Bài viết về ông Hai Khuyên, người tu sĩ đạt đạo tối giản thân tâm.
Tối giản tâm thân giữa mùa dịch
Cuộc đời thanh thản mà muông thú cũng thân thiện, hoa cỏ cũng đón chào. Những câu chuyện về đạo hạnh của một con người sống lặng lẽ được truyền lại.
Người thầy dạy thuốc cho tôi nói “Hãy viết về ông Hai, một người có một không hai”. Ông khác ở cuộc đời này là gì? “Ông ấy sống qua ba chế độ, qua bao nhiêu cuộc chiến, bao cuộc bệnh tật đói no, đều không xài tiền”.
Một người thầy tôn kính khác của tôi lại kể về thời thầy còn trẻ đi tầm đạo nghe đồn ông Hai Khuyên rất minh triết cũng có tìm đến thăm ông. “Hỏi gì ông trả lời cũng thông suốt, ai chê ông sai ông không hề giận hờn hay đôi co, ai khen ông nói đúng ông cũng không hề mừng vui săn đón”.
Một người bạn vong niên rất đáng tin cậy cũng từng nghe đồn rồi tìm đến ông Hai. “Chỉ cần nhìn thấy bác Hai thôi là mình đã muốn ở hiền rồi”.
Cốc ông Hai nằm sâu sau những mảnh vườn. Một cuộc sống rút sâu trong hậu cứ.
Chú Tư, người đã hiến miếng đất này để ông Hai cất cái cốc lá tu hành ngồi rỉ rả kể chuyện ông Hai:
- Năm đó tôi hai mươi bảy tuổi, làm ăn khấm khá nên mua được ba công đất. Tôi nới với ba tôi thôi mình rước bác hai về đây tu. Ông già đi tu khắp nơi. Ông đâu có đất nên tới chỗ nào cất cái cốc nhỏ nhỏ rồi tu. Xung quanh có đất đai gì ông cũng trồng trọt. Trồng vậy đó ai ăn thì ăn, con gì ăn thì ăn. Đói thì ông đi kiếm rau dại về luộc cho qua bữa. Ông không bao giờ kể cho mọi người nghe mình no đói vui buồn thế nào. Cha con tôi thì hay để ý hỏi han nên biết, nên hay đem gạo cho ông nấu cơm. Cho gạo đều đều nhưng lâu lâu giở hủ gạo lại thấy hủ trống không, nồi thì không cơm mà chỉ toàn rau luộc. Hỏi ra mới biết có mấy người giăng câu gặp trời mưa gió nên ghé cốc đục mưa. Họ than mưa gió không có tiền mua gạo cho bầy con ở nhà. Vậy là bác Hai vét hết gạo chia cho họ. Đói thì ăn rau luộc.
- Giữa bao nhiêu người tu như vậy, sao một người trẻ tuổi, người dưng nước lã, mới tích cóp được ba công đất chú lại nghĩ tới chuyện cắt đất cất nhà cho ông Hai tu hành.
- Bác Hai tu mà không phải cầu cạnh mình kiếp sau giàu, kiếp sau sướng. Tu để không bị vướng vô vòng giành giật mạng sống kẻ khác để vun bồi mạng sống của mình. Cô nghĩ coi, một thân một mình không lận lưng bất cứ đồng bạc nào hộ thân, mấy chục năm ở đây hoặc ở nơi thâm sơn cùng cốc như hòn Sơn bác Hai sống như thế nào? Người hiền như vậy mình không bảo vệ họ thì trên đời này còn đâu nữa người hiền.
- Vì sao ông Hai không xài tiền? Những đồng tiền lương thiện cũng đâu có hại ai.
- Còn tích lũy tiền bạc hộ thân là còn sợ mình đói khổ. Khi còn sợ đói khổ thì đầu óc mình còn mê muội, tích lũy bao nhiêu cũng thấy thiếu, thậm chí tích lũy cho kiếp này còn tích lũy cho kiếp sau. Khi bác Hai muốn mình thong dong tâm trí để nhận rõ trắng đen nên không để tâm gìn giữ bất cứ món gì kể cả mạng sống của mình.
Ông Hai tối giản cuộc đời mình để thong dong. Tầm đạo cả đời và ngộ đạo từ một lần bị ngược đãi.
Lúc đó, ở quê nhà khó tu vì người ngưỡng mộ ông quá nhiều, họ đồn đãi nhau rồi kéo nhau đến chỗ ông rất ồn ào dù ông chưa hoàn toàn đắc đạo. Ông thấy không ổn nên bỏ xứ ra tận hòn Sơn để tu tâm luyện trí một mình. Chốn thâm sơn cùng cốc, ông lặng thầm trồng trọt và vui thú với rau cỏ núi non. Trước cốc, ông trồng một cây mít, lâu lắm cây mới ra được một trái. Cả vườn chỉ có một cây mít có một trái đầu tiên. Có người tìm tới xin ông trái mít. Hẳn nhiên ông từ chối. Khi ông vào nhà trở ra thì trái mít không còn mà cây mít cũng đã bị bứng tận gốc từ lúc nào.
Ông không nhìn thấy trong câu chuyện là một người vãng lai độc ác ăn trái nhổ cả gốc. Ông nhìn thấy nơi đó là một bài học thử thách sự buông bỏ của người tu. Tiếc một trái mít chẳng qua là tiếc một miếng ăn để duy trì cuộc sống mà bản thân ông cho là phù du tạm bợ.
