Kì Liên phi ngựa về đến nơi thì thấy mọi người đang nháo nhác chuẩn bị chuyển bớt đồ cần thiết ra ngựa. Từ nửa đêm cả bản đã sẵn sàng rồi. Vừa về đến nhà thì đã thấy có tiếng gọi từ phía sau:
- Pò Mạc à! Kì Liên à! Có nhà không?
- Ông Dìn Chiêng, sao ông lại sang đây?
Kì Liên quay lại, rất ngạc nhiên, lâu lắm rồi cô cũng không gặp. Ông Dìn Chiêng đã bảy nhăm tuổi mà còn khỏe mạnh và nhanh nhẹn lắm. Chỉ có con ngựa ông vừa dắt theo sau là mệt thở phì phì, bọt trào ra trắng xóa ở mõm. Chắc cả đêm qua nó chạy hết tốc lực rồi.
- Kì Liên à! Kì Hoằng đâu? Pò Mạc đâu?
Kì Liên chưa kịp trả lời thì đã thấy Pò Mạc và anh Kì Hoằng bước ra. Hai người cũng nghe thấy tiếng súng báo động nên chuẩn bị sẵn túi và súng ống bên mình.
- Ông Dìn Chiêng à! Có chuyện rồi à!
Ông Dìn Chiêng vội nói ngay:
- Pò Mạc, Kì Hoằng à! Pò Khâm mất đêm qua rồi.
- Trời bá Khâm đi rồi ạ!
Kì Liên thảng thốt. Kì Hoằng cũng kêu lên:
- Vậy sao! Gia gia cháu mất rồi sao, ông Dìn Chiêng?
- Ừ, đêm qua, gia gia cháu đi rồi. Ta phải phi ngựa suốt đêm sang đây để báo cho cháu về ngay. Mọi người ở nhà đang chờ.
- Pò Khâm có dặn dò gì không, ông Dìn Chiêng?
Pò Mạc liền hỏi
- Pò Khâm chỉ hỏi Kì Hoằng về chưa rồi nhìn mọi người ứa nước mắt, sau đó lặng lẽ đi thôi. Mắt mãi không nhắm xuống được. Không hiểu là có ý gì nữa!
Kì Hoằng thấy vậy vội quay sang nói luôn:
- Thúc thúc à! Gia gia cháu mất đột ngột thế này. Cháu phải về luôn đây! Mọi người ở lại giữ gìn sức khỏe nhé.
- Ừ, cháu về ngay đi.
Ông lấy ra hai củ sâm trời, một củ đưa cho đưa cho Kì Hoằng một củ cất vào túi vẫn đang đeo bên hông nói. Cầm về trước đi, rồi ta và Kì Liên sẽ sang sau. Hai người nhớ đi cho cẩn thận nhé.
- Được rồi, thúc thúc cứ yên tâm. Mọi người bảo trọng.
Kì Liên vội vàng dắt con ngựa của Kì Hoằng và của Pò Mạc hôm qua cưỡi ra. Cả hai con ngựa đã được nghỉ ngơi, ăn uống qua đêm nên rất sung sức. Kì Hoằng và ông Dìn Chiêng vội cưỡi ngựa phi ra ngoài dốc xuống bờ suối. Cả Pò Mạc và Kì Liên đứng nhìn hút theo. Cả hai không ngờ bá Pò Khâm lại ra đi đột ngột như vậy. Mất bao nhiêu công sức đi tìm kiếm sâm trời về để cứu chữa, vậy mà vẫn không kịp. Pò Mạc thoáng nhớ trong đầu câu nói của sư thầy Đàm Vân từ mấy chục năm trước “Ở đời con người chỉ có một lần “phải” duy nhất đó là “phải” chết. Còn lại mọi thứ đều có thể cải biến. Chỉ cần mình không chịu buông xuôi là được. Nếu ai đó chết tức là họ đã đến thời điểm “phải” của họ rồi. Đừng vì thế mà đau buồn, níu kéo làm gì mà chậm đường siêu thoát của của người đó.”.
Ông khẽ thở dài, bần thần nhìn theo bóng hai con ngựa vừa khuất dưới chân dốc. Vừa định quay người bước lên nhà sàn thì một loạt tiếng nổ ầm ầm rung chuyển mặt đất. Pò Mạc và Kì Liên vội nhìn ra xa. Những cột khói lớn bốc lên ngay dưới chân đồi, phía bờ suối nơi bóng Kì Hoằng và ông Din Chiêng vừa đi khỏi. Một cảm giác ớn lạnh chạy dọc khắp sống lưng. Pháo bên kia đánh sang trúng chỗ hai người rồi. Ông hét lên:
- Kì Liên! Chúng đánh rồi, mau giục mọi người chạy đi.
Rồi ông chạy lao xuống chân dốc. Từ bên kia biên, đạn pháo vốn im lặng được chừng nửa tiếng vừa qua bỗng chuyển làn chuyển hướng bắn sang ầm ầm. Khắp vùng Đồng Đăng và khu vực giáp biên bị đại bác bắn cấp tập không thương tiếc. Tiếng nổ đinh tai nhức óc vang lên khắp nơi. Cả bản Nà Pàng dù đã chuẩn bị trước vẫn náo loạn cả lên. Tiếng kêu khóc của trẻ con càng làm người lớn cuống quýt vội vã. Kì Liên vội vàng chạy sang cùng đội dân quân giúp dân bản Nà Pàng di chuyển nhanh ra sau quả núi thấp rồi chạy nhanh hướng về phía Lạng Sơn. Phía Đồng Đăng, người dân cũng đang bồng bế nhau ùn ùn chạy. Cứ kiểu bắn pháo này thì hơn tiếng nữa là quân lính kéo sang ồ ạt thôi. Từ cả tháng nay công an vũ trang biên phòng Lạng Sơn đã cho biết, có khoảng năm quân đoàn với khoảng gần 600.000 quân đang tập trận bên kia biên giới khắp sáu tỉnh phía bắc Việt Nam để thị uy. Chính phủ Việt Nam cũng đã có nhiều động thái chuẩn bị đề phòng từ trước Tết Kì Mùi. Chiến tranh vốn là điều chả ai muốn, trừ những kẻ buôn vũ khí trục lợi. Thế nhưng nó cũng là cách nhanh nhất để chấm dứt mâu thuẫn và xóa bỏ những áp lực dai dẳng theo kiểu cù nhầy bấy lâu nay. Người dân vùng biên này cũng phải chịu quá nhiều căng thẳng mệt mỏi từ ba bốn năm nay rồi. Vẫn biết là binh đến thì tướng ngăn, nước lên thì đập chặn. Nhưng chỉ khổ người dân bị cuốn vào vòng lửa đạn. Lính chết một thì dân chết mười. Đằng sau mỗi chiến thắng hay chiến bại đều là một chuỗi những hoang tàn đổ nát, tang thương cả chục năm sau chưa thể khôi phục lại được. Hơn nữa còn chuyện tâm linh mồ mả cũng bị quật lên động chạm đủ thứ nữa. Một loạt đại bác nữa vươn tới, rơi trúng bản Nà Pàng, những tiếng nổ bùng lên trong khói lửa mù mịt. Hàng loạt ngôi nhà sàn đổ sụp, tre gỗ, tranh rạ bắn lên tung tóe và bắt đầu bén lửa. Kì Liên và dân quân đưa được người dân Nà Pàng ra đến sau núi, rồi cô vội phi ngựa về trạm y tế. Trên biên giới, những bộ quần áo xanh Tô Châu đã bắt đầu tràn sang như thác lũ. Có cả xe tăng nữa. Tiếng pháo vẫn rú rít đuổi theo sau những đoàn người chạy loạn.
Pò Mạc chạy xuống đến chân đồi rồi men theo bờ suối, mới chạy được chừng dăm chục mét nữa thì nhìn thấy những cái hố rộng ngoác do đạn pháo nổ tập trung gây ra. Mấy cái cây to gần đấy đổ nghiêng. Ông đứng sững người đau đớn kêu lên:
- Kì Hoằng! Ông Dìn Chiêng!
Bên cạnh những hố pháo, hai con ngựa bị xé nát, máu thịt vương vãi khắp nơi, không biết là của người hay của ngựa nữa. Không thấy ông Dìn Chiêng và Kì Hoằng đâu cả. Pò Mạc vội tìm kiếm xung quanh. Ông nhìn thấy một đôi chân thò ra sau bụi rậm liền chạy đến, hóa ra xác Kì Hoằng bị sóng xung kích của đạn pháo hất vào đây. Cả người bị mảnh pháo găm xẻ nhiều chỗ rất thê thảm. Củ sâm trời bị mảnh đạn pháo cắt đôi, một nửa nằm lăn lóc ngay cạnh, còn nửa kia bắn đâu mất. Pò Mạc nhặt lấy nửa củ sâm trời cho vào túi rồi quay lại tìm, một lúc sao mới thấy xác ông Dìn Chiêng, bụng bị mảnh pháo xẻ toang, ruột gan lòng thòng bê bết đất cát. Tiếng đạn pháo vẫn rít lên trên đầu. Không kịp làm gì lâu hơn, đạn pháo có thể nã xuống đây bất cứ lúc nào. Pò Mạc vội dùng hai tay bới đất thành hai cái hố cạnh nhau rồi bê xác của Kì Hoằng và ông Dìn Chiêng đặt xuống ngay ngắn. Ông lấy nửa củ sâm trời vừa nãy đặt lên ngực Kì Hoằng, ngắm nhìn lại gương mặt đứa cháu và ông quản gia trung thành xấu số một lần nữa. Khuôn mặt ông xọm xuống như già nua thêm mấy tuổi đã chan hòa nước mắt. Kể từ hồi Kì Hoa vợ ông mất đến giờ, nước mắt ông mới chảy nhiều đến như thế. Đến giờ Pò Mạc đã hiểu vì sao Pò Khâm khi chết lại không nói gì chỉ ứa nước mắt. Linh cảm của người già thật tinh nhạy trước những mất mát đau thương. Pò Mạc vội vàng lấp đất đắp thành hai nấm mộ rồi lấy dao khắc mạnh vào thân cây gần đấy mấy chữ để làm dấu. Pò Mạc chạy về phía bản Nà Pàng, Nhưng cả bản không còn ai, chỉ có đống đổ nát. Ông yên tâm vội chạy ra sau núi hướng về phía Đồng Đăng.
Lúc này, cả một sư đoàn quân mang sắc áo Tô Châu có xe tăng dẫn đầu hùng hổ tràn qua biên giới như đàn kiến lớn. Tiếng súng bộ binh bắn loạn khắp nơi. Phía trạm y tế cũng đầy bóng áo lính xanh lục rồi. Biết không thể đến kịp, ông vội vàng chạy vòng về phía pháo đài Đồng Đăng. Từ xa ông đã nhìn thấy cây cỏ bao phủ quanh pháo đài thành một lớp màu xanh thẫm. Kể từ sau khi biên giới căng thẳng đầu năm 1975, pháo đài Đồng Đăng đã được xây sửa thêm chút ít, trở thành vị trí phòng ngự rất quan trọng cho khu vực biên giới bởi nó án ngữ đầu mối giao thông cả đường bộ và đường sắt chạy sang Trung Quốc. Có hai cửa vào. Cửa phía bắc dài khoảng 10m dẫn vào tầng thứ nhất. Cửa phía nam dài tới 20m dẫn vào tầng thứ 2. Hiện tại, khi ông đến thì đã có khá nhiều người dân Đồng Đăng kéo lên đây tránh pháo kích. Tầng thứ nhất chỉ có hai tiểu đội bộ đội thuộc Đại đội 42(C42) của F3 Sao vàng chốt giữ, phần còn lại của C42 nằm ở các chốt phía bên ngoài pháo đài. Còn tầng thứ 2 do các chiến sĩ C5 Công an vũ trang Lạng Sơn đảm nhiệm. Tất cả có khoảng hơn một trăm tay súng. Bên ngoài, tiếng pháo ùng oàng đang bắn vào mấy mỏm đồi đằng trước.
- Thầy Mạc à! Sao thầy lại lên đây! Mọi người ở Nà Pàng sao rồi ạ!
Một giọng nói rất trẻ vang lên. Pò Mạc nhìn ra thì phát hiện một anh công an vũ trang trước cũng là học trò ở lò võ ở Nà Pàng.
- Nà Pàng bị pháo bắn nát rồi, nhưng dân làng có chuẩn bị nên đã chạy được hết, không có ai bị trúng pháo ở đó cả! Pò Mạc đáp. Ta đi tìm Kì Liên, phía trạm y tế quân địch chiếm hết rồi, không thấy nó đâu nên ta mới lên đây.
- Bá Kì Liên không có ở đây. Hay thầy thử về đền Mẫu xem sao, có khi bá ấy lên đó. Ở đó cũng có một chốt của lực lượng vũ trang nữa.
- Thế à, vậy để ta sang đó xem sao. Các anh cẩn thận nhé. Trận này ác liệt khủng khiếp đấy!
- Dạ vâng thầy cứ yên tâm. Con một hơi thở chúng con cũng sẽ chiến đấu đến cùng
Pò Mạc nhìn lại các chiến sĩ công an vũ trang C5 lần cuối rồi lao xuống dưới chân đồi. Cách đó dăm trăm mét, ông nhìn thấy hai mũi tiến công của xe tăng hạng nhẹ T-62 đang tiến về phía pháo đài Đồng Đăng. Phía đằng sau là bộ binh lớp lớp đông như kiến tiến theo. Ông đang rất lo cho con gái nên chạy hết tốc lực lên phía đền Mẫu. Bốn xung quanh ông, đạn pháo vẫn vãi xuống ầm ầm. Pò Mạc cắt đường chạy lên đến đền. Có một hang đá lớn nằm ngay trong lòng khu điện thờ đền Mẫu, những bậc tam cấp dẫn ngoằn ngoèo qua rất nhiều ngóc ngách. Cửa hang hẹp vừa một người chui, vào sâu lòng hang rộng dần ra trở thành một công sự tự nhiên dễ thủ khó công. Khi đó, trong hang Đền Mẫu, ngay phía dưới chốt của hai tiểu đội thuộc tiểu đoàn cảnh sát cơ động của Công an Lạng Sơn, có tới gần bốn trăm người dân, hầu hết là đàn bà, trẻ em từ dưới thị trấn Đồng Đăng chạy lên tránh đạn pháo từ sớm. Trong hang thấy có cả A Cường, đội trưởng dân quân ở Nà Pàng cùng một số dân quân nữa. Pò Mạc lo lắng hỏi:
- A Cường! Dân bản đâu hết rồi?
- Dạ, đa số chạy về phía thị xã rồi. Một nửa đội dân quân đi theo dẫn đường thầy ạ. Con cùng mấy anh em lên đền Mẫu định đưa các già trong ban chấp sự đi theo thì thấy nhân dân ở đây đông quá nên ở lại!
- Có thấy Kì Liên đâu không?
Pò Mạc càng sốt ruột hơn khi ông nhìn bao quát cả mấy trăm người dân không thấy bóng dáng quen thuộc của Kì Liên.
- Con không thấy, sau khi đưa dân bản ra sau núi ở Nà Pàng, bá Kì Liên chạy về trạm y tế mà.
Tiếng xung phong ầm ĩ của quân địch theo tiếng kèn trận hối hả tràn lên hướng pháo đài Đồng Đăng cắt ngang cuộc nói chuyện. Pò Mạc vội chạy ra ngoài chốt ở cổng đền Mẫu nhìn ra xa. Đám bộ binh nấp sau các xe tăng ào ạt tiến lên. Các xe tăng địch chạy ầm ầm bao vây nã pháo vào pháo đài Đồng Đăng. Tiếng pháo tăng T-62 nhằm vào pháo đài nổ ầm ầm, bóc ra từng mảng đất đá lớn nham nhở. Mấy tên chỉ huy tàn ác ở phía sau sẵn sàng bắn chết bất kì tên lính nào chậm chạp nên chúng điên cuồng xông tới bằng chiến thuật biển người. Trên các chốt phòng thủ ngoài các mỏm đồi quanh pháo đài như u mấu chân rồng, súng của các chiến sĩ ta bắt đầu lên tiếng. AK, B40, ĐKZ, trung liên RPD và thủ pháo, lựu đạn tung xuống như mưa xuống quân địch. Hàng trăm cây thịt đổ gục xuống trước làn đạn bật căng của các chiến sĩ công an vũ trang C5 và lính F3 Sao Vàng thiện chiến. Nhưng chúng cậy đông không sợ, tiếp tục tràn lên hết lớp này đến lớp khác. Cùng lúc đó, lực lượng bộ binh của địch cũng tấn công lên chốt ở đền Mẫu Đồng Đăng. Tiếng súng của hai tiểu đội giữ chốt đã nổ dòn dã. Không kịp nghĩ ngợi gì nữa, Pò Mạc quay lại bảo:
- A Cường, tập trung anh em dân quân phối hợp giữ chốt ngay!
- Dạ vâng, thầy!
Pò Mạc cũng xách khẩu AK báng gấp chạy ra. Lâu rồi ông không bắn súng nhưng kĩ năng và cảm giác súng thì vẫn không vì thế mà giảm. Chỉ có một cơ số đạn trong túi mang theo nên ông rất tiết kiệm. Mỗi phát đạn của ông là một, hai tên lính áo Tô Châu phải gục xuống. Năm người dân quân do A Cường chỉ huy cũng chọn các khe đá nấp để bắn xuống. Nhờ có bó súng lớn mà Pò Mạc thu của bọn phỉ tặc mang về tối qua mà lực lượng dân quân có hỏa lực khá dư dật. Khẩu trung liên trên chốt cũng rung lên từng hồi dài, khạc lửa về phía đám quân đang tràn lên đỉnh núi bất chấp bão lửa đang chụp xuống. Một loạt đạn pháo bắn lên đền Mẫu, mọi người nhào đi tránh đạn. Có hai chiến sĩ thuộc tiểu đoàn cảnh sát cơ động đã hi sinh. Súng đạn trên núi lao xuống vẫn mù trời đã chặn đứng hết đợt phản công này đến đợt phản công khác của địch. Lợi thế cao điểm đã giúp cho chừng ấy con người trên chốt đền Mẫu trụ vững ngày đầu tiên. Phía bên pháo đài Đồng Đăng, hàng mảng quân địch xông lên cũng bị hất xuống hết dù chúng điên cuống đổ đạn vào cái đầu rồng ngoan cố ấy. Đến gần tối, chúng buộc phải lùi xuống, dựng trại ở chân núi và chân pháo đài để nghỉ ngơi. Bao nhiêu gà lợn trâu bò chúng cướp được từ sáng đã được đem ra để xả hết nỗi bực tức vì bị quân Việt Nam chống cự quá ác liệt. Lính Trung Quốc mấy chục năm rồi không trải qua chiến trường nên dù cậy số đông cũng không thể lại được với mấy thế hệ những người dân Việt đã qua ba mươi năm chiến tranh ròng rã được. Thỉnh thoảng chúng vẫn không quên nã pháo khiêu khích. Mọi người tập trung xử lí các vết thương và chôn cất hai chiến sĩ bị trúng pháo hi sinh ở khoảng đất nhỏ phía sau chốt.
Pò Mạc đang định xuống núi đi tìm Kì Liên thì đột nhiên nghe thấy từ trong hang đá đền Mẫu có tiếng gọi:
- Thầy Pò Mạc à!
- Vâng, tôi đây! Bà là...
Pò Mạc còn đang ngờ ngợ, không biết đã gặp bà cụ trước mặt ở đâu nữa.
- Có chuyện gì vậy bà!
- Thầy Pò Mạc! Thầy không biết tôi, tôi là bệnh nhân ở trạm y tế của cô Kì Liên.
Nghe thấy tên con gái, Pò Mạc vội hỏi:
- Vậy bà có biết Kì Liên đâu rồi không?
- Cô Kì Liên...
Bà lão khẽ chấm nước mắt rỉ ra trên đôi mắt kèm nhèm. Mọi người vội xúm lại...
*
* *
Kì Liên phi ngựa như bay về phía trạm y tế Đồng Đăng. Từ biên giới, đám lính tràn sang được một đoạn đã nhìn thấy cô và con ngựa, hò nhau bắn vãi đạn từ cách mấy trăm mét về phía cô. Đạn pháo từ bên kia biên giới vẫn không ngừng vút qua trên đầu cô, nổ ầm ầm phía trước. Không ít lần con ngựa hoảng sợ vì đạn pháo nổ quá gần, xuýt hất cô xuống đất. Cuối cùng cô cũng đã đến được cổng trạm y tế. Trong trạm y tế, A Si đang cõng bá Phán khỏi cửa. Yến đang dắt thêm một người bệnh khác định đưa xuống hầm trú ẩn tạm. Vừa mới vào đến sân, Kì Liên chưa kịp xuống ngựa thì một loạt đạn pháo bắn tới trúng vào khu nhà bệnh nhân và sân trước, cô bị hất tung ra khỏi lưng ngựa ngã vật xuống bất tỉnh...
Một gầu nước lạnh ngắt dội vào đầu Kì Liên. Cô lờ mờ tỉnh lại, thấy mình đang bị trói vào gốc cây hồi ngoài sân trạm y tế. Gầu nước lạnh dội vào các vết thương trên người buốt tận óc. Cô mở to mắt nhìn, trước mắt cô là một đám lính bên kia biên giới, mặt tên nào cũng lầm lì như đâm lê, nhìn cô chằm chằm. Cô nhìn sang dãy nhà trạm y tế, đạn pháo đã phá sập căn nhà bệnh nhân. Căn nhà để thuốc và phòng nghỉ của các y tá cũng bị phá tung cửa. Có tiếng giãy dụa, tiếng la hét hoảng hốt tắc nghẹn của Yến, rồi tiếng cười khả ố dâm dật của bọn lính trong phòng thuốc. Cô chợt thấy lửa giận trong người bừng lên, nhưng sợi giây trói rất chắc đã thít chặt cánh tay sau lưng khiến cô bất lực. Bên cạnh cô, A Si bị trúng mảnh pháo vào chân, một bên ống chân đứt lả đang quặn người vì đau đớn. Bà Phán đang đỡ cho người A Si ngồi khỏi đổ xuống. Bà cũng bị thương nhưng nhẹ hơn. Mấy tên lính mặt mũi hung dữ đang lăm lăm báng súng chờ lệnh hạ thủ.
Một chuỗi tiếng cười vang lên, rồi một gã ăn vận kiểu sĩ quan bước vào, trên tay có một con rắn hổ lục đầu bạc, cái đầu rắn đang nằm gác đầu lên vai gã. Cô vừa nhìn thấy đã kêu lên:
- Là ngươi, Năng Tĩnh!
- Ha ha ... ngươi vẫn còn nhớ ta là Năng Tĩnh à! Kì Liên. Khá đấy nhỉ. Nhưng bây giờ người phải gọi ta với cái tên đầy đủ là Hoắc Năng Tĩnh mới đúng đấy.
Cái tên Hoắc Năng Tĩnh đã khiến cho cô nhớ lại đầy đủ mọi chuyện. Hóa ra tên này có liên quan đến tên cận về của tướng Lư Hán là Hoắc Hứa Đô đã từng đến gây chuyện ở Hoàng Kì Sơn Trang năm 1945 mà cô đã được Thái Kiệt lão gia và thầy Mạc kể lại.
- Chính gia tộc họ Hoắc đã tìm mọi cách để ngươi đến sơn trang lén học võ công của lão nhân gia phải không?
Kì Liên biết hôm nay không có cơ hội thoát nên cô bình tĩnh tìm cơ hội. Kẻ phản đồ của sư môn đã lộ diện sau bao nhiêu năm tìm kiếm. Gã Năng Tĩnh đắc ý.
- Đúng! Ta chính là con của Hoắc Hứa Đô, người đã bị sơn trang các ngươi thủ tiêu mấy chục năm trước. Ta đã cố tiềm phục trong nhà họ Hoàng để tìm cơ hội. Nhưng không ngờ chính ngươi đã làm ta lộ thân phận.
- Là ngươi muốn so tài chứ có phải ta ép đâu. Rất may là người đã phải lộ hết thân thủ. Quả thực hôm đó ta cũng phải bội phục người vì đã tinh thông quá nhiều công phu tuyệt hảo, chỉ là thời gian luyện công chưa đủ thôi.
Kì Liên tìm cách khích tướng. Hoắc Năng Tĩnh không để ý nhưng vẫn thừa nhận:
- Đúng! Chính vì thế mà ta đã phải chờ thêm hai mươi năm nữa mới có ngày hôm nay. Chỉ tiếc là mấy hôm trước đã không thể tiêu diệt được cha của ngươi cho bõ tức.
- Chính là người đã sai người chặn đường ông ấy để cướp sâm trời sao?
- Đúng thế! Ta thật không ngờ đã không cướp được sâm trời mà còn thiệt mất mấy chục cao thủ mà ta mất bao công mới tuyển chọn được. Lão già khốn kiếp!
Năng Tĩnh gằn giọng. Quả thực, tối hôm qua, cấp trên biết việc đã chửi mắng hắn không ít.
Chợt có một lão già chột mắt đi lại nói nhỏ vào tai Năng Tĩnh điều gì đó, khiến Kì Liên chú ý, hắn liền gật đầu bảo:
- Cho nó vào!
Một thanh niên chừng ngót ba mươi tuổi mặc quân phục vải Tô Châu chạy vào, trên ngực đeo lủng lẳng sợi dây bạc to tướng có bốn cái khoen bạc bọc lủng lẳng mấy cái răng nhọn. Anh ta cúi chào gã Năng Tĩnh rồi liền chạy lại chỗ bà Phán kêu lên:
- Mé Phán à! Sao mé lại ở đây!
Kì Liên nhận ra đó chính là bốn cái răng rắn hổ chúa mà ngày trước ông Nùng Lếnh đã xin thầy Mạc về cho cháu đeo. Vậy thì chính là Nùng Khuôn, con trai lão Nùng Phán đã từng trốn biệt tích vì sợ rắn chúa báo thù mấy chục năm trước rồi. Không ngờ mấy tên này lại có liên hệ với bọn sĩ quan bên kia. Như vậy mạng lưới thám báo hoạt động mấy năm nay ở vùng Cao Lạng này chính là do tên sĩ quan Hoắc Năng Tĩnh và đám Nùng Phán chỉ huy rồi. Kì Liên càng xâu chuỗi các sự việc mà thầy Mạc kể lại, càng thấy rùng mình bởi kế hoạch trả thù quá kì công của tên Năng Tĩnh. Chúng mượn việc công để trả thù riêng và mưu tranh đoạt dòng họ nữa.
- Tướng quân, đây là mé tôi, xin hãy tha cho mé Phán tôi à!
Nùng Khuôn đỡ bà Phán đứng dậy rồi nói. Bà Phán nhìn thấy vậy hiểu ngay sự tình liền đẩy Nùng Khuôn ra rồi chỉ thẳng vào mặt thằng cháu nội mắng gay gắt.
- Nùng Khuôn, đồ khốn kiếp! Sao mày lại dám bám đít bọn phỉ tặc này rồi hại chết bao nhiêu người vô tội!
- Mé à! Mé đừng nói vậy! Tướng quân tức giận bây giờ!
Nùng Khuôn tái mét mặt vội van xin bà nội, vừa ngoái sang cầu xin gã Năng Tĩnh:
- Xin tướng quân bỏ quá cho mé tôi, mé già yếu rồi nên không...
- Câm ngay, tao không có thằng cháu phản nghịch như mày. Cút ngay cho khuất mắt tao. Tao thà chết chứ không thèm cầu xin lũ cướp nước, bán nước này. Tao quyết sống chết với mày...
Bà Phán rút con dao ở thắt lưng Nùng Khuôn, lảo đảo lao về phía gã Năng Tĩnh. Cái chân đau buốt mọi hôm hành hạ bà nhưng hôm nay đã chiều theo sự tức giận của bà. Bà vung con dao nhọn về phía gã tướng quân. Năng Tĩnh không thèm nhìn, rút súng ngắn vẩy tay, một tiếng nổ đanh, một lỗ thủng ngay trên trán của bà Phán. Một dòng máu đỏ tươi chảy xuống trước mặt. Bà Phán loạng choạng rồi vật ra sóng xoài giữa sân. Tiếng nổ làm những quả hồi già sót lại trên cây rụng xuống lả tả lên người bà như sao sa. Tên sĩ quan cất giọng lạnh lùng hỏi:
- Nùng Khuôn! Ngươi còn gì để nói nữa không!
- Xin tướng quân tha tội chết. Chỉ là tại mé tôi lỗ mãng...!
Nùng Khuôn mặt cắt không còn giọt máu.
- Nùng Khuôn! Là ta không nói việc đó! Cha con ngươi tưởng giấu được ta sao. Các người định mượn việc đưa người Hoa vượt biên rồi cố tình giết người cướp của và đổ vạ cho chúng ta. Đêm qua, các ngươi cũng kiếm chác được không ít rồi phải không. Vậy mà không biết điều cút đi lại còn quay lại định lừa chúng ta tiếp sao!
- Dạ… thưa tướng quân...
Nùng Khuôn choáng váng, cứng họng không nói được câu nào.
- Ta nói cho người biết. Ông nội ngươi đã bị rắn độc cắn chết. Chiều tối qua, cha ngươi tham sống sợ chết, bỏ cả ta bị thương mà chạy thoát thân. Cuối cùng cũng bị ba con rắn chúa trả thù. Còn người, một kẻ đã bị bà nội ngươi kết tội là phản quốc, giờ lại phản bội lại chúng ta, người còn định sống nổi sao.
- Xin tướng quân tha mạng...!
Nùng Khuôn quỳ xuống vái tên tướng quân như tế sao.
- Tội phản bội thì không thể nào tha thứ được. Ta sẽ cho người chết như chính cha và ông ngươi đã phải chết. Nhận lấy!
Tên tướng quân khẽ vung tay, con rắn lục đầu bạc lao sang mổ vào cố của Nùng Khuôn đang ngửa ra. Nùng Khuôn lảo đảo, rồi ngã vật ra, mắt trợn lên, một dòng máu đen ứa ra bên mép. Nùng Khuôn mặt tím bầm, giãy dụa thêm mấy cái rồi nằm im. Tên Năng Tĩnh qua sang nói:
- Kì Liên! Ngày hôm nay, chính ta sẽ phải giết chết ngươi tại đây để tế cha ta và cũng là để cảnh báo cho cha ngươi biết, chỉ con một hơi thở, ta sẽ tìm bằng được ra lão để trả thù. Rồi sau đó mới quay về hủy diệt Hoàng Kì Sơn Trang của các ngươi.
- Ngươi muốn giết thì rút súng đi, việc gì phải nhiều lời?
Kì Liên tiếp tục nói khích. Tên tướng quân quát lên:
- Ngươi tưởng đơn giản như vậy sao. Để cho ngươi chết như vậy thì dễ dàng quá. Ngày trước ngươi hạ nhục ta bằng võ công thì ngày nay, ta cũng sẽ cho người biết võ công của ta sẽ tiêu diệt ngươi như thế nào! Người đâu, cởi trói! .
- Được, coi bộ ngươi cũng anh hùng hảo hán gớm nhỉ!
Kì Liên đã đạt được mục đích. Cô khẽ vận công để lưu thông khí huyết. Trận này không để cho hắn được toàn mạng mới được. Dù cô có phải chết cũng cam lòng. Cô thoáng nghĩ đến thầy Mạc, đến A Sung và các con. Mọi chuyện đến nước này cũng không còn cơ hội để lựa chọn. Kẻ thù của sư môn nhất định phải chết. Cô nhìn lão già chột mắt rồi cố hỏi thêm.
- Năng Tĩnh. Có phải chính lão chột kia đã giúp ngươi làm nổ tung Hoàng Kì Sơn Trang hai mươi năm trước.
- Ha ha ... Đúng đấy, cũng chính là người bị cha ngươi phóng phi dao mù cả mắt nhưng vẫn cố về đến gia tộc họ Hoắc để báo tin. Nếu không thì làm sao hôm nay ta có cơ hội để báo thù thế này.
Vậy là đủ. Kì Liên nghĩ. Cô hít sâu mấy hơi, khẽ quay đi móc miếng sâm trời tươi thầy Mạc mới đưa để trong túi áo cho vào miệng ngậm. Bên kia, tên Hoắc Năng Tĩnh cũng cởi bỏ chiếc áo sĩ quan, vươn vai khởi động. Trên vai hắn vẫn còn vết bông băng trên vai trái vì trúng phi đao của Pò Mạc từ chiều tối qua. Nhìn Kì Liên bị trúng mảnh đạn pháo chảy máu khắp người, gã tin rằng Kì Liên cũng chẳng khá hơn gì nên không ngại đôi công. Bọn lính xúm vào quây thành vòng tròn, chúng có vẻ phấn khích vi sắp được xem tướng quân của chúng trả thù. Chừng mươi phút sau, Năng Tĩnh và Kì Liên lao vào nhau. Cả hai có bao nhiêu sở trường sở đoản đều dốc hết ra thi thố. Cước bộ thoăn thoắt, quyền thủ vùn vụt, những thế hiểm đòn độc được xuất ra liên tiếp. Bọn lính xung quanh trố hết mắt ra nhìn, không giấu nổi vẻ ghen tị và thèm khát. Kì Liên đã trúng mấy đòn nặng nhưng Năng Tĩnh cũng không khá hơn. Nội lực của hắn không thể so với Kì Liên được, chỉ lấy cái to xác lấn át. Hắn giận dữ gào thét rồi lại lồng lộn tung chiêu ào ạt. Rất may trong bốn năm qua, Pò Mạc đã ép cho hai vợ chồng Kì Liên tập luyện nặng hơn nhiều vì công phu đã đạt độ chín nên cả hai đều đề thăng lực lượng rất mạnh. Dù Kì Liên bị thương nặng nhưng trước Năng Tĩnh cô vẫn không bị lấn lướt. Tuy nhiên cô biết, nếu để quá lâu, máu ở vết thương chảy nhiều sẽ kiệt sức. May mà có miếng sâm trời tươi ngậm từ nãy đến giờ chứ không thì cũng khó gượng lại được với lối đánh phong phú và cường lực của đối phương. Một cú chỉ pháp trúng mắt khiến Năng Tĩnh tối tăm mặt mũi lùi lại, tuy nhiên Kì Liên cũng trúng một cùi trỏ cực mạnh bắn người vào thân cây hồi cạnh sân. Năng Tĩnh lùi lại đúng chỗ hai tên lính đang cầm AK đứng sau. Hắn điên lên liền khoa tay ra sau tháo chốt hai lưỡi lê sáng quắc rồi lao vào Kì Liên còn đang dựa vào gốc cây lấy lại thằng bẳng. Bóng Năng Tĩnh vùn vụt lao tới. Hai lưỡi lê đâm thẳng vào bụng vào ngực Kì Liên. Cả hai người ập vào nhau đánh hự một tiếng, cây hồi già sau lưng rung lên rào rào. Từ trên cây, một trận mưa hoa hồi, lá hồi lại rơi xuống. Tên chột cùng cả đám lính chồm người lên quan sát kết quả. Máu chảy xuống thành vũng dưới chân hai người. Kì Liên lấy hết sức cựa mình hất Năng Tĩnh ra. Hắn đổ vật xuống, mắt trợn ngược, miệng ngáp ngáp không ra hơi. Thì ra Kì Liên chấp nhận chịu một lưỡi lê đâm vào bụng, còn hai tay cô đã kịp chụp lưỡi lê còn lại trên tay Năng Tĩnh bẻ quặt lại. Lưỡi lê đâm thấu tim hắn đúng đà hắn đang lao vào. Lối đánh đồng quy ư tận này khiến Năng Tĩnh không ngờ được, Hóa ra hắn lại là người phải chết trước. Kì Liên không chậm trễ, cô rút lưỡi lê đang cắm vào bụng mình ra, lấy hết sức bình sinh phi mạnh. Bọn lính rú lên, nổ súng vào cô, người cô giật nẩy lên. Khi thần thức sắp tắt, cô đã kịp thấy lưỡi lê cắm phập vào cổ lão chột mắt. Lão rú lên rồi gục xuống chết tuốt. Cô mỉm cười mãn nguyện. Hoa hồi lại tiếp tục rụng xuống như mưa lên mái tóc lên người cô trong những tiếng AK dồn dập...
IV - THIÊN THẦN Ở ĐỀN ĐỒNG ĐĂNG
- Kì Liên chết rồi sao?
Pò Mạc thấy tim mình thắt lại. Ngày hôm nay ông đã chịu quá nhiều đau đớn rồi. Bà lão nghẹn ngào kể
-Vâng! Tôi nhìn thấy tận mắt mà... khi đó tôi được dắt ra ngoài hầm dưới đám lá mục sau nhà thuốc nên mới biết! Chờ cho chúng đốt phá xong trạm y tế tồi bỏ đi, tôi mới cố bò ra khỏi hầm rồi đi men theo chân núi lên đây. May sau đó có mấy người nhìn thấy dìu đi...
Mọi người xung quanh đều không cầm nổi nước mắt. Pò Mạc im lặng, lòng ông tái tê, lạnh ngắt. Trong một ngày nghe tin hai người thân qua đời, trực tiếp chứng kiến hai người thân nữa chết vì súng đạn của quân thù. Mấy chục năm trời gắn bó. Ông không thể ngờ, dù đã cẩn thận đề phòng sớm mà cuối cùng cũng không thoát khỏi định mệnh nghiệt ngã. Dẫu biết rằng chiến tranh thì không tránh khỏi đổ máu và mất mát, nhưng với ông sao đau đớn lại đến dồn dập và chồng chất như thế này. Dù là người thần kinh thép như ông cũng khó có thể chịu nổi. Ông cầm lấy tay bà lão như thay lời cảm ơn. Rồi ông quay lại bàn thờ Mẫu, thờ Phật. Ông lặng lẽ châm hương rồi chắp tay lại. Hình ảnh bốn người Pò Khâm, ông Dìn Chiêng, Kì Hoằng, Kì Liên lần lượt hiện ra trước mắt ông. Đan xen vào đó là hình ảnh của Thái Kiệt lão giavà cả Kì Hoa nữa. Chấp chước hay không chấp chước thì người cũng mất rồi. Hai mươi sáu năm trước, ông đau đớn nhìn vợ chồng thằng Nhượng, em ruột ông chết trong hầm vì bom của quân Pháp. Giờ lại nhìn thấy con, thấy cháu, thấy các bá ra đi ngậm hờn ngậm tủi. Chết mà không yên thân, không nhắm mắt được. Phật, Mẫu từ bi độ đời ơi, liệu có thể lí giải bằng thuyết nghiệp chướng, nhân quả cho hàng ngàn, vạn người dân đã ngã xuống hôm nay suốt dọc các tỉnh biên giới này ngày hôm nay không? Chả lẽ có bao nhiêu người nặng nghiệp từ kiếp trước đều về hết vùng biên này trước mỗi cuộc chiến tranh xâm lược để trả nghiệp hay sao? Nào đã điều phục, giúp đỡ, thu hút được gì đâu mà hủy diệt vẫn cứ diễn ra? Nước mắt của đời mới một ngày đã ngập tràn chốn biên cương này rồi!...
Pò Mạc thẫn thờ trước ban lễ một lúc lâu rồi quay sang nhìn A Cường vẫn đứng sau ông nói:
- A Cường à! Con mau đưa anh em đi tìm thức ăn cho mọi người thôi. Từ sáng đến giờ chắc ai cũng nhịn đói rồi. Chắc chắn bọn lính có mang theo ít lương thực trong ba lô. Chỉ cần lục tìm những thằng bị bắn dưới chân dốc thôi. Nhân tiện lấy hết vũ khí của chúng.
- Dạ vâng ạ!
- Ngày mai chắc chúng sẽ bắn pháo nhiều hơn đấy. Nếu pháo đài thất thủ thì chúng sẽ dồn hết quân sang bên này. Khi đó sẽ khó kiếm lương thực đấy. Mấy trăm con người chứ không ít đâu. Để ta đi tìm xác Kì Liên nữa!
- Vâng ạ!
Pò Mạc cùng mấy người dân quân và cả mấy anh lính tiểu đoàn biệt động Công an Lạng Sơn trên chốt đền Mẫu lợi dụng bóng tối, men theo các mỏm đá lần xuống lưng núi. Xác quân địch nằm la liệt, chồng chất quanh dốc núi, chân núi. Chôn cũng không hết được. Bọn sống cũng chả dám lên đưa tử sĩ đi vì sợ ăn đạn. Ngày hôm nay chúng đã chứng kiến thế nào là lối đánh công kiên và tài thiện xạ của công an biên phòng và dân quân Lạng Sơn, nên ít nhiều chờn dạ rồi. Với lại chúng còn đông bạt ngàn mà, không có gì phải vội. Cánh quân phía đông do tướng Hứa Thế Hữu chỉ huy tập trung cho hai trọng điểm chính, hướng Lạng Sơn do ba Tập đoàn quân 43, 54, 55 phụ trách, còn hướng Cao Bằng do Tập đoàn quân 41, 42, 50 đảm nhận nhiệm vụ tấn công. Nhân sự đông thế, có cho đứng không mà bắn cũng không thể ngày một ngày hai mà hết được, chưa kết đến bao nhiêu xe tăng, đại pháo và khí tài hạng nặng nữa. Ngày đầu chủ yếu gây bất ngờ, phá hoại, cướp bóc và hiếp chóc là chính thôi...
Hàng trăm chiếc ba lô của những tên lính thiệt mạng được chuyển lên. Hôm nay để tiêu diệt được bằng ấy bọn chúng, lượng đạn và lựu đạn trên chốt cũng gần hết, may mà trời tối chúng không tấn công lên nữa vì không biết trên này có bao nhiêu người nữa. May mà có vũ khí của quân địch vất lại. Nhiều tên hầu như còn chưa bắn hết nửa băng đạn AK đầu tiên đã bỏ mạng nên vũ khí của chúng cơ bản còn nguyên. Mọi người bảo nhau khuân bằng hết. Pò Mạc nhìn lượng vũ khí chuyển lên ông biết, cộng với vị trí cao điểm, chỉ sợ chúng dùng bom cháy hoặc đại pháo câu lên vô tội vạ, chứ chỉ có lính bộ binh thế này thì không đáng lo. Chỉ là phải nghĩ cách dãn dân trước đã, nếu để lâu, dân thường không chịu được sẽ thiệt hại lớn. Cần phải đi thám thính xem tình hình chúng đóng quân thế nào đã. Bọn này mới sang, cậy đông sẽ không phòng bị cẩn thận lắm đâu. Pò Mạc và cánh dân quân tiếp tục cùng mấy người là dân bản địa, thông thuộc địa hình ở Đồng Đăng lần xuống các nhà dân gom góp lương thực mà bọn lính chưa kịp lấy, mang lên hang tiếp. Nếu kẻ địch bao vây dài ngày thì may ra chỉ có đêm nay là có thể lần lục được chứ ngày mai vòng vây sẽ xiết chặt bốn bề. Bốn phía, màn đêm yên tĩnh hơn. Đôi khi dội lên những tràng đại liên vu vơ hoặc mấy quả đạn pháo ùng oàng, nhưng cũng chẳng làm ai để ý.
Chờ mọi người chuyển lương thực lên xong, Pò Mạc và A Cường lần theo dốc núi đằng sau lưng mấy dãy nhà tạm của đám người Hoa bị đạn pháo bắn nham nhở, đi về phía trạm y tế Đồng Đăng. Bọn lính sau một ngày xung phong liên tục, bị đánh tơi tả, giờ ăn xong rồi lăn ra bãi đất ngủ. Thằng nào cũng ôm chặt súng trong lòng. Đó đây bập bùng đôi ba đống lửa cháy, chỉ có vài tên lính gác cũng đang ngặt nghẽo gà gật. Nếu có tấn công chúng cũng không kịp trở tay nữa. Pò Mạc về đến sân trạm y tế. Ánh đèn pin che vải đi, chỉ lộ ra khe ánh sáng rất nhỏ đã giúp ông nhìn được khá rõ. Hai dãy nhà của trạm y tế đã đổ sụp. Mái nhà bị đốt cháy rụi, những mảng tường đen xì nham nhở vỡ. Xung quanh sân rải rác xác chết. Pò Mạc nhìn thấy xác của con gái nằm giữa sân. Kì Liên đã lạnh cứng nhưng trên khuôn mặt không hề biểu hiện đau đớn mà phảng phất nét cười. Pò Mạc quặn thắt trong lòng. Câu nói của Thái Kiệt lão gia sau khi bị bọn Năng Tĩnh cho nổ tung ngôi nhà chính lại vang lên “Kẻ đã gieo gió thì tất sẽ phải gặt bão. Nhất định có ngày hắn sẽ lộ diện và sẽ bị chính người của dòng họ Hoàng này tiêu diệt.”. Kì Liên đã thay mặt tông phái để trừng trị kẻ phản đồ. Dù không chứng kiến trận đấu trực tiếp nhưng ông cũng đã hiểu quyết định của con gái. Nó đã hành động đúng dù rằng chấp nhận hi sinh. Dòng họ Hoàng Kì mất thêm một người nữa trong hôm nay nhưng kẻ thù đã phải đền mạng. Sự hi sinh đó là xứng đáng. Nếu là ông, ông cũng sẽ làm như thế. Làm con cháu nhà họ Hoàng, đó là sứ mệnh mà ai cũng muốn và sẵn sàng giành lấy. Nghĩ vậy, ông thấy lòng mình dịu lại đôi chút.
Bên cạnh đấy là y tá A Si, đầu vỡ toang chắc do báng súng đập vỡ. Cả hai người bệnh nhân nữa. Tên Năng Tĩnh cũng nằm đấy, lưỡi lê cắm trúng tim, cả xác tên chột nữa. Hóa ra, bọn địch không những dã man với người Lạng Sơn mà ngay đối với đám sĩ quan và đồng đội hi sinh, chúng cũng chẳng thương xót. Hai tên xấu số đã bị đồng bọn moi hết tư trang, còn xác chúng thì vẫn nằm phơi trên mặt đất. Pò Mạc bảo:
- A Cường, phải đưa Kì Liên về đền Mẫu để lo hậu sự đã
- Vâng ạ!
- Giờ ta chôn A Si và mấy người bệnh nhân cho họ đỡ tủi. Còn xác mấy tên khốn kiếp kia, con cứ vứt ra ngoài đường. Không nên để chúng làm ô uế nơi này nữa. Đồng bọn chúng không thèm để ý thì ta chẳng cần nhân đạo làm gì!
- Vâng ạ!
A Cường lấy dao đào ba cái hố đất cùng Pò Mạc ở ngoài vườn thuốc. Rồi anh bê xác từng người đặt xuống, nhẹ nhàng lấp đất và đánh dấu cẩn thận để sau này còn báo cho người nhà.
Pò Mạc cởi chiếc áo ngoài đang mặc đắp lên xác con rồi lặng lẽ bế con đi lên đền Mẫu. A Cường cầm súng đi trước cảnh giác. Dọc đường cũng không bị phiền phức gì mặc dù lán trại của quân Trung Quốc đang dựng lên ngay cạnh đó. Bọn lính gác cũng đã ngủ say hết cả. Trên đền, mọi người cũng ăn xong rồi nằm ngủ, chỉ còn mấy người chốt gác. Có thêm nhiều vũ khí đạn dược cùng lương thực lấy được của địch, mọi người đã yên tâm hơn. Sau một ngày chui trong hang tránh đạn ngột ngạt, nhiều người đã ra hết ngoài sân nằm ngủ cho thoáng, tiếng ngáy nhè nhẹ, rù rì. Thình thoảng có tiếng mấy đứa trẻ con ú ớ mê sảng, khóc thét lên vì sợ tiếng súng đạn.
Pò Mạc cùng A Cường và mấy dân quân chuẩn bị mọi thứ cho Kì Liên. Một chiếc khăn vải đỏ lớn vẫn dùng để phủ trên bàn lễ được các già chấp sự trải ra ngay ngắn trước điện thờ Mẫu. Pò Mạc bế xác con đặt xuống cho ngay ngắn. Ông lấy chiếc khăn ướt lau sạch những vết máu trên mặt, trên tay con. Ông chỉnh sửa lại mái tóc dày còn vương vãi lấm tấm mảnh vụn hoa hồi. A Cường tìm thấy các bó hương vẫn còn từ hôm lễ hội đền Mẫu liền châm lên rồi căm vào các bát hương trong đền. Ngoài mấy cây nến, những chiếc đèn pin mới lấy được của quân địch cũng bật sáng hết lên. Một số người dân tỉnh ngủ cũng bước ra giúp. Pò Mạc chắp tay làm lễ rồi đọc kinh chú cho con. Ông đã từng tiếp nối thầy Tào Phúc chăm lo hậu sự cho bao người ở vùng Cao Lộc, Văn Lãng, Thất Khê... trong hơn hai mươi năm qua, giờ đây lại làm cho chính con mình. Chưa đến mười năm, ông đã mất hai đứa con. Kẻ đầu bạc tiễn kẻ đầu xanh, sao mà xa xót, nghẹn ngào. Nhưng bên ngoài kia, còn biết bao nhiêu người dân tử nạn bởi trận chiến tàn khốc này còn đang nằm phơi xác ngoài đất lạnh, còn chưa biết đến bao giờ mới có nấm đất mà yên thân hay lại làm mồi cho chuột bọ. Tiếng chuông nhỏ vang lên đinh đang trong đền Mẫu khiến mọi người có mặt đứng sát vào nhau hơn. Mùi hương trầm thoang thoảng trong hơi sương đêm lạnh giá mù mịt. Nhiều tiếng xụt xịt của những người đứng xung quanh còn đang lo lắng cho những người thân bị lạc giờ còn không biết sống chết ra sao. Cuộc tấn công quá đột ngột khiến mọi người dù rất cảnh giác cũng không thể phòng bị kịp. Có biết bao nhiêu người đã lạc mất người thân khi đạn pháo đổ ập xuống như mưa. Tiếng chú vãng sinh tịnh độ của thầy Mạc vẫn vang lên đều đều:
...“Nẵng mồ a di đá bà dạ, đá tha già đá dạ đá địa dạ tha. A di lị đô bà tỳ a di lị đá tất đam bà tỳ. A di lị đa tỳ ca lan đế a di lị đa tỳ ca lan đá. Già di nhị già già na. Chỉ đá ca lệ ta bà ha...”
Đức Phật ơi! Thánh Mẫu ơi! Xin Người hãy phù hộ cho con dân vùng biên giới thoát khỏi kiếp nạn này. Mấy già chấp sự đền Mẫu ngồi sau Pò Mạc cũng đọc hòa theo. Tiếng tụng kinh lan tỏa khắp đỉnh núi. Đêm Lạng Sơn vẫn mênh mang, nhưng phía đông bắt đầu hơi sáng dần.
*
* *
Sáng ngày 18 tháng 2, khi sương mù vẫn còn dày đặc, đạn pháo lại chụp lên đỉnh núi đền Mẫu và pháo đài Đồng Đăng. Ngày hôm qua, việc cướp bóc và hiếp chóc đã xong. Cái gì cần phá, cần đốt ở các bản làng và thị trấn Đồng Đăng thì bọn lính bên kia biên giới cùng các đội dân binh đi theo hôi của đã làm hết. Đám người Hoa và cả một số người dân tộc thiểu số bị mua chuộc đã dẫn đường cho xe tăng địch tiến đến nơi cần đến. Đến lúc chúng dốc toàn bộ lực lượng để triệt hạ bằng được hai cao điểm ngoan cố này, nếu không sao có thể ngẩng mặt lên với các cánh quân khác được. Ba quân đoàn, hơn trăm ngàn người với đủ cả xe tăng, đại bác và nhiều vũ khí hạng nặng chẳng lẽ không thể xóa sổ được một nhúm người này hay sao. Sắc áo lính Tô Châu rùng rùng như sóng biển tràn lên khắp mọi nẻo. Tiếng kèn xung trận lanh lảnh, tiếng còi của bọn chỉ huy rít lên chói tai. Nếu như mỗi tên lính chỉ cần bắn một băng đạn AK thôi thì cả hai cứ điểm cũng đã phải dính hàng triệu viên đạn chứ chưa kể đến các vũ khí khác. Người đang nhiều, lớp này gục xuống, lớp khác chồm lên thay thế, đạp vào cả những cái xác còn nóng hổi bên dưới mà xông lên. Rồi lại gục xuống. Rồi lại xông lên. Máu chảy lênh láng cả chân dốc núi đỏ lòm. Bọn lính không có công sự làm điểm tỳ, chúng kê luôn súng lên đống xác chết mà bóp cò. Cả băng AK 30 viên cứ lia vô tội vạ, hết băng lại chúi xuống cho thằng khác lao lên. Những cái xác thành bia thịt đỡ đạn thay cho chúng ngày càng chất cao lên như tường thành. Dưới sân vận động thị trấn(1). Địch bố trí ở đó mấy khẩu đội pháo 122 ly, cứ thế nã thẳng về phía đền Mẫu và pháo đài. Từng chuỗi tiếng nổ chồng lên nhau, đỉnh núi rung chuyển, đất đá và mảnh pháo văng rào rào xung quanh.
Pò Mạc cùng các chiến sĩ tiểu đoàn biệt động và anh em dân quân phải chia ra để chống lại. Một số anh em trong nấp sau các khe đá nhắm thẳng vào tụi lính pháo mà tỉa xuống. Bọn pháo thủ trúng đạn vừa gục xuống lại có kíp khác lên thay. Chúng bắn như đổ đạn lên chốt. Lại thêm ba người nữa hi sinh. Lúc này, nhiều phụ nữ trong hang đền Mẫu cũng ra cầm súng chiến đấu. Bọn địch xông lên quá đông, không cần phải bắn giỏi cũng có thể nã trúng, thậm chí thường xuyên là xuyên táo hai ba tên nữa. Súng AK của đối phương hôm qua thu được chất đống ở góc sân đền. Mọi người bảo nhau một lúc là biết cách sử dụng. Ai không bắn thì đứng bên trong nạp đạn rồi chuyển ra cho những người ngoài công sự. Bão lửa từ trên cao tiếp tục chụp xuống lũ giặc ngoại xâm. Khắp dốc núi ngổn ngang xác giặc, mặt đất bị cày xới, khói bụi mù mịt. Mùi khét của thuốc đạn, của cây cối và xác người bị cháy bốc lên ngập trời. Mùi máu tanh lợm giọng. Pò Mạc nghiến răng xiết cò liên tục. Pò Khâm, Kì Hoằng, Kì Liên, ông Dìn Chiêng đã mất. Tất cả những gì ràng buộc với mảnh đất phía bên kia dường như đã tan vỡ hết. Lúc này, ông không còn gì phải chùn tay nữa. Ông bắn xối xả để phát tiết tất cả sự thù hận, bi thương trong lòng. Dù đau đớn bao nhiêu, nhưng ông hiểu quá rõ,
-------------------------------------------------------
1. Nay là trụ sở của UBND thị trấn Đồng Đăng
nếu không chặn đứng các cuộc phản công lên núi thì gần bốn trăm sinh mạng người dân trong hang cũng sẽ không còn. Hơn thế lại nơi đây toàn phụ nữ và trẻ em. Chắc chắn họ sẽ phải chết thảm thương hơn cả những gì con ông, cháu ông đã phải chịu nữa. Nỗi đau đấy là không gì bù đắp nổi. Cuộc chiến này không có chỗ cho lòng từ bi gì cả. Ông chỉ có thể làm nốt sứ mệnh hộ pháp mà bao lâu nay ông vẫn ám ảnh. Hủy diệt và chỉ có thể là hủy diệt mà thôi. Những đường đạn bật căng chính xác quất vào kẻ thù không nhân nhượng. Đang chiến đấu, đột nhiên Pò Mạc thấy có người lay vai mình. Đạn vẫn rú rít hai bên. Ông quay lại, một người phụ nữa lấy tay ra hiệu trong tiếng nổ ầm ầm. Ông vội xách súng chạy vào trong đền. Một người phụ nữ khác thay ngay vào vị trí chiến đấu. Những băng đạn mới nạp lại được chuyển ra các vị trí cùng lựu đạn. “Nước!... Nước!...” Có ai đó kêu lên. Nhưng bao nhiêu nước đã được chuyển ra từ sáng đến giờ, nửa để uống, nửa để tưới lên nòng súng AK bỏng rãy. Người đi xuống khe núi phía sau lấy nước chưa kịp lên. Bằng ấy cái cổ họng khô rát, nước bọt chỉ còn như chút chất dầu đặc quánh và đầy sạn trong mồm, không thể nuốt. Đột nhiên, có ai đó còn lấy trong hậu cung những chai rượu lễ còn đầy để từ hôm lễ Mẫu mang ra. Mấy người đàn ông như phát cuồng, vồ lấy chai rượu tu ừng ực. Hơi rượu làm đã cơn khát và khiến tinh thần hăng máu bội phần, quên cả vết thương trên người đau nhói. Cả mấy phụ nữ cũng làm theo. Rồi tất cả lại vồ lấy súng, nhằm quân thù nghiến răng xiết cò. Những vòi rồng lửa đỏ lừ lại bổ xuống đầu quân giặc tới tấp, tới tấp. Người phụ nữ gào lên át tiếng súng.
-Thầy Mạc! Có người đau đẻ, thầy mau vào giúp!
- Được rồi, chuẩn bị xong chưa!
Pò Mạc cũng hét lên đáp lại, giọng ông cũng khàn đặc cả rồi. Những tiếng nổ ầm ầm dậy lên trước cửa đền. Tiếng đạn AK rít lên đanh rát. Lại có thêm người hi sinh. Nhưng cả chục người phụ nữ khác lại cầm súng lao lên thế chỗ. Cuộc chiến không cân sức này không có sự phân biệt cho phụ nữ. Phải chiến đấu đến hơi thở cuối cùng, chứ quyết không để kẻ thù làm nhục được. Trừ mấy người quá già và các cháu nhỏ. Còn lại đều lần lượt thay nhau ra ngoài cửa hang để trợ chiến. Số lượng người bị thương cũng tăng lên, mọi người tự băng bó cho nhau. Tiếng súng nổ đã át cả những tiếng rên la đau đớn. Mặt mọi người ai cũng trở nên bình thản lạ lùng. Cái chết có vẻ không phải là nỗi sợ hãi với họ lúc này nữa
Trong hang đá, mọi người đã dẹp riêng một chỗ cho người phụ nữ đang trở dạ. Người sản phụ chừng ba mươi tuổi đang cơn đau khẽ kêu lên thành tiếng, người vặn vẹo. Cái bụng khẽ nhô lên hụp xuống theo nhịp thở. Mấy chiếc áo được mọi người cởi ra trải xuống làm tã quấn. Thấy Pò Mạc bước vào, mấy người phụ nữ dãn ra nhường lối. Pò Mạc cũng đã đỡ đẻ cho nhiều người suốt thời gian từ năm 1950 cho đến khi Kì Liên đi học y tá về thay thế cho nên ông rất thạo việc. Ông lấy mấy bọc quần áo của mọi người kê bên dưới cho người sản phụ hơi nâng được đầu cao lên cho thoải mái lấy hơi và rặn dễ dàng hơn.
- Nào, cứ thở đi, con! Đẻ con dạ hả? Ừ. Không lo đâu, sẽ nhanh thôi!
Tiếng ông thật nhẹ nhàng. Vẻ mặt vừa đanh lại khi cầm súng giờ đã dãn ra, từ hòa và đầy sự quan tâm. Thói quen của người thầy lang giàu kinh nghiệm đã khiến ông lấy lại bình tĩnh rất nhanh. Ông cẩm cổ tay bắt mạch, kiểm tra mạch tượng thấy rất ổn. Chắc là chỉ đẻ thường thôi.
- Tập trung lấy hơi, rặn nào! Cửa mình mở rồi đấy!
Người phụ nữ há miệng hít mấy hơi, rồi rặn mạnh. Khuôn mặt chị đỏ phừng lên, mồ hồi rịn ra hai bên thái dương, một tay khẽ ôm lấy bụng, một tay vịn chặt lấy người phụ nữ vừa nãy. Mấy người phụ nữ xung quanh nín thở. Có người vội quay đi không dám nhìn. Tiếng thầy Mạc vẫn động viên:
- Gần được rồi, cố lên! Giỏi lắm! Rồi, nào... nào... ra rồi!
Ông reo lên vui vẻ. Tiếng khóc oe oe vang lên thật rõ. Mọi người thở phào nhẹ nhõm. Người mẹ sau cơn vượt cạn vật vã đã nằm ngửa ra thở hổn hển, ánh mắt ánh lên niềm vui. Pò Mạc hơ lưỡi dao lên lửa sát trùng rồi nhanh chóng cắt dây rốn, rồi quấn mấy chiếc áo lại ủ cho đứa bé, đặt nhẹ nhàng xuống bên cạnh người mẹ. Một người mang đến cho chị cốc nước đường còn nóng uống cho đỡ mệt. Pò Mạc lấy nửa củ sâm trời trong túi cắt một miếng cho người mẹ ngậm cho nhanh phục hồi thể lực.
- Con gái rồi! Cứ yên tâm, đẻ thường giữa lúc lửa đạn thế này là được Mẫu thương rồi đấy, may mắn lắm. Mừng hai mẹ con nhé!
Ông nói vậy rồi nhanh chóng quay ra chốt chiến đấu, mọi người cũng vào chia vui. Khuôn mặt của người mẹ ngập tràn hạnh phúc dù bên ngoài, tiếng của tử thần vẫn cuồng loạn, mưa đạn vần vũ quanh đỉnh núi. Cổng đền Mẫu bị trúng đạn pháo vỡ toác, các bức tường bên ngoài lỗ chỗ đạn pháo, một bức đã sụp xuống. Hai pho tượng hộ pháp mà Pò Mạc cung tiến xây dựng trước Tết đứng sừng sững cũng bám đầy bụi đất, lỗ chỗ đạn AK và mảnh đạn pháo găm vào. Cây cối trên đỉnh núi bị đạn pháo phạt trụi lủi. Xen giữa tiếng pháo nổ ầm ầm, tiếng khóc của đứa bé gái mới chào đời vang lên từ trong hang khiến đường đạn của mỗi người trên chốt như bật căng hơn. Trên cao, Mẫu Thượng Thiên như đang hoan hỉ bảo vệ cho sinh linh mới nhập thế. Dưới chân núi, quân địch đang cuống cuồng rút chạy. Chúng bỏ mặc những đứa bị thương đang lê lết rên rỉ kêu gào trên dốc. Máu đỏ thành dòng loang ra, lép nhép dưới những bước chân tháo chạy. Đợt tấn công thứ mười một trong ngày đã bị bẻ gãy...
