉnh Phú Yên- Phó Trưởng Ban liên lạc tiểu đoàn BB 13, nguyên Tiểu
đội trưởng , Trung đội 5, Đại đội 2, Tiểu đoàn bộ binh 13(at.b5.c2.d13) nhớ như
in: “Nhận được mệnh lệnh của Ban chỉ huy Tỉnh đội từ hậu cứ của đơn vị đóng ở Trại Cháy (Suối Đục, xã Sơn
Xuân) Tiểu đoàn 13 hành quân theo hướng Tây Nam đến gộp Hòa Nguyên; tại Suối
Phường Bà Tám (nay là thôn Nguyên Hà, xã Sơn Nguyên) thì tạm dừng, làm công tác
tổ chức chuẩn bị chiến đấu. Chiều ngày 18/6/1971 đơn vị tiếp tục hành quân đến
đường số 7 đoạn ngã ba Ba Bản (nay là Suối
Bạc) thì sẩm tối. Đến 19 giờ, Đại đội 2 do đồng chí Nguyễn Khắc Kế làm Đại đội
trưởng, đồng chí Nguyễn Văn Kiềm làm
chính trị viên chỉ huy bí mật hành quân vượt qua Suối Bùn chiếm lĩnh trận địa tại
ấp Bắc Lý. Khoảng 24 giờ cùng ngày, đơn vị đã hoàn thành mọi công tác chuẩn bị
sẵn sàng chờ lệnh nổ súng”.
Rạng sáng ngày 19/6/1971, khoảng 4 giờ 00, Đại đội đặc
công 202 và Đại đội 3 của Tiểu đoàn 96 bộ binh nổ súng tập kích vào Đại đội biệt
kích của địch tại cứ điểm Hòn Ngang. Cùng thời điểm đó, đại đội 2 của tiểu đoàn
bộ binh 13 và đại đội bộ đội địa phương huyện Sơn Hòa tấn công đánh chiếm ấp Bắc
Lý, sân bay Củng Sơn, làm tiêu hao quân địch, số sống sót chạy về co cụm ở quận
lỵ. Do nước lũ sông Ba quá lớn nên Đại đội đặc công 25 không qua sông được, nên
không hợp đồng tác chiến được với Đại đội 3 của Tiểu đoàn BB 13 để tập kích địch
ở quận lỵ Củng Sơn như kế hoạch. Trời sáng, địch tổ chức phản kích chiếm lại
Hòn Ngang cùng với lực lượng ở quận lị tổ
chức phản kích ta trên trận địa Đông Hòa, Bắc Lý.”.
Cuộc
chiến vô cùng ác liệt, ta chiến đấu rất kiên cường trong điều kiện không có
công sự, địa hình trống và thấp. Địch ngoan cố, oanh tạc từ các phía, gây thương vong không ít cán bộ, chiến
sỹ của ta. Đến 9 giờ sáng cùng ngày, địch dùng máy bay trực thăng chở quân từ
Tuy Hòa lên tăng cường cho lực lượng tại chỗ tổ chức nhiều đợt phản công vào trận
địa của ta ở ấp Bắc Lý. Nhưng đều bị c2, d13 bẻ gãy và tiêu diệt rất nhiều địch,
giữ vững trận địa.
“Khoảng 19 giờ ngày 19/6/1971, ta rút khỏi trận địa, vì
chiến bị bị thương nhiều nên không di chuyển thi thể đồng đội theo được. Sáng ngày 20/6/1971, địch gom thi thể cán bộ chiến
sỹ ta đã thương vong chôn ở một hố bom lớn tại ấp Bắc Lý. Trong số thi hài những
vị anh hùng liệt tử có nhiều đồng chí là người các tỉnh thành, miền xuôi, miền
ngược, đồng bào dân tộc thiểu số, phụ nữ…. Dù chưa trọn vẹn như phương án,
nhưng trận đó đã giúp ta kịp thời rút ra bài học kinh nghiệm để tiếp tục cho cuộc
chiến nối tiếp đi đến thắng lợi hoàn toàn” -
Đại tá Lưu Công Thục bùi ngùi nói tiếp.
Tuy trận đánh không giành được thắng lợi trọn vẹn, nhiều
cán bộ, chiến sỹ ta phải hy sinh. Song, khói lửa, trận địa của ngày 19/6/1971
luôn là hình ảnh đẹp trong kí ức của những cựu binh còn sống sót, trong những mốc
của trang sử đỏ vẻ vang, chói lọi của lịch sử Đảng Bộ, Chính quyền và nhân dân
địa phương.
Cùng chúng tôi dự lễ giỗ các
vị liệt sỹ, bà Nguyễn Thị Thanh Hương, Chủ tịch UBND Thị trấn Củng Sơn trao đổi:
“Mộ liệt sỹ tập thể Bắc Lý là một “điểm son” có ý nghĩa to lớn trong công cuộc
bảo vệ và xây dựng tổ quốc, trong giáo dục truyền thống cách mạng cho mọi thế hệ.
Di tích Mộ liệt sỹ tập thể Bắc Lý là nơi tưởng niệm, suy tôn những người con
yêu tổ quốc, từ mọi miền của đất nước đã xả thân trước bom đạn của kẻ thù. Hàng
năm, vào ngày 18/6 Ban liên lạc tiểu đoàn BB1 cùng với địa phương tổ chức Lễ giỗ
long trọng nhằm tưởng nhớ các anh hùng, chiến sỹ ấy”.
Ông Nguyễn Thiện Tình, Trưởng phòng Văn hóa và Thông tin
huyện Sơn Hòa bày toe lòng tri ân và tự hào: “Mộ liệt sỹ tập thể Bắc Lý là di
tích lịch sử ghi đậm chiến công, tinh thần chiến đấu, hy sinh anh dũng của quân
và dân ta vì mục tiêu hòa bình, độc lập, thống nhất Tổ quốc. Ngày nay, di tích
không chỉ là niềm tự hào của Đảng bộ, quân và dân Sơn Hòa mà còn là địa chỉ đỏ
để mọi người, đặc biệt là những người trẻ, về đây ôn lại truyền thống đấu
tranh, cách mạng của cha anh đi trước. Qua đó, bồi dưỡng thêm niềm tin, tinh thần
nỗ lực phấn đấu, lao động, học tập để cống hiến nhiều hơn nữa sức mình cho quê
hương và Tổ quốc, xứng đáng với sự hy sinh cao cả của những người đã anh dũng nằm
xuống nơi đây”.
Rời mảnh đất anh hùng Sơn Hòa, chúng tôi cứ mãi dõi về hướng
Tây – nơi có nấm mồ chung Bắc Lý cho đến khi khuất dần xa.
(Bài được phát trên Đài PTTH huyện Sơn Hòa)
TỦ SÁCH ÁNH SÁNG Ở
LÀNG BỐC RẪY
Một ngày đông se lạnh, chúng tôi tìm về ngôi làng mà người
ta quen gọi Bốc Rẫy, tên đúng đơn vị hành chính là thôn Bok Rei (thuộc xã Đăk
Sơmei, huyện Đăk Đoa, tỉnh Gia Lai). Hơn một năm qua, người dân nơi đây cảm
kích, vui mừng và hứng thú đến đọc sách ở Tủ sách mang tên Ánh Sáng do chị Võ
Thị Mỹ Diệu tự nguyện lập ra phục vụ buôn làng miễn phí.
Được thành lập, mở cửa phục vụ bạn đọc từ ngày 9/12/2019
Tủ sách mang tên Ánh Sáng đã lan tỏa phong trào khơi dậy văn hóa đọc, thói quen
đọc sách, tự học tập qua sách báo in trong thời đại công nghệ số đang lên ngôi.
Chị Võ Thị Mỹ Diệu (35 tuổi), một phụ nữ đơn thân chăm chỉ
lao động, được bà con nơi đây quý mến. Đã nhiều năm nay, chứng kiến cảnh các em
học sinh “khát sách”, lại thôi thúc chị mở tủ sách phục vụ miễn phí cộng đồng. Chị
Diệu chia sẻ nỗi niềm, ước mơ làm việc tử tế này: “Tôi thấy địa phương ở xa
trung tâm, các cháu đi học thiếu nguồn sách để đọc, điều kiện vui chơi giải trí
hạn chế quá, nên tôi đã tìm mua sách dành cho thiếu nhi và vận động góp sách ba
tháng nay. Nay đủ duyên mở cửa đón bạn đọc là điều tôi vui mừng”.