“Không có cái gì là của mình kể cả xác thân này”. Tôi cũng đã nghe nhiều người nói câu này nhưng tôi không tin bởi họ còn sợ nhiều thứ. Có người sợ mình chết phải đầu thai thành người không biết tu. Có người sợ bệnh tật. Có người sợ con cháu mình không biết tu sẽ khổ nên ép nó tu. Có người sợ dân chúng không biết tu sẽ khổ nên ép dân chúng tu. Và tất cả đều sợ chết.
Những cái sợ tưởng rất lương thiện đó đã khiến cho con người hiền nhất cũng phải tối tăm mày mặt để hóa giải nỗi sợ nhưng thật ra là làm nỗi sợ bành trướng lớn lao hơn. Càng hóa giải con người càng bị kiệt sức, sa vào bệnh tật và bệnh tật sẽ tước đoạt mọi dũng khí và rồi cái sợ lúc này điều khiển tâm trí con người.
Ông Hai nhận ra ánh sáng của sự sống nó nằm ở chỗ để không sợ gì cả thì phải không sở hữu gì cả, cả thân xác do mình mang kể cả những uy tín do mình bỏ tiền bỏ bỏ công sức mua lấy vun bồi. Khi mình không sở hữu gì hết nên mình không sợ mất gì hết, ai lấy cũng được, ai nặng nhẹ cũng chẳng buồn. Ông cứ cặm cụi làm việc. Thành quả làm ra ai ăn hết không buồn, ai chừa lại cũng không vui. Người ta không thấy ông bị suy dinh dưỡng vì những bữa rau. Người ta không thấy ông bị khờ đi vì một mình cắm cúi trong chốn hẻo lánh thiếu hơi người. Thậm chí hỏi bất cứ điều gì về cuộc sống về đạo lý ông đều trả lời thông suốt hợp tình như một người từng đọc nhiều sách thánh hiền. Ông có biết chữ nào đâu mà đọc sách.
Tri thức ông có được từ đâu?
Những đứa trẻ thần đồng, tri thức có được từ đâu? Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm tri thức có được từ đâu bởi người ta không nói ông được thông minh nhờ những bật thầy nào cả? Vốn dĩ mọi thứ có sẵn trong mưa gió nắng nôi, có sẵn trong sự sống sự chết mà mỗi con người đã trải qua. Những con người cô độc họ không trò chuyện bởi ngôn ngữ loài người quy ước mà trò chuyện bởi ngôn do tạo hóa quy ước. Bài học vô ngôn tạo hóa rải đầy khắp nơi từ chốn cao sang lẫn chốn thấp hèn, từ con người nhiều lý luận cho tới những con kiến, con sâu, con vi rút chỉ biết sống lặng thầm.
Nhìn cuộc đời ông Hai tôi nhớ về muôn dặm không mây. Trần Huyền Trang muốn có bài học giải thoát của đức Như Lai phải trải qua bao nhiêu đồi núi với những hiểm nguy trùng trùng điệp điệp. Một ông Hai cũng muôn dặm không mây nhưng ông không kể lại. Khi nhìn thấy hàng chục ngàn con chim yến đổ về sinh sống cạnh ông người ta nói nó là loài chim đến từ hòn Sơn, chỉ có chúng nó chứng kiến hành trình đơn độc, khổ hạnh mà ông không một lần kể lại. Cuộc đời thanh thản mà muôn thú cũng thân thiện, hoa cỏ cũng đón chào. Những câu chuyện về đạo hạnh của một con người sống lặng lẽ được truyền lại. Để rồi chẳng có một đồng một cắc nào để lại làm của hương hỏa cho đời sau nhưng ngày giỗ của ông trăm hoa đua nở, hàng mấy trăm người cứ quây quần cúng bái như đám giỗ người thầy tổ của mình.
Dịch bệnh nhìn đâu cũng thấy những ẩn ức, nhìn đâu cũng thấy những thân phận. Chiến đấu với dịch bệnh nhiều khi không đáng sợ bằng chiến đấu với những đòi hỏi của những thói quen. Trốn làm sao khi dòng sống cứ cuộn trào cứ không ngừng đòi hỏi. Ngồi nghĩ về tối giản của đời người để con vật sống trong lòng mỗi người chịu lắng lòng tối giản. Tối giản một cách tuyệt đối để người người đều như ông hai Khuyên thì cuộc đời này là không tưởng. Bởi tạo hóa thích phong phú mà người sinh ra chính cuộc tham sân si để đẩy con người mải miết với những cuộc khám phá không ngừng. Nhưng khi lực bất tòng tâm, như cây bồ đề mọc trên vách đá gặp mùa hạn hán thì nó cũng đã phải dừng lại cuộc sinh sản của mình, trút bỏ hết những chồi xanh lộc biết thu gọn sức sống nén chặt giữa thân cây rồi ngủ vùi mà chờ đợi.
Chúng ta giữa mùa đại dịch tối tăm này, phải dừng lại nhìn một tấm gương tối giản tuyệt đối để tối giản thân tâm, tối giản luôn cả nỗi sợ của mình, bình tâm thu hẹp dần sự sống như cội bồ đề giữa mùa hạn lớn. Bình tâm là đề kháng và đề kháng là chiến thắng sau cùng giữa mùa đại dịch. #tanvanvodieuthanh
Võ Diệu Thanh.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét