Chủ Nhật, 14 tháng 11, 2021

TẬP TRUYỆN KÝ KỲ THỦ XI CÀ QUE

 

THUYỀN KAGOR CỦA NGƯỜI RAGLAY

 

 

Thuyền Kagor không phải là phương tiện giao thông đường thủy, cũng không phải mô hình dùng làm vật trưng dụng, trang trí. Kagor là một công trình nghệ thuật, kiến trúc độc đáo và cũng lắm công phu của những nghệ nhân dân tộc Raglay dành cho “người về thế giới bên kia” với mong muốn người khuất núi sẽ được con thuyền trắng đưa linh hồn về cõi vĩnh hằng.

 

Kagor mang hơi thở biển cả

Người Raglay sớm xuất hiện cùng với sự vận động, phát triển, sinh tồn song hành với dân tộc Chăm trên đất Khánh Hòa nói riêng, vùng núi của một số tỉnh khu vực duyên hải  miền Trung nói chung. Trong đó, phần lớn đồng bào Raglay sinh sống ở các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, Lâm Đồng.

Ở Khánh Hòa, người Raglay chiếm 3,4 % dân số toàn tỉnh, sống tập trung chủ yếu ở các huyện Khánh Sơn, Khánh Vĩnh, Cam Ranh, Cam Lâm. Đồng bào có tập quán du canh du cư, sống quây quần thành từng plây (làng) và rất đoàn kết. Pô pa-lây (già làng) và “các đầu khôn người già” có uy tín nhất thường đứng ra giải quyết việc làng. Các gia đình tuân theo chế độ mẫu hệ và là 1 trong 5 tộc người thuộc ngữ hệ Mã Lai- Đa Đảo (Chăm, Raglai, Chu Ru, Ê Đê, Gia Rai). Đây là dấu hiệu đầu tiên cho thấy, người Raglay có nguồn gốc thủy tổ sinh cư ven biển.

 

Cũng như các dân tộc khác cư trú lâu đời trên dãy núi phía Nam Trường Sơn và Tây Nguyên, dân tộc Raglay có đời sống lao động, sản xuất và sinh hoạt tín ngưỡng phụ thuộc lớn vào sự tác động của môi trường tự nhiên, môi trường xã hội trong cộng đồng. Từ tư duy, quan niệm sống chịu ảnh hưởng của văn hóa Á Đông. Đồng bào sống trọng tình nghĩa, tôn sùng thần linh, biết ơn ông bà đã sinh ra nòi giống.

Theo các nhà nghiên cứu, văn hóa Raglay mang đậm hơi thở của biển, dấu ấn đặc thù còn lại đó là thuyền Kagor. Di sản văn hóa này được xem như linh vật được đúc kết, chọn lọc từ tinh hoa, sản vật của núi rừng, biển cả… qua bàn tay tài hoa, khéo léo. Thạc sĩ Trần Kiêm Hoàng, Phòng Văn hóa và Thông tin TP. Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa cho rằng: “Nếu rừng là toàn bộ văn hóa Raglay hiện tại thì biển chính là toàn bộ văn hóa Raglay trong quá khứ."

Giải mã huyền bí “con thuyền úp ngược”

Từ điều kiện cư trú, thời tiết, khí hậu, thổ nhưỡng đất đai, lao động sản xuất, người Raglay đã tạo cho mình một bản sắc văn hóa độc đáo, riêng biệt mà không dị biệt. Qua khảo sát không gian văn hóa Raglay, từ hệ thống các nghi lễ, văn hóa tổ chức đời sống cá nhân, đời sống cộng đồng thể hiện khá rõ nét về nghệ thuật điêu khắc, kiến trúc xây dựng luôn gắn liền với đời sống tinh thần, nhu cầu tâm linh, tín ngưỡng đa thần của họ. Cấu trúc nhà ở gần giống các dân tộc thiểu số khác trên dãy Nam Trường Sơn - Tây Nguyên, khác là có cột cái lớn giữa nhà. Nhìn chung, nghệ thuật bài trí và điêu khắc nhà ở đơn giản, không cầu kỳ, hoa văn. Tuy nhiên, riêng kiến trúc nhà mồ thì người Raglay đặc biệt chú trọng và trau chuốt, chỉnh chu hơn.

 

Khi nói đến nhà mồ Raglay thì phải kể đến thuyền Kagor. Theo PGS. TS Ngôn ngữ học Mai Thị Kiều Phượng và các nhà nghiên cứu văn hóa thì Kagor xuất phát từ cách phát âm, chỉ những người Raglay ở Ninh Thuận. Theo cách phát âm, từ gor chỉ địa danh Ninh Thuận. Còn Kagau xuất phát từ hình ảnh quen thuộc là sừng trâu, tiếng địa phương thì cuvau là trâu. Thí dụ, bà con hay nói câu “Nãu palơi Gor” tức là Đi đến làng Ninh Thuận. Hay câu nói: “Chhar, salau, cuvau, goq, cheh jro (tức là Mã la, mâm thau, con trâu, nồi đồng, ché cổ là năm tài sản quý).

Trong tín ngưỡng cúng “vạn vật hữu linh” đều có lễ vật Ahòq (Thuyền/ tàu đưa linh) để dâng lễ vật, cầu cúng. Ahòq có cả hai loại Kago và Kagau, đều chung một mục đích là đưa linh hồn người chết về với thế giới ông bà, tổ tiên. Nhưng khác nhau ở cấu trúc và cách thức lễ. Kagau có hình dạng như sừng trâu, được nối chặt với trụ chính từ trái bầu mẹ (bằng gỗ) bên trong mái của nhà mồ.

Còn Kagor theo giải thích của già làng Bo Bo Đe (73 tuổi, ở Sơn Tân, Cam Lâm, Khánh Hòa) thì “Thuyền Kagor được làm trước và cúng mâm cơm tại nhà chủ tang. Sau đó mới khiêng rước từ nhà lên. Khi đưa lên nóc nhà mồ, phải “đập heo”, “đập gà”, “bốc ché” để cúng Kagor. Người khiêng phải là trai tráng chưa có vợ, người chủ lễ là chủ nhang có tiếng.”

Cuối cùng là Lễ bỏ mả (hay Lễ bỏ ma). Sau khi làm xong các nghi lễ cúng bái, chôn cất, đợi ngày lành tháng tốt, người Ralay sẽ làm lễ bỏ mả, thường thì vào tháng ba, tháng tư dương lịch. Hiện nay, một số nơi đã áp dụng làm Lễ bỏ mả kết hợp Lễ tang ma cho bớt tốn kém, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, thời tiết mà họ tổ chức. Nhà mồ Raglay truyền thống được làm bằng chất liệu từ núi rừng: Mái bằng tranh, mây; có 4 cột, được chọn lựa và đẽo gọt, chạm khắc hoa văn, họa tiết theo dạng khấc tròn, vặn tròn, đối xứng, thường hai cột tròn và hai cột vuông. Các màu chủ lực là đen, trắng, đỏ, tím, lam, vàng…

Người Raglay vốn gắn bó, thân thiện với thiên nhiên nên họ chọn chất liệu chính từ vỏ cây, lá và các loại củ, quả, dây leo, với tro… để pha trộn, chế tác chất liệu. Thuyền Kagor được làm bằng chất liệu cũng giống như nhà mồ. Riêng phần họa tiết hoa văn có phần tỉ mỉ, công phu hơn, đòi hỏi người nghệ nhận phải khéo léo và có cái tâm. Hình dạng như tên gọi, Kagor là như một biểu tượng linh hồn nên người Raglai có câu “Ahòq tanruaq rugãq atơu”, tức là con tàu quan tài hình thuyền úp xuống. Thông thường, trên thuyền luôn có nhà cửa tượng trưng, có cửa gần giống dạng tam môn quan, ngôi giữa cao hơn hai ngôi hai bên.

Mô hình Kago thường nhỏ nhất khoảng 50cm x 70 cm 80cm, hoặc lớn hơn gấp đôi tùy quy mô ngôi nhà mồ và điều kiện gia chủ. Người nghệ nhân cố gọt giũa, bào nhẵn đuôi thuyền, mũi thuyền vẽ hoa văn hình rồng (lưỡng long chầu nguyệt) uốn chầu trên đỉnh các ngôi nhà rất đối xứng tâm, thêm nữa là hình rắn garai. Bên dưới là hàng rào, chim chóc, cá, trái bầu và cả dụng cụ là dao, rìu... Điều đó cho thấy, người Raglay cổ xưa rất sùng bái tự nhiên, cầu phúc, cầu an, no ấm với người về bên kia. Bằng chất liệu thiên nhiên, đồng bào dùng lá trầu giã trộn củ nghệ, đá sỏi, than, tro và cây củ, nhựa cây trong rừng, trên núi để phối trộn màu sắc và chế tác. Còn nhà mồ hiện nay được hiện đại hơn bằng vật liệu xi măng, cốt thép, lợp ngói hoặc tôn.

Trải qua suốt chiều dài lịch sử, dân tộc Raglay từ buổi sơ khai đến nay vẫn giữ được nét văn hóa cho riêng mình. Thuyền Kagor là một biểu tượng không chỉ đông đặc phạm trù tập quán xã hội, tín ngưỡng “đa thần”, sùng bái các đấng siêu nhiên, kính trọng, biết ơn ông bà thủy tổ mà còn hiện rõ tính nhân văn, nhân sinh quan sâu đậm. Ngày nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế thị trường, Nhà nước quan tâm chăm lo đời sống Nhân dân, người Raglay có mức sống khá ổn định. Nhà của đồng bào được xây dựng bằng vật liệu vững chãi như sắt thép, xi măng. Nhà mồ cũng kiên cố hóa nên hình tượng nhà mồ truyền thống, thuyền Kagor đa sắc màu đã dần mai một.

Ông Lê Văn Hoa, Phó Giám đốc Sở Văn hóa Thể thao tỉnh Khánh Hòa: “Trong hệ thống các nghi lễ của người Raglay thì Lễ bỏ mả là nghi lễ tâm linh tiêu biểu, nó mang đậm màu sắc văn hóa dân gian. Vừa tích hợp các giá trị văn hóa nghệ thuật truyền thống, vừa thể hiện sự gắn kết cộng đồng. Qua đó, thấy được tính nhân văn, tính giáo dục qua việc thực hiện làm thuyền Kagor trên nóc nhà mồ. “Lễ hội bỏ mả của người Raglay ở Khánh Sơn” được Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia năm 2012, thuộc loại hình tập quán xã hội và tín ngưỡng. Hiện nay, khi nhu cầu xã hội nâng cao, đời sống phát triển, ngôi nhà mồ được xây dựng bằng chất liệu kiên cố, dần mất đi hình ảnh Kagor đầy sắc màu. Cho nên việc cấp bách hiện nay là phải phục dựng, duy trì, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa nhằm xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII đã đề ra.”

 

Báo Dân tộc và Phát triển đăng 23/11/2020)

 

 

 

 

 

 

 

 

VIẾNG MỘ LIỆT SỸ TẬP THỂ BẮC LÝ

 

Ký sự

Tháng sáu hàng năm, cứ ngày mười tám là chúng tôi lại hội mặt về lễ giỗ các vị anh hùng liệt sỹ đã anh dũng hy sinh trong trận đánh Ấp Bắc Lý ở phố núi Củng Sơn. Thắp lên “ngôi mộ chung” nén hương và nghiêng mình tri ân, suy tôn công lao ấy.

Tròn 50 năm qua, (ngày18/6/1971 – 18/6/2021), Đảng bộ, Chính quyền và nhân dân thị trấn Củng Sơn (Sơn Hòa - Phú Yên) luôn ghi nhớ công lao và sự hy sinh vô cùng to lớn của 57 liệt sỹ cán bộ Dân chính Đảng, Hội đoàn thể, quân và dân huyện Sơn Hòa và cán bộ, chiến sỹ của Tiểu đoàn bộ binh 13 đã anh dũng hy sinh trong trận đánh ấp Bắc Lý không cân sức năm 1971. Trong khóe mắt của những cựu binh và người thân của liệt sĩ là nỗi thương tiếc pha lẫn niềm tự hào về người thân, đồng chí, đồng đội sâu như “hố bom ngày ấy”. “Ngôi mộ lớn” ngày nay đã được tôn tạo, trùng tu trở thành di tích lịch sử cấp tỉnh  -  Di tích lịch sử Mộ liệt sỹ tập thể Bắc Lý.

Theo số liệu khảo tả trong “Lý lịch Di tích Mộ liệt sỹ tập thể Bắc Lý” của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Phú Yên duyệt ngày 29/10/2014) thì Mộ liệt sỹ tập thể Bắc Lý là nơi yên nghỉ của 57 liệt sĩ hy sinh trong cuộc đấu tranh chống Mỹ. Tọa lạc trên cánh đồng lúa, mía xanh bạc ngàn liền cận khu dân cư khu phố văn hóa Bắc Lý trên trục đường Lê Lợi, thị trấn Củng Sơn, huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên (trước đây có tên Mỹ Ngụy dồn dân lập ấp chiến lược Bắc Lý) cách trung tâm thành phố Tuy Hòa khoảng 50 km về phía Tây có diện tích khuông viên rộng 2.228,2m vuông, bao gồm các hạng mục: cổng chính và nhà tưởng niệm - nơi có ngôi mộ liệt sỹ tập thể.

Sau ngày đất nước giải phóng, Đảng bộ, Chính quyền và nhân dân thị trấn Củng Sơn đã xây nấm mồ chung thành “Ngôi mộ lớn”. Năm 2012 được sự quan tâm của Lãnh đạo Tỉnh Ủy Phú Yên và Huyện ủy Sơn Hòa và sự chung tay của nhân dân, thân nhân liệt sỹ, khu mộ ấy đã được đầu tư kinh phí, nâng cấp, tôn tạo thành ngôi mộ lớn, khang trang như ngày nay. Ngày 29/12/2014, UBND Tỉnh Phú Yên ban hành Quyết định số 2181/QĐ-UBND về việc xếp hạng di tích cấp tỉnh đối với di tích  Mộ liệt sỹ tập thể Bắc Lý. Ngày 12/03/ 2015, thị trấn Củng Sơn long trọng tổ chức Lễ đón nhận Bằng xếp hạng di tích cấp tỉnh Mộ liệt sỹ tập thể Bắc Lý. Chúng tôi gặp cựu chiến binh Hàn Nghĩa bộc bạch: “Chiến tranh đi qua, nay tôi trở lại thăm các anh em. Những người may mắn sống sót như chúng hàng năm về giỗ các anh chén nước gọi là nghĩa tình đồng đội. Cũng là dịp tri ân, tưởng nhớ anh em”.

Mùa xuân năm 1971, những vùng căn cứ  địa cánh mạng ở miền Tây Phú Yên đã lần lượt giải phóng. Ban thường vụ Tỉnh ủy, Tỉnh Đội Phú Yên  đã chủ động xây dựng kế hoạch, chủ trương tổ chức tập trung lực lượng của tỉnh và huyện Sơn Hòa nhằm tấn công tiêu diệt quân địch, phát động quần chúng nổi dậy diệt ác, phá kèm, phá ấp chiến lược, giải phóng quận lị Củng Sơn mở rộng vùng giải phóng.

Tỉnh đội đã vạch rõ kế hoạch tác chiến, giao nhiệm vụ  cụ thể cho từng đơn vị là Đại đội đặc công 202 phối hợp với Tiểu đoàn 96 tập kích Đại đội biệt kích địch ở cao điểm Hòn Ngang, chốt lại đánh địch phản kích. Đại đội đặc công 25 phối hợp Đại đội 3 của Tiểu đoàn 13 tập kích quận lỵ Củng Sơn có nhiệm vụ tiêu diệt đại đội lính bảo an địch. Đại đội 2 của Tiểu đoàn 13 phối hợp đại đội bộ đội địa phương huyện Sơn Hòa tiêu diệt địch tại sân bay, ấp Bắc Lý chốt lại để tổ chức, phát động quần chúng nổi dậy xây dựng chính quyền cách mạng và đưa một bộ phận nhân dân về lại làng cũ.

Đại tá Lưu Công Thục, ( Nguyên Trưởng ban tuyên giáo Hội Cựu chiến binh tỉnh Phú Yên- Phó Trưởng Ban liên lạc tiểu đoàn BB 13, nguyên Tiểu đội trưởng , Trung đội 5, Đại đội 2, Tiểu đoàn bộ binh 13(at.b5.c2.d13) nhớ như in: “Nhận được mệnh lệnh của Ban chỉ huy Tỉnh đội từ hậu cứ  của đơn vị đóng ở Trại Cháy (Suối Đục, xã Sơn Xuân) Tiểu đoàn 13 hành quân theo hướng Tây Nam đến gộp Hòa Nguyên; tại Suối Phường Bà Tám (nay là thôn Nguyên Hà, xã Sơn Nguyên) thì tạm dừng, làm công tác tổ chức chuẩn bị chiến đấu. Chiều ngày 18/6/1971 đơn vị tiếp tục hành quân đến đường số 7 đoạn ngã  ba Ba Bản (nay là Suối Bạc) thì sẩm tối. Đến 19 giờ, Đại đội 2 do đồng chí Nguyễn Khắc Kế làm Đại đội trưởng, đồng chí Nguyễn Văn  Kiềm làm chính trị viên chỉ huy bí mật hành quân vượt qua Suối Bùn chiếm lĩnh trận địa tại ấp Bắc Lý. Khoảng 24 giờ cùng ngày, đơn vị đã hoàn thành mọi công tác chuẩn bị sẵn sàng chờ lệnh nổ súng”.

Rạng sáng ngày 19/6/1971, khoảng 4 giờ 00, Đại đội đặc công 202 và Đại đội 3 của Tiểu đoàn 96 bộ binh nổ súng tập kích vào Đại đội biệt kích của địch tại cứ điểm Hòn Ngang. Cùng thời điểm đó, đại đội 2 của tiểu đoàn bộ binh 13 và đại đội bộ đội địa phương huyện Sơn Hòa tấn công đánh chiếm ấp Bắc Lý, sân bay Củng Sơn, làm tiêu hao quân địch, số sống sót chạy về co cụm ở quận lỵ. Do nước lũ sông Ba quá lớn nên Đại đội đặc công 25 không qua sông được, nên không hợp đồng tác chiến được với Đại đội 3 của Tiểu đoàn BB 13 để tập kích địch ở quận lỵ Củng Sơn như kế hoạch. Trời sáng, địch tổ chức phản kích chiếm lại Hòn Ngang cùng với lực lượng ở quận lị  tổ chức phản kích ta trên trận địa Đông Hòa, Bắc Lý.”.

          Cuộc chiến vô cùng ác liệt, ta chiến đấu rất kiên cường trong điều kiện không có công sự, địa hình trống và thấp. Địch ngoan cố, oanh tạc từ các  phía, gây thương vong không ít cán bộ, chiến sỹ của ta. Đến 9 giờ sáng cùng ngày, địch dùng máy bay trực thăng chở quân từ Tuy Hòa lên tăng cường cho lực lượng tại chỗ tổ chức nhiều đợt phản công vào trận địa của ta ở ấp Bắc Lý. Nhưng đều bị c2, d13 bẻ gãy và tiêu diệt rất nhiều địch, giữ vững trận địa.

“Khoảng 19 giờ ngày 19/6/1971, ta rút khỏi trận địa, vì chiến bị bị thương nhiều nên không di chuyển thi thể  đồng đội theo được. Sáng  ngày 20/6/1971, địch gom thi thể cán bộ chiến sỹ ta đã thương vong chôn ở một hố bom lớn tại ấp Bắc Lý. Trong số thi hài những vị anh hùng liệt tử có nhiều đồng chí là người các tỉnh thành, miền xuôi, miền ngược, đồng bào dân tộc thiểu số, phụ nữ…. Dù chưa trọn vẹn như phương án, nhưng trận đó đã giúp ta kịp thời rút ra bài học kinh nghiệm để tiếp tục cho cuộc chiến nối tiếp đi đến thắng lợi hoàn toàn” -  Đại tá Lưu Công Thục bùi ngùi nói tiếp.

Tuy trận đánh không giành được thắng lợi trọn vẹn, nhiều cán bộ, chiến sỹ ta phải hy sinh. Song, khói lửa, trận địa của ngày 19/6/1971 luôn là hình ảnh đẹp trong kí ức của những cựu binh còn sống sót, trong những mốc của trang sử đỏ vẻ vang, chói lọi của lịch sử Đảng Bộ, Chính quyền và nhân dân địa phương.

          Cùng chúng tôi dự lễ giỗ các vị liệt sỹ, bà Nguyễn Thị Thanh Hương, Chủ tịch UBND Thị trấn Củng Sơn trao đổi: “Mộ liệt sỹ tập thể Bắc Lý là một “điểm son” có ý nghĩa to lớn trong công cuộc bảo vệ và xây dựng tổ quốc, trong giáo dục truyền thống cách mạng cho mọi thế hệ. Di tích Mộ liệt sỹ tập thể Bắc Lý là nơi tưởng niệm, suy tôn những người con yêu tổ quốc, từ mọi miền của đất nước đã xả thân trước bom đạn của kẻ thù. Hàng năm, vào ngày 18/6 Ban liên lạc tiểu đoàn BB1 cùng với địa phương tổ chức Lễ giỗ long trọng nhằm tưởng nhớ các anh hùng, chiến sỹ ấy”. 

Ông Nguyễn Thiện Tình, Trưởng phòng Văn hóa và Thông tin huyện Sơn Hòa bày toe lòng tri ân và tự hào: “Mộ liệt sỹ tập thể Bắc Lý là di tích lịch sử ghi đậm chiến công, tinh thần chiến đấu, hy sinh anh dũng của quân và dân ta vì mục tiêu hòa bình, độc lập, thống nhất Tổ quốc. Ngày nay, di tích không chỉ là niềm tự hào của Đảng bộ, quân và dân Sơn Hòa mà còn là địa chỉ đỏ để mọi người, đặc biệt là những người trẻ, về đây ôn lại truyền thống đấu tranh, cách mạng của cha anh đi trước. Qua đó, bồi dưỡng thêm niềm tin, tinh thần nỗ lực phấn đấu, lao động, học tập để cống hiến nhiều hơn nữa sức mình cho quê hương và Tổ quốc, xứng đáng với sự hy sinh cao cả của những người đã anh dũng nằm xuống nơi đây”.

Rời mảnh đất anh hùng Sơn Hòa, chúng tôi cứ mãi dõi về hướng Tây – nơi có nấm mồ chung Bắc Lý cho đến khi khuất dần xa.

(Bài được phát trên Đài PTTH huyện Sơn Hòa)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

TỦ SÁCH ÁNH SÁNG Ở LÀNG BỐC RẪY

 

 

Một ngày đông se lạnh, chúng tôi tìm về ngôi làng mà người ta quen gọi Bốc Rẫy, tên đúng đơn vị hành chính là thôn Bok Rei (thuộc xã Đăk Sơmei, huyện Đăk Đoa, tỉnh Gia Lai). Hơn một năm qua, người dân nơi đây cảm kích, vui mừng và hứng thú đến đọc sách ở Tủ sách mang tên Ánh Sáng do chị Võ Thị Mỹ Diệu tự nguyện lập ra phục vụ buôn làng miễn phí.

Được thành lập, mở cửa phục vụ bạn đọc từ ngày 9/12/2019 Tủ sách mang tên Ánh Sáng đã lan tỏa phong trào khơi dậy văn hóa đọc, thói quen đọc sách, tự học tập qua sách báo in trong thời đại công nghệ số đang lên ngôi.

Chị Võ Thị Mỹ Diệu (35 tuổi), một phụ nữ đơn thân chăm chỉ lao động, được bà con nơi đây quý mến. Đã nhiều năm nay, chứng kiến cảnh các em học sinh “khát sách”, lại thôi thúc chị mở tủ sách phục vụ miễn phí cộng đồng. Chị Diệu chia sẻ nỗi niềm, ước mơ làm việc tử tế này: “Tôi thấy địa phương ở xa trung tâm, các cháu đi học thiếu nguồn sách để đọc, điều kiện vui chơi giải trí hạn chế quá, nên tôi đã tìm mua sách dành cho thiếu nhi và vận động góp sách ba tháng nay. Nay đủ duyên mở cửa đón bạn đọc là điều tôi vui mừng”.

Thôn Bok Rei có 204 hộ, hơn 800 nhân khẩu, 90% là đồng bào Ba Na sinh sống. Đời sống người dân còn khó khăn, việc mua sách là xa xỉ, đọc sách là sự khát khao đối với bao người. Đến Bok Rei hôm nay rộn ràng tiếng cười vui, hớn hở. Người ra kẻ vào đọc tại chỗ, ký mượn về nhà đọc lúc nhàn rỗi.

 

Em Thuk học sinh Trường Tiểu học Đăk Sơmei vui mừng : “Em rất thích đọc sách mỗi ngày, nhưng không có nhiều sách để đọc. Nay nhờ cô Diệu mở tủ sách miễn phí, em đến đây mỗi ngày để giải trí và tự học”.

Khó khăn ban đầu là chị chưa có điều kiện mua được nhiều sách, mỗi tháng chị dành dụm mua 5 đến 7 cuốn, rồi vận động góp sách từ bạn bè, họ hàng. Chị Diệu chia sẻ ý tưởng nhân văn này được nhiều người quen và được sự  ủng hộ, giúp đỡ: chị Dương Thị Kháng (Đăk Lăk) tặng 212 cuốn sách mới về kỹ năng sống,kinh tế Chị Lê Thu Vân (Chợ phiên từ thiện) tặng 200 truyện tranh; chị Mai Thị Huy (Thư viện tư nhân Nắng Mai – Phú Yên) tặng 200 cuốn sách văn học, nông nghiệp, tiếng Anh, truyện đến cho chị. Việc làm động đến trái tim của nhiều thầy cô giáo, trong đó thầy Lê Hữu Nam ở tận Ninh Thuận cũng gửi sách tặng cho tủ sách thêm đa dạng, đáp ứng nhu cầu đọc của bà con, học sinh.

Giờ đây, gian nhà cấp 4 nhỏ của chị Diệu luôn đầy ắp những tiếng cười vui của trẻ và cả những nông dân chân lấm tay bùn. Hình ảnh mà chúng tôi bắt gặp là những chị em buôn làng dịu con trong chăn thổ cẩm cũng chen vào chọn sách để đọc, những cụ già ngồi say sưa bên bàn trà và đọc không mỏi, ....khiến chúng tôi ngỡ ngàng.

Chúng tôi trở lại sau gần 1 năm Tủ sách Ánh Sáng mở cửa, nhìn các em học sinh người Ba Na thổ lộ niềm vui rạng rỡ trên môi mắt, chúng tôi càng thấy giá trị mà chị Diệu đã mang lại nơi đây. Thuận lợi của Tủ sách Ánh Sáng là nhà chị gần phân trường của Trường Tiểu học Đak Sơ Mei, gần Nhà Rông sinh hoạt cộng đồng thôn, không gian nhà chị trang trí đẹp mắt và thoáng mát, rộng rãi, chị có bán quán nhỏ … nên thuận lợi cho việc sinh hoạt, chuyện trò, tạo phong trào đọc sách ở một miền quê xa lơ xa lắc như Bok Rei.

Ông Buk, Bí thư Chi bộ thôn Bok Rei: “Chị Võ Thị Mỹ Diệu là một công dân tích cực, sống giàu nghĩa tình làng bản, xử sự có văn hóa, lành mạnh. Chị tự nguyện góp từng cuốn sách hay để tạo một không gian giải trí, tìm kiếm tri thức giữa chốn non sâu như này thật đáng quý và khen ngợi. Chúng tôi biểu dương tinh thần vì cộng đồng của chị. Hành động này góp phần nâng cao dân trí, xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, làng bản Bok Rei hôm nay và ngày mai”.

(Báo Đại Đoàn kết đăng 19/11/2020)

 

 

 

 

TẬP TRUYỆN KÝ KỲ THỦ XI CÀ QUE

 

KÝ ỨC MÙA XUÂN NƠI “CỔNG TRỜI”

 

Chuyến thực tập vùng Tây Nguyên đã hoàn thành khi mùa Xuân đang về, tôi rời phố núi Pleiku, tìm về ký ức tuổi thơ đã cất dấu hơn hai mươi năm. Đèo Mang Yang - nơi được mệnh danh là “Cổng trời” theo ngữ nghĩa người Gia Rai cũng như các “phượt thủ”…

Trong ký ức tuổi thơ tôi là những ngày rong ruổi chăn bò, hái măng, gánh củi, bẻ đót. Những triền đồi cỏ thoai thoải, xanh mướt và nhấp nhô gợn sóng bởi gió ngàn. Len trong hoa, cỏ và đá, sỏi là những cội rễ cây khô nhô lên. Qua không biết bao nhiêu mùa bằng lăng tím nở, những cội khô nằm trơ trọi dưới tác động của mưa, nắng. Gió làm cỏ va chạm, mài mòn, cọ giũa thành những tác phẩm nghệ thuật gỗ lũa độc đáo giữa thảo nguyên xanh mà không hề có bàn tay nào của con người tạc tạo.

Tuổi thơ của chúng tôi những thập niên tám mươi không Game chat như bây giờ, quà bánh cũng không nhiều. Những buổi chăn bò trên đồi cao, chúng tôi hái quả rừng chín mọng ăn chơi như chà là, dâu đất, táo rừng, cò ke,… và chơi trò đánh dụ quay, trốn tìm, đá gà bằng cỏ…

Giữa không gian xanh bao la như bất tận, chẳng thấy chân trời, những làn mây như muốn sà xuống đỉnh đèo. Tôi đi trong màn mây mù đặc bồng bềnh giăng lối tựa hồ như đang lạc chốn thiên cung. Từ lòng đất mẹ, hơi nước sau những trận mưa mà người địa phương quen gọi là khói đá. Chiều Xuân, những đàn én liệng nhào, những con ong cần mẫn tìm mật, tôi hồn nhiên giữa thảo nguyên xanh.

Tôi bâng khuâng đưa tay hứng những hạt mưa Xuân buôn buốt miền thực tại. Tôi nép mình bên những tảng đá sừng sững mà ngày xưa “lũ chăn bò” chúng tôi trèo lên hóng gió, dõi mắt tìm bò lạc. Những tảng đá, người ta bảo đó là đá sống. Nó có thể lớn và thay đổi hình dạng vẹn nguyên hoặc nứt đôi. Sau hai mươi năm trở lại, “Cụ Đá” đã cao lớn như mái nhà.

Lần giở nhật ký và quay ngược dòng quá khứ, từ tuổi lên mười đến tuổi mười lăm tôi gắn bó với rừng, với những con suối. Hồi ấy, lũ trẻ trong làng “phong” cho tôi là “Nguyên soái” của “tổng đoàn quân” là đàn bò của cả làng. Ngoài giờ học hay cuối tuần, tôi giúp ba mẹ lùa đàn bò của nhà mình với hai mươi chín con lên núi Ông Ri thả rông. Đây là dải núi liên hoàn với Đèo Mang Yang cách xa dân có đến gần 10km nên chỉ có rừng và đồng cỏ tranh, cỏ lông chồn, cỏ tự nhiên… Tôi vốn là đứa trẻ chịu khó và chăm chỉ nên được các bác lão nông và lũ trẻ lùa đàn, nhập đàn tháp tùng, thành ra tổng đàn bò lên đến cả trăm con.

Vào những ngày giáp Tết, tôi trông hộ đàn bò để cho các bác trong làng về đi tảo mộ, đi tất niên, lau chùi đèn đồng, đi lặt lá mai, đi sắm mâm cỗ… Tôi đảm nhận công việc điều hướng cho đàn bò gặm cỏ ở thung lũng bằng những hiệu lệnh quen thuộc như: “Dí” (đánh qua trái), “thá” (đánh qua phải) hoặc “đi”, “thẳng”, “nhanh”, “dốc”... Bọn chúng nghe được tiếng tôi la, hét hay vểnh vểnh tai, chạy cong đuôi. Và khi cả đàn ăn yên ả, tôi vuốt ve mỗm, tráng còn phập phồng hoa trinh nữ của những chú bê non nghịch ngợm.

Tôi nhớ những buổi chiều tà, tôi “ọ” và “bê, bê” chúng lại để báo hiệu tụ đàn lại. Dứt tín hiệu, tôi leo lên tảng đá đếm một lượt rồi xuống núi. Vậy đó, hồi ấy rừng còn nhiều, đất đồi mênh mông, những thảm cỏ bao la như dải lụa siêu to khổng lồ dù cả hàng trăm con bò của cả xã H’Ra cũng không gặm hết.

Tết nào cũng vậy, làng tôi lại lùa đàn bò lên đèo thả rông, cho chúng ăn Tết ở “Cổng trời”. Chúng khôn lắm, tranh thủ gặm lúc nắng hanh và tìm vách đá, tán cây trú ẩn khi có những cơn mưa nặng hạt. Có những năm, những con bò mẹ sinh con trên đồi cỏ. Tháng Giêng, chúng tôi lên thăm đàn đã thấy những chú bê non mũm mĩm nô đùa, mớm sữa trong nắng Xuân mai. Sức sống ở “Cổng trời” những mùa Xuân xưa là vậy.

(Báo Dân tộc và Phát triển đăng 12/02/2021, mùng Một Tết)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

CANH BỒI Ở MIỀN QUÊ “HOA VÀNG CỎ XANH”

 

 

Đến với người Ba Na ở Sơn Hòa (Phú Yên) thưởng thức đặc sản “canh Bồi gạo trắng, lá xanh” với nét văn hóa ẩm thực mang đậm truyền thống, thơm ngon, bổ dưỡng đến nức lòng thực khách.

          Canh Bồi là một món ăn có thể được gọi là cháo đặc, có thể là canh. Ít ai biết rằng, món ăn này tuy đạm bạc lại giàu chất dinh dưỡng của người miền cao. Đơn giản chỉ từng mớ rau, hạt gạo qua đôi bàn tay khéo léo của người Ba Na ở Sơn Hòa nói riêng, trong đời sống cộng đồng của các dân tộc anh em Nam Trường Sơn- Tây Nguyên nói chung đều mang nét đẹp đặc trưng riêng mình. Văn hóa ẩm thực là yếu tố phát triển du lịch. Canh Bồi có thể thương hiệu hóa thành thực phẩm sạch, sản phẩm xanh phục vụ du lịch sinh thái cộng đồng.

Hầu hết những “đầu bếp miền sơn cước” đều dùng  các nguyên liệu sẵn có trong tự nhiên với cuộc sống hàng ngày để làm. Nguyên liệu chủ đạo là lá xanh, một thứ lá dạng dây leo trên rừng. Tiếp đến là việc đi tìm, góp rau xanh mọc quanh vườn tạp, rau vườn trồng và không thể thiếu rau rừng… Trong các công đoạn chế biến, công phu nhất là khâu hái, góp rau, phải có ít nhất 32 loại rau, quả, củ xanh như: Bầu, bí non, mướp non, bông bí, củ cây đủng đỉnh, lá non cây thiên tuế, rau nút áo lấy cả thân và lá non, cà nút non, lá xanh, bồ ngót, bắp còi, đọt ớt, ớt non, ngó môn, cây môn, ốc đá, tôm suối, ... có thể gia  thêm ít lá sắn non giã nhỏ.

Bà Mó Beo (thôn Tân Hòa, xã Sơn Phước, huyện Sơn Hòa) vừa giã gạo với lá xanh vừa bật mí bí quyết làm một bát canh Bồi dẻo, thơm, ngon đúng “chất” sơn cước. “Để mà nấu được nồi canh Bồi ngọt, ngon chúng tôi phải đi hàng cây số tìm góp rau. Bột gạo được ngâm trước cho mềm rồi giã nhuyễn. Mà gạo rẫy vẫn là ngon nhất. Tôi học theo bà, theo mẹ tôi từ khi tôi còn chỉ mới biết mang gùi xuống bến lấy nước, khi tụi con trai làng chưa biết khen tôi. Món ăn này nuôi cả nhà tôi, cả người làng này đều ăn những năm gian khó, giờ thành đặc sản”-Bà Mó  Beo bộc bạch.

Canh Bồi ngon nhất là canh có màu xanh tự nhiên. Những người sành ăn, nếm qua là biết tay nghề nấu “non” hay “già”. Người nấu có kinh nghiệm mới biết dùng lá bồ ngót giã, lược lấy nước để tăng độ ngọt. Lá xanh thì giã và dùng cả nước và xác lá. Khi nước đun lên gần 100 độ C mới cho các loại rau vào. Trình tự làm món ăn này là: Đun nước bồ ngót sôi, sau đó bỏ lá sắn đã giã sẵn vào nấu cho đến khi chín dần thì cho các nguyên liệu vào như: ốc suối, trứng kiến vàng, bí đỏ, cà nút, mít non, măng rừng, mướp,..Các nguyên liệu sắp chín sẽ đỗ gạo giã với lá xanh được khuấy đánh nhuyễn. Tiếp tục để lửa nhỏ cho nồi canh chín, sau đó bỏ các gia vị khác như: Lá é, muối hạt, ớt non vào.

Canh Bồi hội tụ tinh hoa, dưỡng chất của đất trời. Qua bàn tay thuần thục của người nấu, không đơn thuần là ăn để sống, để no. Trong đời sống của đồng bào miền núi còn khó khăn, đơn cử là xã Sơn Phước, món ăn này giúp bà con cải thiện bữa ăn nghèo chất dinh dưỡng trở nên dồi dào, tiết kiệm chi phí.

Nếu như đặt giả thiết đề xuất đưa sản phẩm canh Bồi vào danh sách thực đơn tại các nhà hàng, dịch vụ phục vụ du lịch thì với đặc tính, công dụng, hàm lượng dinh dưỡng của nó, có thể là món ưa thích.

(Báo Sức khỏe và Đời sống đăng 28-06-2020)

 

 

 

 

                                                   VỎ LON BIA     

 

 

Mặt trời đã lặn. Quán xá giờ đã lên đèn. Nó cúi nhặt những chiếc vỏ lon bia còn đọng bọt và chút nước bia thơm ngậy mùi mạch nha. Đây không phải lần đầu nó đi nhặt lon ở chỗ đông người. Thường quán xá, chủ quán không cho người ngoài vào nhặt. Nó được đặc cách, ông chủ quán gọi nó tới đếm lon.

Loay hoay nhặt lon, nó không quan tâm trên bàn nhậu ồn ã, lời ra tiếng vào rôm rả. Bất chợt có ai đó nói vang lên, làm cả bàn nhậu im lặng, hướng về nó:

-         Ê, thằng Mạch Nha, ủa sao nay đi lượm lon? Thanh niên trai tráng, thiếu gì nghề làm, mà đi làm nghề lấm láp, hôi bẩn vậy?

Nó chưa kịp trả lời người quen thì có người nói xen vào:

-         Không nên nói vậy. Bạn già ơi, nghề nào cũng chân chính cả, người ta lao động chân chính để mưu sinh mà.

-         Tôi biết cậu này, là một thanh niên chịu khó, ham học nên làm nghề ve chai để nuôi gia đình và đi học bổ túc văn hóa đó. – Chị Tư nói đỡ.

-         Thôi mời em uống với anh chị ly bia, em à! – Một người có vẻ đĩnh đạc hơn cả trong nhóm vỗ vai Mạch Nha ân cần, ái mến.

-         Dạ, em cảm ơn anh chị có lời ạ! Tại em tay chân lấm quá, lại vội về cân hàng kẻo tiệm phế liệu họ đóng cửa ạ.

Nó chào rồi lủi thủi ra về, chiếc xe máy cũ cứ lốc cốc, lét két âm thanh của các phụ tùng đã cũ, bệ rạt lẫn tiếng lon, chai, phế liệu theo suốt nó cả quãng đường, trong đêm tối mịt mờ.

Hôm nay, một ngày mà nó thật sự vui buồn lẫn lộn. Ngày mà nó được xướng danh trên bụt với cái danh hiệu “ nhà sáng chế chân đất”. Vả là, sau bao ngày tháng rong ruổi trên những con đường đầy rác mía, phế thải sinh hoạt, phế phẩm nông nghiệp rơi vãi, gây ô nhiễm môi trường cảnh quan thôn xóm. Lại là nó, nó lại đi làm việc bao đồng. Sau mỗi giờ đi thu mua ve chai, nó lại đi cào rác, đi nhặt lon, nhặt bao thuốc lá, chai lọ. Trước là phân loại bán, sau là dọn bớt cho làng xóm sạch đẹp. Cứ vậy, sớm đến tối, mặt mũi nó lem luốt.

Những ngày mưa, bão không đi thu gom được, nó lấy phế liệu ra mày mò phân loại. Chợt nghĩ đến việc nhà không có tiền sắm bếp ga, dùng củi thì khói. Nó lấy vỏ lon bia là làm thí nghiệm chiếc bếp mi ni. Dùng nguyên liệu từ rác mía, dăm bào, trấu để đun. Thấy hiệu quả, nó tận dụng tonle, thiếc để chế cái bếp to hơn, dùng nguyên lý quạt khò, đưa không khí vào, đốt nguyên liệu triệt để, không khói.

Ngày mai, được nhận Giải Ba Hội thi Sáng tạo kỹ thuật cấp tỉnh. Nó không mừng vì giải, nó vui vì làm được điều ấp ủ, có ích cho cộng đồng. Tiền giải thưởng, nó sẽ mua quà tặng người già….

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

TẬP TRUYỆN KÝ KỲ THỦ XI CÀ QUE

 

BÁ NHA

Tên thật: Nguyễn Bá Nha

Quê quán: thôn Định Thiện Tây, Phước Quang, Tuy Phước, Bình Định

Cử nhân Việt Nam học

Từng công tác truyền thông tại Trường Đại học Thái Bình Dương.

Chủ tịch HĐQT – Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Truyền thông Đam Books (Đam Books Media JSC)

Có nhiều tác phẩm phóng sự, ký sự, tin tức được đăng các báo, tạp chí.

Sách in riêng: Gương sáng đời thường (NXB Lao động, 2020)

Chủ biên nhiều tác phẩm: Khát vọng tập 1, Tình mẹ (NXB Lao động, 2021); Khát vọng xanh, 99 bài thơ tình miền hạ, Tình cha, 222 bài thơ tình…(NXB Hội Nhà văn, 2021)

Đồng tác giả các tác phẩm: Tình người đất Phú, Miền yêu thương, Hoa nở ba miền…(NXB Hội Nhà văn, 2021)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

SÀN BÁNH HỎI CỦA MÁ

 

 

Truyện ngắn

 

Bác xà ích ghì dây cương, ra hiệu cho con ngựa tía dừng hẳn rồi bảo tôi xuống xe. Tôi gửi tiền, chào bác rồi thong thả bước vào làng. Gần năm năm đi biền biệt, nay tôi trở về thăm quê trong dạ bồi hồi. Làng Nước Mặn vẫn yên bình, hoài cổ bên sông Cầu Ngói tồn tại hơn bốn trăm năm. Tôi nhớ ba má và em gái nhỏ. Bất chợt, thoảng trong hương gió nhẹ ngai ngái mùi rạ mới, tiếng rít từ lũy tre bên đồng Cây Giới. Giọng ai đó ru con dìu dặt: “Ầu ơ… mấy đời bánh đúc có xương, mấy đời dì ghẻ… hờ hơ ơ… mấy đời dì ghẻ mà thương con… hờ ơ ờ… chồng”.

Tiếng ru như làm não lòng, bàng hoàng kẻ cố hương. Tôi không dám trách ai đó đang ru những lời buồn, nhưng tôi cảm thấy không vui, dẫu biết những lời ru góp nhặt của ông bà xưa là đúc kết từ hơi thở cuộc sống bao đời. Tôi nghĩ trên đời này vẫn còn có những tấm lòng bao dung, nhân hậu của những người kế mẫu. Tôi mong những âm vọng ấy đừng lọt tai má tôi. Tôi không muốn má chạnh lòng, vì má tôi là người phụ nữ “thương con chồng”.

Tôi lớn lên trong lời ru êm ả của bà, những giọt sữa ngọt lành của cô dì, bà con lối xóm. Má Mười của tôi sinh ra tôi và cũng giã từ cuộc đời ở tuổi đôi mươi. Tôi không biết mặt má. Hồi não đến giờ, tôi cứ mong gặp má dù chỉ một lần trong mơ. Trong cuộc đời của đứa trẻ 75 ngày tuổi đã mồ côi mẹ, có may mắn được kế mẫu yêu thương, chăm sóc, nuôi dưỡng như con ruột thì quả là điều hạnh phúc, phép màu diệu kỳ của cuộc nhân sinh.

Tôi có hai má. Má Mười sinh ra tôi mà không dưỡng được vì đoản mệnh. Má Hà xuất hiện trong cuộc đời tôi như một sự hiện thân của vị cứu tinh. Từ lâu, tôi cứ ngỡ là chiêm bao hay tôi đang sống trong một huyền thoại tình mẹ, một thước phim truyện, một tập tiểu thuyết được dựng lên bởi một nhà văn nào đó khéo tưởng tượng. Bởi má tôi đã sống một cách sống giản dị, nhân hậu hiếm thấy. Với tôi, má Hà là Bồ tát hiện thân.

75 ngày chào đời, tôi non nớt, yếu ớt, hình hài bé tí chỉ 2,5 kg. Tôi khóc vì khát sữa và bắt đầu cuộc lay lất của bệnh tật, đói khát. Cô ruột tôi kể, tôi toàn bú ké, bú dạo từ đầu làng đến cuối xóm. Khi thì bú vú cô Dư (chị ruột ba tôi), khi thì bú vú mấy cô gần nhà, có cả bầu sữa mẹ sinh con “so”, cả bầu sữa thiếu phụ đã dăm bảy lửa. Khi thì bú vú da bà nội, rồi cô Út tôi. Và trời Phật thương tình đã ban cho tôi một người mẹ thứ hai trong cuộc đời, mà mãi đến bây giờ tôi chưa bao giờ biết xếp vần phát âm hai từ “dì ghẻ”. Tôi nghe kể đó là năm tôi lên ba.

Có lẽ, duyên hay nợ từ kiếp nào xa xưa mà má tôi - người con gái lớn lên đi lấy người chồng đã một đời vợ. Má dám chấp nhận đối mặt với lời cay nghiệt của thói đời, dèm pha của bạn bè cùng lớp, sự sỉ vả của họ hàng nhà ngoại. Má Hà và ba tôi đến với nhau cả hai đều tay trắng. Má tôi biết ba tôi nghèo. Ba tôi dắt vợ con lên núi lập nghiệp, ở nhờ nhà người dưng.

Ba má tôi lam lũ, làm lụng để tạo dựng mái ấm riêng mình bằng chính sức lao động, sự đồng cam cộng khổ. Má dành tình yêu thương đứa con bé bỏng, bệnh tật bằng cả tấm lòng của một người mẹ. Khi biết tập nói bi bô, tôi đã gọi: “Má, má!”. Chín năm má tôi mới có em bé, em gái tôi tên Út Nhi. Má yêu thương hai anh em như chính hai giọt máu của mình. Đi chợ mua quà gì cũng hai anh em đồng đều. Tôi thì thương em, hay nhường em.

Từ khi ba má lo bề gia thất cho tôi, tôi lại xin phép ba má để đi lập nghiệp ở vùng đất mới. Thế rồi, người nhà họ bên nội tôi cứ cay nghiệt cho rằng má tôi không thương tôi nên tôi ra đi. Năm tháng qua đi, má vẫn thầm lặng, không giải thích, không đôi co. Má vẫn lặng lẽ và trăn trở, gửi từng bao gạo cho tôi. Má bảo: “Nếu có cơ hội, con hãy gắng con nhé!”

Sau bao năm xa nhà, tôi chạy theo cuộc mưu sinh dài hơi. Vừa đến cửa nhà, tôi gọi: “Má, má ơi, con về rồi!”. Ngôi nhà được xây mới và khang trang hơn ngôi nhà tranh mà tôi từng sống thời thơ ấu. Tôi nhìn quanh không thấy má, tôi vào nhà và đi tìm. Tôi lên gác. Má tôi đang lau chùi bàn thờ ông bà và cả bàn thờ của má Mười tôi. Thấy thoáng bóng tôi từ cầu thang, má vui mừng nói to:

- Thằng Hai về hả con? Con đi đâu mà năm năm trời biền biệt vậy?

- Dạ, má ơi con về. Ba và em Út Nhi đâu rồi má?

- Ba con đi làm thợ nề ở Sài Gòn rồi con. Em Út Nhi nó làm công ty may ở Quy Nhơn. Mà con về một mình na? Sao con không dắt vợ con về chơi?

- Dạ, nay các cháu đang học và vợ con làm bận bịu làm rẫy nên không về được ạ.

- Vô rửa mặt đi con, rồi má lấy bánh hỏi, nhúng bánh tráng con ăn nhen.

- Dạ.

Má tôi đã già đi theo năm tháng. Tóc má đã ngã màu muối tiêu. Má ăn chay trường nhiều năm nay. Má phát tâm ăn chay, cầu nguyện cho con cháu được mạnh khỏe. Nói rồi má dọn bánh cho tôi ăn. Lâu lắm rồi tôi mới ăn bánh hỏi má làm. Ngon đến vô cùng!

Ăn miếng bánh hỏi của má vừa hấp nóng hổi, vừa được gỡ từ sàn tre làm tôi nhớ như in ngày cũ. Hồi nhỏ, tôi thường giúp má tách lựa và rửa lá hẹ. Có khi chợ không có bán lá hẹ, má phải dùng lá hành và phải lấy kim tước ra, cay ứa nước mắt. Và cứ mỗi đêm như thế, má ngồi bên ngọn đèn dầu hột vịt tước lá hành, lá hẹ để kịp sớm mai bán chợ.

Nghề làm bánh hỏi khá công phu, má tôi phải vất vả lắm mới học được. Má đã theo nghề suốt để mưu sinh, nuôi cả gia đình. Ba tôi hồi ấy làm rẫy, đến mùa mới có thu hoạch. Một mình má lo toan cơm áo gạo tiền, ơn qua nghĩa lại ở xóm làng đều từ sàn bánh hỏi của má.

Má phải ngâm gạo từ lúc gà gáy, mà phải là gạo hạt tròn, lúa nhà quê, gạo cũ mới làm được. Vì gạo hạt dài dẻo, lúa mới làm bột ép ra khuôn rất khó, sợi bánh bị nghẹt khuôn và không suông sợi bánh hỏi. Ngoài khâu chọn gạo, má tôi còn phải chọn loại dầu, phải là dầu tốt, không bị đông vào mùa mưa. Đó là kinh nghiệm mà tôi học lóm được lúc theo phụ má làm bánh.

Tiếp đến, má tôi ngâm gạo, vớt gạo rồi chở đi đến dịch vụ xay bột bằng xe đạp đến bảy cây số. Sau này, ba tôi thấy má cực nên về quê tìm mua cho bằng được bộ cối đá. Rồi cái cối đá đã giúp má chủ động hơn để xay bột bằng tay. Buổi trưa tan chợ, má nấu cơm xong là lại xay bột. Hình ảnh của má tôi tảo tần với dáng đứng xay bột trong tiếng kẽo kẹt luôn là hỉnh ảnh đẹp trong lòng đứa con xa quê. Tôi càng nhớ từng dụng cụ làm nghề của má: sàn tre, lò và nồi hấp bánh, thúng bánh, tàu lá chuối má tước ra và buộc lại thành cây quét dầu hành cho khách…

Tôi đang hoài niệm những ngày thơ ấu thì bỗng có

tiếng cô hàng xóm vang lên từ cửa:

- Chị Hà ơi, còn bánh hỏi không? Chị cân cho tui ba ký. Nhà hôm nay có khách. Bánh chị ngon, về ăn cháo lòng heo là nhất hạng.

Má tôi đang chưng hoa quả lên bàn thờ ông bà và bàn thờ má Mười. Má đáp vọng:

- Còn bánh chị ơi, mà còn đúng ba ký luôn chị ạ!

Cô hàng xóm thấy tôi về nên hỏi thăm:

- Ủa thằng Hai về hồi nào cháu?

- Dạ, cháu vừa về cô Năm. Cô chú khỏe chứ ạ?

- Khỏe cả con. Mày đi đâu biệt tích biệt tăm vậy? Sao bỏ nhà bỏ quê đi ở quê vợ?

- Chuyện dài cô Năm ạ! Con đi học lấy cái chữ cô ạ.

- Học gì nữa bay? Nay học chi cho lắm, thằng cháu cô nó có học hành gì đâu, nó mần hồ tháng cũng mười mấy triệu. Sao cháu không theo nghề này, kiếm nhiều tiền về nuôi dì mày?

Tôi chưa kịp trả lời cô Năm, má tôi nói dặm vào:

- À, cháu nó học đại học đó chị. Tội nghiệp, lúc trước lập nghiệp ở Tây Nguyên nhà khó khăn quá nên cháu nghỉ học sớm, đi làm nông. Giờ cháu cố gắng học lại cũng tốt.

- Thiệt không đó, sao đi học trong mát mà đen thui như “nậu” làm rừng làm rẫy vậy? - Cô Năm Lẻo nhìn tôi soi mói.

- Hay mày ghét bà dì ghẻ mà bỏ nhà đi?

- Dạ, dì nào ạ? Con chỉ có má, má con chứ bộ!

Tôi rất bực mấy câu hỏi soi xỉa của cô Năm. Cô Năm Lẻo nổi tiếng là buôn dưa lê ở cái làng Nước Mặn này. Chuyện nhà người chưa tỏ mà cô Năm Lẻo đã tường từng li từng tí. Biết má thương tôi, mà cô vẫn “đàn đệm” vài câu cho nhà tôi mất vui. Má tôi nháy mắt ra hiệu như là mặc kệ cô Năm. Tôi bâng quơ và chuyển sang chuyện khác. Mắt má đỏ và đượm buồn.

Cô Năm mua bánh đã về, má tôi lại tiếp tục lau bàn thờ má Mười. Hình như bàn thờ má Mười luôn được một bàn tay cần mẫn, chăm chỉ, đều đặn mỗi ngày của má Hà lau sạch đến bóng cả thanh đèn đồng, lư gỗ. Trên bàn thờ, má đã đơm hoa quả, má thắp nhang vái lâm râm: “Chị Mười sống khôn thác thiêng, độ trì cho thằng Hai. Con mình nó đã đỗ đạt. Hôm nay, ngày rằm tháng Bảy, em có chút lòng thành tưởng nhớ chị! Con nó cũng đã trở về, nó thăm chị thăm em! Nam mô A Di Đà Phật!”.

Bữa cơm chay đạm bạc rau quả chỉ có hai má con. Vẫn không thể thiếu món bánh hỏi còn nóng hơi ấm như tình mẹ. Tôi ăn hết sàn bánh vừa ra lò đầu tiên của buổi chiều. Tôi mong gặp ba và Út Nhi, mà chắc Tết mới đoàn tụ được. Đã năm mùa lúa trổ đòng, tôi xa làng quê. Tôi nhớ những buổi chăn bò bên gò Ông Bảy, gò Chùa Bà… những kỷ niệm xưa cứ ùa về. Tôi ước mình trẻ lại, để phụ giúp má ép bánh hỏi, vớt bánh, tước lá hành…

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

TIẾNG VỌNG LẠC CẦM

Bút ký

 

Chẳng hiểu sao từ hôm tôi đọc được cuốn sách kể về cây đàn của một “cố văn chương, nhạc sỹ, nhà giáo” chợt thôi thúc tôi đi tìm những điều tưởng chừng như quên lãng, ngủ yên. Tôi đi dọc miền duyên hải, từ “Xứ sở hoa vàng trên cỏ xanh” đến “Xứ trầm hương” để tìm về tiếng vọng Lạc Cầm - cây đàn mang hình Chim Lạc trên Trống đồng Ngọc Lũ, nhạc cụ được mệnh danh là “Công trình bác học”* mang hơi thở cội nguồn dân tộc của Cố nhà giáo, nhạc sỹ Mác Tuyên (1937 – 2015).

Đây cũng là nhạc cụ độc đáo, đa năng có một không hai. Một nhạc khí đa âm giai, âm sắc, đa thanh, đa điệu, có thể độc tấu, hòa tấu và trình diễn  được nhiều thể loại vừa truyền thống vừa hiện đại mà cũng không kém phần sinh động, đặc sắc. 50 năm chế tác 16 thế hệ Lạc Cầm, tác giả hiến tặng Bảo tàng Cách Mạng Việt Nam (nay là Bảo tàng lịch sử Việt Nam) 03 cây đàn tâm đắc nhất, và chưa kịp dâng tặng Lạc Cầm cuối cùng cho quê hương thì đã ông đã thành “người thiên cổ”...

Cố Nhà giáo, nhạc sỹ Mác Tuyên, người con Phú Yên; trưởng thành dưới mái trường Xã hội chủ nghĩa. Hơn 40 năm nhiệt thành với thiên chức ông giáo sử, cháy đam mê nghiên cứu “Âm học” chảy qua hai thế kỷ. Ngỡ đã lãng quên trong hơn một thập niên qua. Song, dưới góc nhìn giới chuyên gia và hậu thế hiện vật Lạc Cầm là di sản văn hóa vật thể, còn âm sắc, thanh điệu là giá trị nghệ thuật vẫn nguyên giá trị và mãi trường tồn với thời gian.

Mặc dù là thế hệ sinh sau đẻ muộn, tôi mãi đi tìm, nghe cho bằng được âm vọng của Lạc Cầm. Tôi đã dò hỏi, hai lần tìm đếm căn nhà số 09, đường Lạc Long Quân ( Nha Trang, Khánh Hòa). Căn nhà thứ hai ở phố biển này vợ chồng ông mua lại của người bạn, sau Giải phóng trong sự ngẫu nhiên, phù hợp tâm niệm, ước ao của ông từ lâu.  Mỗi ngày đi dạy nhìn con đường mang tên Lạc Long Quân, con số 09 đẹp, ông hằng ước ao được ngôi nhà như vậy. Hay tin bạn của vợ cần chuyển nhượng, ông bán căn nhà ở số 22 , Chi Lăng góp nhặt mua cho bằng được. Cũng từ đó, con đường “Lạc Long Quân”, ngôi nhà “số 09”, với cây đàn Chim Lạc, ông sống an lạc, say sưa soạn giáo án sử, viết nhạc, chế đàn Lạc. Cũng ngôi nhà ấy là nơi sau này chứng kiến ông tiêp đón những vị khách quý, lãnh đạo Đảng, Nhà nước: Ông Vũ Mão,  Bà Nguyễn Thị Bình (Nguyên Phó Chủ tịch nước), …Các chuyên gia, nhà khoa học, Nghệ sỹ : GS. TS Hoàng Chương, GS. TS Trần Văn Khê,  NS Lưu Hưu Phước, …..Bằng hữu quê hương Phú Yên, bạn vong niên: Th.S Phan Thanh Bình, Phan Đình Phùng, Trần Hữu Thế,

Gia đình đã cho hộ kinh doanh thuê bán cà phê Quỳnh, người nhà đã chuyển đến 50 Lê Thành Phương: quán sinh tố Thiên Nhiên. Tiếp chúng tôi với sự bất ngờ và xúc động, bà Lương Thị Bích Thìn ( 79 tuổi)  phu nhân ông Mác Tuyên rất minh mẫn bộc bạch: “ Bà cử tưởng mọi người đã lãng quên Lạc Cầm, tên Ông Mác Tuyên ít ai còn nhớ. Nay có người trẻ như cháu còn nghĩ đến, tìm về Lạc Cầm, tìm gia đình thầy, nhưng thầy đã đi xa lâu rồi. Bà mong những thế hệ sau, nhất là người đam mê và theo nghiệp âm nhạc nhớ về cội nguồn, trân trọng âm nhạc nói chung, những nhạc cụ như Lạc Cầm nói riêng. Cháu muốn nghe trọn bài thì khó rồi, vì đã thất lạc băng đĩa. Không biết ở ngoài Học viện âm nhạc Hà Nội họ còn lưu không. Những năm cuối đời ông nhà cũng có ý tặng cho Bảo tàng Phú Yên để lưu niệm và nhân dân cùng bè bạn năm cau chiêm ngưỡng, nhưng không kịp.” Bà cụ ngồi vào gảy một đoạn cho chúng tôi nghe, bà không thuộc nhiều, cũng am tường nhạc lý. Mặc dù đã khá lâu không ai sử dụng, nhưng tiếng đàn vút lên, âm thanh, điệu Lạc Cầm trong trẻo và thanh tao, mang âm hưởng nhạc khí dân tộc. Bà nhiệt thành kể chuyện đời nhạc, đời người và ký tặng toàn bộ sách ông viết, hình ảnh gốc về sự nghiệp giáo dục và âm nhạc của ông.

 Tuổi thơ ông ở vùng Gành Đỏ, Sông Cầu là buổi đồi nhô, đảo hoang, hay  biển giã lênh đênh với anh trai và thân phụ. Ở 13 tuổi ông đã tham gia giao liên lạc, theo gót đàn anh hoạt động cách mạng chống Pháp và có lần vào lao tù của thực dân. Cũng ít ai biết vì sao danh xưng “Mác Tuyên” lại mang đậm chất tuyên giáo, tính triết học đến vậy mà vẫn mang tâm hồn luôn mượt mà, qua văn chương và nhạc lý. Đó cũng là giai thoại đã hun đúc, tôi luyện nên một con người tài hoa Phú – Khánh.

Năm 1954, thanh niên Trần Quang Mát rời quê hương đi tập kết ra Bắc, được tổ chức phân công  công tác ở Vụ Lễ Tân, Bộ Ngoại Giao năm 1955 đến năm 1958. Đây là quãng thời gian đáng nhớ nhất trong cuộc đời mà ông đã ghi chép cẩn thận. Năm 1955, trong lúc  trực nghe điện thoại, ông bắt máy nghe cuộc gọi của  Bác Hồ gọi đến cơ quan, được Bác hỏi thăm ân cần về tên, tuổi, quê hương, gia đình… Tết năm 1956, Bác Hồ đến Bộ Ngoại giao thăm cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc. Anh được giao nhiệm vụ mời nước Bác, xúc động, vui mừng nên anh trịnh trọng nhưng lại run và làm rơi nắp ca tráng men,lúc bấy giờ, ông Nguyễn Duy Kỳ, bảo vệ Bác rất lo lắng lao tới, Bác ngăn và nói cảm thông: “Các đồng chí ngồi xuống, không có gì cả,cháu xúc động nên nắp ca rơi…”. Năm 1957, vào một dịp Bác sắp đi thăm 12 nước xã hội chủ nghĩa, nên đến thăm Bộ Ngoại giao chuẩn bị quà lưu niệm đến đâu. Lần gặp này, Bác Hồ và Bác Đồng đã ân cần hỏi thăm tên, tuổi, và đặt tên là Nguyễn Trung Tuyên,  vì quê miền Trung, lại năng nổ ca hát, tuyên truyền nên đặt Trần Trung Tuyên. Mát tuyên truyền chủ nghĩa Mác, gọi Mác Tuyên.

Năm 1958, Bác Hồ đi thăm Ấn Độ, được Tổng thống Paraxat và Thủ tướng  Nêru tặng một nhánh bồ đề chiết ra từ Cây Bồ đề nơi Phật Thích Ca Mâu Ni nhập niết bàn. Mác Tuyên được giao nhiệm vụ trồng nhánh Bồ Đề ở gần Chùa Một Cột, ông với ông Lâm Thanh Điền  chăm tưới. Ngày nay đã thành cây cổ thụ.

            Khi còn là sinh viên Nhạc viện Hà Nội 1960, ông được đào tạo căn bản về đàn bầu và sáng tác nhạc, tốt nghiệp năm 1963. Những năm tháng đi B “ xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước; rồi đi học sư phạm sử năm….dạy học ở Nam Định ( 1968 đến Ngày Giải Phóng), ông nung nấu, hoài bão và liên tục cải tiến đàn bầu. Ông bắt đầu nghiên cứu, sáng chế nhạc cụ mới nhưng mang tính dân tộc này từ năm 1960  đến 1970 ra đời cây 11 thế hệ Lạc Cầm. Sau do hỏa hoạn ở khu Nhà tập thể,  ông trắng tay. Tuy nó là sản phẩm ban sơ, còn khiếm khuyết, chịu sự bàn tán, chê khen. Không nản lòng, ông tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện Lạc Cầm 1970  đến năm 2004, bắt đàu lại từ đầu cây 12 -16.

Hội tụ mô phỏng, cách điệu từ đàn bầu, đàn tranh, đang guita phím lõm, và bộ phím gõ piano nên hình dáng, mỹ thuật, tên gọi, âm thanh, nhạc khí rất mềm mại, và phương diện biểu cảm, diễn tấu đa năng các thể loại: cải lương, tuồng, chèo, dân ca, ngâm thơ, nhạc hiện đại. Lạc Cầm 16 được nhạc sỹ nghiên cứu rất khoa học về vật lý, sinh học, ngũ hành,  âm thanh, tiết tấu ….Với chất liệu đa hợp Mộc, Kim: đồng, xương, sừng, gỗ, tre, nứa, sắt, thép, gang, inoc. Ông ứng dụng các loại âm thanh, sóng nhạc,tần suất, ẩn số.... Ông Phan Văn Ngà, một cựu học sinh của ông những năm 1978 Trường Hoàng Văn Thụ ( Nha Trang) kể: Ngày học thầy vui lắm, mỗi giờ ngoại khóa, đi lao động, thầy ôm đàn ghi ta, trò thay phiên ca. Thi thoảng tôi đến nài thầy cho nghe đàn bầu chế tác cải tiến của thầy.

Lần lượt những đứa con tinh thầm ra đời, ông đã tặng Bảo tàng Cách mạng Việt Nam( Nay là Bảo tàng lịch sử Việt Nam) hệ thống đàn Lạc Cầm 12, Lạc Cầm 13 và Lạc Cầm 15 vào năm 2007. Với cây đàn 15, năm 1996, ông được Chủ tịch nước Tặng Huân chương lao động hang ba. Lạc Cầm 16 vinh dự được Triển lãm toàn quốc và trình diễn tại chương trình “Hồn nhạc Việt”, chào mừng Đại Lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội; Kỷ niệm 80 năm Ngày Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhiều nghệ sỹ biểu diễn :  NSƯT Hoàng Anh Tú, Việt Hồng, Quốc Lộc, Thái Hùng, Ngọc Anh, …

Trong một lần được đàm đạo với Nhà báo, ThS Phan Thanh Bình (Hội viên Hội VNDG, Hội Khoa học Lịch sử   tỉnh Phú Yên) cho tôi những minh định sâu sắc: Tôi từng thưởng thức âm giai mượt mà, du dương và mãn nhãn nét đẹp hồn thiêng sông núi của Lạc Cầm rạng ngời tính nhân văn truyền thống Phú Yên,văn hóa tinh khôi Việt. Di sản thể hiện trong những sản phẩm văn hóa nghệ thuật do người Phú Yên sáng tạo từ thuở xa xưa, kết nối đến nay. Trong đó, bộ bộ đàn đá, kèn đá Tuy An và Lạc Cầm 16 là minh chứng hùng hồn quá trình tiến hóa về tâm thức, trí tuệ, tình cảm và tâm hồn của nhân dân Phú Yên lồng lộng thanh cao, hòa chung dòng chảy cội nguồn dân tộc.”

Về miền Đá Đỏ, gặp bà cụ Sáu Rượi ( Trần Thị Rượi, 78 tuổi) em gái ông Mác Tuyên ở quê Sông Cầu rươm rướm kể trong hoài niệm: Lần cuối anh “Mát” về thăm quê nhà và họ hàng bà con, ông cho vốn luyến cho con cháu nghèo khó, đi thăm nhiều bằng hữu…trong đó có Ông Cao Xuân Thiêm, Ông  Th.Sỹ Phan Thanh Bình lúc bấy giờ nằm viện, ông đến thăm và cũng nói là “ Tui  về lần này nữa thôi!”

Nhiều nhạc sỹ, chuyên gia Âm học quốc tế phải thán phục công trình nghiên cứu xuyên thế kỷ này. Ông Ru Kow Kritorukow – Viện Trưởng Viện Hàn lâm Nghệ thuật sân khấu điện ảnh Krixto Xara cơ Sofia ( Bungarri) nhận định:  Ông Mác Tuyên, Nhạc sỹ, nhà sáng tạo nhạc cụ dân tộc Việt Nam – người bạn lớn của Bungari đã để lại trong lòng chúng tooimootj tình cảm tốt đẹp tại ngôi nhà thân yêu của chính mình. Và tình cảm ấy chính là sự sáng tạo không chỉ biểu hiện tâm hồn, tính cách của người Việt Nam mà còn cả tâm hồn tính cách người Bungari chung tôi nữa”.(trích trong cuốn “Mác Tuyên - 50 năm Lạc Cầm”, NXB Hội Nhà Văn, năm 2007).

Năm 1993,  ông Nicholes Barter ( Viện Hàn lâm nghệ thuật Hoàng Gia Anh) từng nói: “Cảm ơn lòng mến khách của Ngài Mác Tuyên. Những âm điệu tuyệt vời từ nhạc cụ độc đáo mang tính dân tộc Việt Nam sâu sắc sẽ làm cho nhân dân Việt Nam và các dân tộc trên thế giới xích lại gần nhau hơn. Âm nhạc của ngài là xuất phát từ trái tim.” ( Trích “ Âm nhạc nhịp cầu tâm linh với lịch sử” của Mác Tuyên, năm 1996, NXB Văn hóa thông tin).

Qua sách báo, phim tài liệu “Người đi tìm Lạc Cầm”, phim truyền hình Việt Nam “Lạc Cầm”, cùng với tư liệu gia đình, bút tích của những vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đồng nghiệp, gia đình và bằng hữu, khách quốc tế dành cho ông, quá đủ để minh định thành quả khoa học của Mác Tuyên. Cuối đời, ông đã đi thăm nhiều nước Châu Âu, cuốn sách cuối cùng ông xuất bản là “ Châu Âu dưới ánh hoàng hôn” năm 2013, cũng đã thể hiện tài hoa không chỉ là cung đàm nốt nhạc, thông số kỹ thuật, cơ học, sinh, hóa, lý…mà còn uyển chuyển trong ngòi bút văn chương.

Qua quá trình nghiên cứu, chế tác 16 đời Lạc Cầm, chúng tôi băn khăn cây Lạc Cầm 14 hiện ở đâu? Khi sách báo và người nhà không nhớ rõ. Phải chăng ông đã tặng cho bạn tri âm hay Bảo tàng nào đó ? Cuộc đời, sự nghiệp của ông những thập niên cuối thế kỷ trước đến mãi thời đại mới rung lên rực rỡ, huy hoàng. Trong kho tàng nghệ thuật diễn xướng, âm nhạc cổ truyền, nhạc cụ dân tộc, nhạc khí Việt Nam từ buổi sơ khai, hồng hoang đã mang trong mình nét đặc trưng, độc đáo lạ kỳ. Hòa trong dòng chảy của văn hóa, truyền thống lịch sử thăng trầm, biến cố, huy hoàng: từ Kèn đá, Đàn đá, Cồng chiêng, la, tù và, sừng mõ, sáo trúc, kẻng…Đàn T’ rưng, đàn bầu…Lạc Cầm  hệ thống đàn mang hình con chim Lạc, những thanh, điệu, âm sắc và phương diện diễn tấu như tụ hội mô tip các loại nhạc cụ dân tộc Việt.

Ngày nay, âm nhạc phát triển theo hướng công nghệ, một bộ phận trào lưu giới trẻ thích nhạc ngoại lai, quên dần và thờ ơ âm nhạc cổ truyền.Thiết nghĩ, nếu Lạc Cầm được đưa vào Bảo tàng địa phương hay trưng bày trình diễn tấu ở không gian văn hóa phục vụ du lịch, nghiên cứu âm học, văn hóa học, dân tộc học… thì khả năng thu hút rất khả thi. Qua đó tự hào vùng đất Phú Khánh có một tài nhân sản sinh nhạc khí bắt cầu qua hai thế kỷ. Chiều nay, nghe cô phát thanh viên phát bài ca  Nắng Phú Yên do Cố Nhà giáo,nhạc sỹ Mác Tuyên sáng tác, bài ca đi vào lòng người, rạo rực, ước vọng, thanh tao như chính khát vọng dựng xây quê hương phồn thịnh của mỗi người con đất Phú Khánh xưa, người Phú Yên, Khánh Hòa hôm nay.

Cố nhà giáo, nhạc sỹ Mác Tuyên (1937 – 2015), tên thật: Trần Quang Mát (cách phát âm miền Trung thành “Mác”) sau được Bác Hồ và Thủ tướng Phạm Văn Đồng đặt  Trần Trung Tuyên (Mác Tuyên). Ông là người con của mảnh đất Gành Đỏ (nay là  Khu Phố An Thạnh, phường Xuân Đài, Thị xã Sông Cầu, Phú Yên).

Cuộc đời và sự nghiệp của ông lớn dần lên dưới  trường học Xã hội Chủ nghĩa, được nhân dân miền Bắc nuôi dưỡng, yêu thương. Ông là trí thức Cách mạng giàu lòng yêu nước, tự hào dân tộc. Sáng chế 16 đời Lạc Cầm, ông đã tặng Bảo tàng Cách Mạng Việt Nam hệ thống Lạc Cầm, gia đình đang lưu giữ Lạc Cầm 16 độc đáo nhất, mà ông chưa kịp trao tặng nơi chôn nhau.

 Tác phẩm văn chương, nghiên cứu: cuốn “Âm nhạc nhịp cầu tâm linh với lịch sử”; “Mác Tuyên 50 năm Lạc Cầm”; “Dưới bóng cây Bồ đề”, “ Công Trình chế tác Lạc Cầm”; văn :Bồng bềnh và nhiều thơ nặng tình quê hương, đất nước, nhân sinh.

Những bài hát ông sáng tác: Tình ca cây Bồ đề của Bác, Dòng kênh quê hương, Người ươm hoa, Cánh yến mùa xuân, Bài ca Phú Khánh, Nắng Phú Yên, Hạt muối Nam Hà, Z753 lươt sóng Trường Sa, Sao sáng trong em, Biển say, Lung linh Trường Sa – Hoàng Sa, Nỗi nhớ Trường Sa, Gửi miền Tây Tổ quốc, Rạng rõ Phú Yên, Ánh Mắt đảo xanh…

1. Chú trích trong bài:

 * : “Công trình bác học”: Nhận xét của Nhà báo Hà Đăng ( Nguyên Ủy viên BCH TƯ Đảng Khóa VI, VII, VIII - Trưởng Ban Tư tưởng văn hóa TƯ, Tổng Biên tập Báo Nhân dân,  một người Phú Yên. ( trích “ Dưới bóng cây Bồ đề” – Mác Tuyên, NXB Từ điển bách khoa,2011).

 **: Ngoài những nhà khoa học, chuyên gia âm học nước ngoài, ông còn đi ngao du 5 nước Châu Âu.

2. Tài liệu tham khảo:

-          Âm nhạc nhịp cầu tâm linh với lịch sử (Mác Tuyên- NXB Văn hóa thông tin, năm 1996)

-          Mác Tuyên 50 năm Lạc Cầm ( Mác Tuyên, NXB Hội Nhà Văn, năm 2007)

-          Dưới bóng cây bồ đề(Mác Tuyên, NXB Từ điển bách khoa, năm 2011)

-          Châu Âu dưới ánh hoàng hôn ( Mác Tuyên, NXB Từ điển bách khoa, năm 2013)

-          Phim Việt Nam lẻ xưa: “ Lạc Cầm”

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

BÀI MỚI ĐẮNG

Truyện ngắn: BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN _ NGUYỄN HẢI ĐĂNG

Bên cánh gà chánh điện phần 1 BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN Xe dừng lại với tiếng xột xoạt trên mặt đường, như bao chuyến xe đã ghé qua từ thuở ...