Thôn Bok Rei có 204 hộ, hơn 800 nhân khẩu, 90% là đồng
bào Ba Na sinh sống. Đời sống người dân còn khó khăn, việc mua sách là xa xỉ, đọc
sách là sự khát khao đối với bao người. Đến Bok Rei hôm nay rộn ràng tiếng cười
vui, hớn hở. Người ra kẻ vào đọc tại chỗ, ký mượn về nhà đọc lúc nhàn rỗi.
Em Thuk học sinh Trường Tiểu học Đăk Sơmei vui mừng : “Em
rất thích đọc sách mỗi ngày, nhưng không có nhiều sách để đọc. Nay nhờ cô Diệu
mở tủ sách miễn phí, em đến đây mỗi ngày để giải trí và tự học”.
Khó khăn ban đầu là chị chưa có điều kiện mua được nhiều
sách, mỗi tháng chị dành dụm mua 5 đến 7 cuốn, rồi vận động góp sách từ bạn bè,
họ hàng. Chị Diệu chia sẻ ý tưởng nhân văn này được nhiều người quen và được sự ủng hộ, giúp đỡ: chị Dương Thị Kháng (Đăk
Lăk) tặng 212 cuốn sách mới về kỹ năng sống,kinh tế Chị Lê Thu Vân (Chợ phiên từ
thiện) tặng 200 truyện tranh; chị Mai Thị Huy (Thư viện tư nhân Nắng Mai – Phú
Yên) tặng 200 cuốn sách văn học, nông nghiệp, tiếng Anh, truyện đến cho chị. Việc
làm động đến trái tim của nhiều thầy cô giáo, trong đó thầy Lê Hữu Nam ở tận
Ninh Thuận cũng gửi sách tặng cho tủ sách thêm đa dạng, đáp ứng nhu cầu đọc của
bà con, học sinh.
Giờ đây, gian nhà cấp 4 nhỏ của chị Diệu luôn đầy ắp những
tiếng cười vui của trẻ và cả những nông dân chân lấm tay bùn. Hình ảnh mà chúng
tôi bắt gặp là những chị em buôn làng dịu con trong chăn thổ cẩm cũng chen vào
chọn sách để đọc, những cụ già ngồi say sưa bên bàn trà và đọc không mỏi,
....khiến chúng tôi ngỡ ngàng.
Chúng tôi trở lại sau gần 1 năm Tủ sách Ánh Sáng mở cửa,
nhìn các em học sinh người Ba Na thổ lộ niềm vui rạng rỡ trên môi mắt, chúng
tôi càng thấy giá trị mà chị Diệu đã mang lại nơi đây. Thuận lợi của Tủ sách
Ánh Sáng là nhà chị gần phân trường của Trường Tiểu học Đak Sơ Mei, gần Nhà
Rông sinh hoạt cộng đồng thôn, không gian nhà chị trang trí đẹp mắt và thoáng
mát, rộng rãi, chị có bán quán nhỏ … nên thuận lợi cho việc sinh hoạt, chuyện
trò, tạo phong trào đọc sách ở một miền quê xa lơ xa lắc như Bok Rei.
Ông Buk, Bí thư Chi bộ thôn Bok Rei: “Chị Võ Thị Mỹ Diệu
là một công dân tích cực, sống giàu nghĩa tình làng bản, xử sự có văn hóa, lành
mạnh. Chị tự nguyện góp từng cuốn sách hay để tạo một không gian giải trí, tìm
kiếm tri thức giữa chốn non sâu như này thật đáng quý và khen ngợi. Chúng tôi
biểu dương tinh thần vì cộng đồng của chị. Hành động này góp phần nâng cao dân
trí, xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, làng bản Bok Rei hôm nay và ngày
mai”.
(Báo Đại Đoàn kết đăng 19/11/2020)