V - VỀ LẠI NƠI SINH THÀNH
Đến tối ngày 18 tháng 2, lực lượng giữ chốt của tiểu đoàn cảnh sát cơ động của Công an Lạng Sơn được lệnh tìm cách đưa dân ra khỏi hang đền Mẫu để về tuyến sau. Mặc dù bọn địch đã chiếm được thị trấn Đồng Đăng nhưng rừng núi phía sau đền Mẫu mênh mông, khó có thể chặn hết được các ngả đường. Trong ba hôm tiếp theo, trong khi Pò Mạc cùng mấy dân quân tranh thủ vừa chiến đấu vừa lợi dụng đêm tối xuống lấy vũ khí lương thực của địch thì một số chiến sĩ lực lượng cảnh sát cơ động giữa chốt đưa từng nhóm dân lần theo lối xuống con suối phía sau triền hang, vượt qua vòng vây của địch về tuyến sau. Sau khi đưa hết dân về nơi an toàn, mọi người tiếp tục trở lại bám trụ hang đá đền Mẫu chiến đấu. Dù càng ngày càng ở vào tình thế bất lợi vì thương vong nhiều nhưng mọi người còn lại đều vững vàng bám trụ ngoài chiến hào, đợi địch đến thật gần mới nổ súng, kiên quyết không cho kẻ thù có thể chiếm được ngôi đền cổ nhất linh thiêng nhất của xứ Lạng.
Đến sáng ngày 23 tháng 2 năm 1979, địch chiếm được pháo đài Đồng Đăng. Để trả thù cho lượng quân sĩ đã bỏ xác trước pháo đài, chúng đã dùng tới gần 10 tấn thuốc nổ để phá hệ thống lô cốt này. Tuy nhiên chỉ làm sập được phần trên cùng của lô cốt, còn hệ thống tầng hầm ngầm thứ ba vẫn nguyên vẹn. Được thể quân địch tập trung vào điên cuồng tấn công lên đền Mẫu Đồng Đăng. Những màn lửa đạn và đại pháo dày đặc liên tục chụp xuống đỉnh núi. Thầy Mạc cùng mọi người chiến đấu vô cùng dũng cảm, ngoan cường. Cuối cùng, ông bị một quả đạn pháo nổ ở gần đẩy ông văng xuống khe công sự rồi choáng ngất đi, may có pho tượng hộ pháp bị đạn pháo hất đổ đè lên phía nửa trên công sự che chắn nên các loạt pháo tiếp theo không làm gì được ông. Mãi đến chiều, cuộc chiến tạm ngưng, mọi người mới đỡ ông vào trong đền. A Cường sờ túi ông thấy có nửa củ sâm trời liền cắt cho ông ngậm luôn...
Trong khi đó, ở phía Nam, ngày 27 tháng 2, Quân đoàn 2 lực lượng chủ lực của Bộ quốc phòng, trong khi đang làm nhiệm vụ đánh tàn quân Polpot ở Campuchia được lệnh cơ động gấp toàn bộ lực lượng ra Bắc. Để tăng tốc, các máy bay trực thăng và máy bay vận tải của Trung đoàn không quân 916, Đoàn 918 và Đoàn 919 Tổng cục Hàng không dân dụng Việt Nam cũng phối hợp với không quân Liên Xô, khẩn trương tập kết và vận chuyển Quân đoàn 2 từ mặt trận biên giới Tây Nam lên biên giới phía Bắc tăng viện. Đó cũng là lần chuyển quân thần tốc nhất của lực lượng vũ trang Việt Nam từ trước tới giờ.
Vào ngày 5 tháng 3, Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng công bố lệnh Tổng động viên toàn quốc để giáng đòn tiêu diệt quân xâm lược, bảo vệ độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Một số đơn vị của quân đoàn 1 và cả quân đoàn 2 được điều thẳng lên biên giới trong đó có khu vực Lạng Sơn được triển khai cấp tốc. Thế nhưng khi các lực lượng chủ lực của ta vừa đến nơi chưa kịp tham chiến thì bên phía địch tuyên bố rút quân vì lí do đã thực hiện xong cuộc “hoàn kích tự vệ”. Hai sư đoàn 320B và 304 theo kế hoạch sẽ phối hợp phản công trên hướng Bản Chắt(1) nhưng do về muộn nên lúc đó chiến dịch hiệp đồng phản công của 2 sư đoàn này được ngừng lại. Một bộ phận của Sư đoàn 304 do Kì Sung đảm nhiệm đã kịp thời chuyển lên tham gia đánh địch tại Trà Lĩnh(2) .
Ngày 6 tháng 3 năm 1979, địch rút quân khỏi thị xã Lạng Sơn. Ngày 15 tháng 3 năm 1979, địch rút khỏi thị trấn Đồng Đăng, chấm dứt cuộc xâm chiếm biên giới phía Bắc thuộc địa phận tỉnh Lạng Sơn. Thiếu tá Thân Kì Sung vội báo cáo Sư đoàn 304 rồi quay về Lạng Sơn tìm gia đình. Cả Kì Hùng, Kì Mạnh và Kì Hạnh cũng về. Pò Mạc vẫn còn sống nhưng sức khỏe đã giảm sút rất nhiều. Trí nhớ bị ảnh hưởng, khi nhớ khi quên. Mọi người trở về Nà Pàng dựng lại nhà cửa, ổn định lại mọi việc rồi làm lễ cúng
-----------------------------------------------------------
1. Thuộc huyện Đình Lập
2.Thuộc tỉnh Cao Bằng
ma cho Kì Liên. Mẹ con o Liên ở Huế cũng ra chia buồn.
Đến tháng 4 năm 1979, thầy Mạc đã quyết định truyền thừa lại võ công và pháp quyết nghề Tào lại cho Kì Sung. Ông cũng để lại cho Kì Hạnh mấy cuốn sách thuốc ông viết. Năm sau, Kì Sung cộng cả thời gian đi B đủ năm công tác đã làm thủ tục nghỉ hưu và tiếp tục làm thầy Tào ở đất Cao Lộc. Còn thầy Mạc, sau khi hoàn tất mọi thứ trên Nà Pàng đã về nhà ở Thái Bình, ở với người con dâu và cháu gái cùng gia đình cô Thơm.
Chùa Miễu vẫn bị đóng cửa suốt từ hồi cải cách ruộng đất. Chính quyền địa phương vẫn duy trì cái nhà trẻ mẫu giáo chắn phía trước cửa chùa. Pho tượng ông Hộ Pháp đã bị sụp đổ do mưa nắng hoang phế, chỉ còn lại gốc đa cũ. Rất nhiều lần người dân mấy làng xung quanh đề nghị cho phục hồi lại nơi thờ tự để tiện hương khói nhưng vẫn chưa được chính quyền giải quyết. Hai đứa con trai nhà cô Thơm, hàng ngày vẫn được gửi trẻ ở nhà trẻ dưới ấy. Thầy Mạc chiều nào cũng thong thả chống gậy đi xuống đón hai cháu về vì mẹ nó đi dạy học ở trường cấp 2 Vũ Phúc về muộn, bố bận đi công tác. Mấy ông cháu lại dung dăng dung dẻ suốt trên đường về nhà. Thỉnh thoảng, thầy Mạc lại kể chuyện đua trâu, bắt tò vò đất ngày xưa cho các cháu nghe, chúng cứ tròn mắt ngạc nhiên, hong hóng nhìn ông. Hôm nào thấy trong người khỏe, ông lại còn múa cả quyền cho chúng xem nữa. Hai đứa cứ cười như nắc nẻ rồi vỗ tay.
Đến chiều ngày 12 tháng 12 năm 1980 tức ngày 6 tháng 11 năm Canh Thân, thầy Mạc đang ngồi dưới gốc đa chờ các cháu tan học thì thấy người khó chịu, rét run lẩy bẩy, mắt cứ mờ dần đi. Rồi cứ thế ông lịm đi dưới gốc cây đa cổ thụ. Đến khi mọi người phát hiện ra đưa về nhà thì đã cấm khẩu rồi đến đêm thì ra đi. Đám tang được tổ chức trọng thể. Gia tộc họ Thân ở Lạng Sơn và nhiều đệ tử lò võ từ khắp nơi cũng về viếng rất đông. Nghe nói trong đêm thầy Mạc ra đi, phía gốc đa chùa Miễu, người ta nghe thấy có tiếng trâu lạ kêu rất to. Có người cứng bóng vía chạy ra thì thấy một bóng trâu trắng lớn thủng thẳng bước vào chỗ gốc đa kêu lên mấy tiếng nữa rồi biến mất.
...
(*Hiện nay phần mộ của thầy Trịnh Văn Mạc, bà Hoàng Thị Miên và con trai là Trịnh Văn Tôn được an táng cạnh nhau tại nghĩa trang xã Vũ Phúc thành phố Thái Bình. Còn chùa Miễu, sau khi được chính quyền cho phép, đã được nhà sư Đàm Lan, đệ tử của sư thầy Đàm Nguyệt ở trên chùa Khánh Thượng vận động dân làng xung quanh và những người có tâm công đức xây dựng lại. Tuy không được to nhưng vẫn là nơi dân quanh mấy làng đến hương khói và nghe giảng Phật pháp. Cuộc đời cứ tiếp diễn vô tư như nó vốn có, chỉ có gió mưa và thời gian đang làm mờ dần đi ký ức của một thời gió bụi chiến chinh thôi...)
Bắt đầu viết 26-7-2016
Viết xong ngày 03-10-2016.
Sửa chữa lần 1 xong 18-12-2016
Sửa chữa lần 2 xong ngày 23-8-2020
TRÂN TRỌNG CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ ƯU ÁI THEO DÕI TRUYỆN
-------------------------------------------------------------
Ảnh: Phần mộ của cụ Trịnh Văn Mạc cùng vợ và con trai tại nghĩa trang xã Vũ Phúc, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình




Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét