Trong một thời gian ngắn, các cấp ủy, cán bộ, ban quân sự của huyện theo chỉ đạo của trên đã khẩn trương phối hợp đưa được tám vạn dân của thị xã Quảng Trị và của hai huyện Triệu Phong và Hải Lăng, những địa bàn địch đánh phá ác liệt nhất đến các nơi an toàn, sau đó đưa phần lớn đồng bào ra Vĩnh Linh. Bận bù đầu tối mắt luôn. Nhất là sang tháng 7, đồng chí Tâm, Huyện đội phó của tôi đã hi sinh trong một trận chiến đấu ác liệt. Buổi sáng hôm đó, khi một tiểu đoàn lính thủy đánh bộ được pháo binh và thiết giáp yểm trợ tiến công vào xã Hải Quế(1) hòng đánh bật bộ đội và du kích ra khỏi xã này. Đơn vị chiến đấu của Tâm đã diệt 30 tên, phá hủy hai xe GMC, bắn rơi một trực thăng. Đến chiều hôm đó, sau nhiều lần dùng pháo binh và máy bay phản lực đánh phá, ba chiếc trực thăng của chúng đã phát hiện ra hầm của Tâm và một số hầm khác. Chúng đã dùng rốc-két từ trực thăng bắn
------------------------------------------------------------
1. Đây là một ngã ba trọng yếu lên thị xã Quảng Trị
vào hầm. Tâm anh dũng hy sinh(1). Nhân sự Hải Lăng đã thiếu lại càng thiếu hơn.
Đầu tháng 9 năm 1972, cuộc chiến ở thành cổ đã đến hồi cực kì khốc liệt. Trung bình hàng đêm bên ta có một đại đội tăng cường khoảng hơn 100 người vượt sông Thạch Hãn sang thành cổ và cũng có từng ấy con người ra đi không trở về. Về phía Thủy quân Lục chiến của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, trung bình mỗi ngày có 150 binh sĩ Cọp Biển chết trận, chưa tính tổn thất của các đơn vị khác. Hội nghị Pari kéo dài, khiến quân Mĩ ngụy điên cuồng tìm mọi cách đổ bom đổ đạn vào thị xã Quảng Trị để hòng đánh bật lực lượng liên minh của ta. Hôm đó, tôi và cô giao liên An, hôm trước gọi tôi là “chú”, vượt sông Thạch Hãn ra Sở chỉ huy lựa lượng bảo vệ thành cổ Quảng Trị để họp và chuẩn bị đưa tiếp lực lượng vào. Hai chú cháu dậy sớm mang theo cái gùi vải đựng hai chục cây thuốc lá Ruby Queen vỏ màu xanh chiến lợi phẩm thu được ra làm quà cho mọi người. Thời đó, đa số lính Mỹ ngụy thường hay hút thuốc lá Ruby Queen hay J. Bastom bao trắng sản xuất ở Sài Gòn. Cách nào rủng rỉnh tiền thì hút thuốc ngoại nhập như Pall Mall, Salem, Lucky Strike, Philip Morris…, đặc biệt là loại thuốc lá Salem(2)…
---------------------------------------------------------
1. Sau này đồng chí Trần Thị Tâm được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.)
2. Thời đó cánh thanh Niên Sài Gòn khi đó rất thích ý nghĩa nhãn thuốc này vì khi đọc xuôi thì là “Sao Anh Làm Em Mệt” còn khi đọc ngược thì lại là “Mà Em Làm Anh Sướng”...
Vượt qua khu vực Như Lệ đầy các chốt cao điểm vành đai nam sông Thạch Hãn sang Thượng Phước rồi Ái Tử trong khi bọn máy bay trinh thám cứ vè vè bay trên đầu theo dõi, thỉnh thoảng lại nã đạn xuống những rặng cây rừng mà chúng nghi ngờ. Cùng với tiếng máy bay chỉ điểm vè vè, thỉnh thoảng chen tiếng ụt ụt của đạn 20 ly từ xa, tiếng bom ùng uỳnh vọng lại... Gần đến tối chúng tôi gặp hai tiểu đoàn lính từ ngoài Bắc vào đang ngồi nghỉ, chuẩn bị đến đêm thì vượt sông. Dưới tán cây rừng, tăng võng mắc san sát trên những chiếc cọc phụ xung quanh các gốc cây của các đơn vị đi trước để lại. Cọc nào cọc ấy đều lên nước bóng vì biết bao lượt quân ra quân vào dừng nghỉ tại đây. Phía trước tôi cũng là một nhóm thương binh quay ra, mọi người hỏi thăm nhau í ới. Toàn lính trẻ măng chỉ chừng mười chín hai mươi tuổi. Tôi đoán chắc là cánh sinh viên các trường đại học thực hiện chủ trương quân sự hóa học đường mà Nam tiến. Lính tráng mặc toàn quân phục bằng vải Tô Châu mới trông đẹp đẽ và rắn rỏi hơn hẳn. Chả bù cho chúng tôi ngày trước khi đi B chỉ mặc quân phục bằng vải Hung nặng chịch mầu vàng đất, khô không khốc. Tôi liền nói giọng Bắc.
- Chào các đồng chí, mình là Huyện đội trưởng huyện Hải Lăng, giờ ra Sở chỉ huy tiền phương họp. Mình cũng ở Bắc vô Quảng Trị hơn mười năm rồi. Xem có ai đồng hương không nào. Các đồng chí quê ở đâu?
Cánh lính trẻ nhấm nháy nhìn cô giao liên An đứng sau tôi, rối rít nói:
- Báo cáo bố là có đủ cả đấy ạ. Bố có tuyển lính làm rể không ạ! Con gái bố đây ạ!
Chắc cánh lính trẻ nhìn tôi râu ria tùm lum nên xưng bố ngọt xớt. Cô giao liên An đứng sau tôi mặt đỏ bừng lên cúi xuống vân vê tà áo bà ba.
- Kìa! Đứa nào ra nhận đồng hương, bố gả con gái cho kìa! Em ý đỏ mặt đồng ý rồi đấy!
- Em ơi, lính Bắc không đẹp trai nhưng nổi tiếng chung tình với nhiều cô đó em.
Một đồng chí chững chạc hơn, có lẽ là chỉ huy bước ra nói:
- Báo cáo thủ trưởng, em quê Bắc Ninh ạ!...
- Còn em, dân thịt chuột phủ Khoái Hưng Yên!...
- Em buôn bánh chưng đất ở Hải Dương, thủ trưởng có đặt không em nhờ người chuyển vào cho nhé, mua một tặng một luôn!
- Có em dân thuốc lào Vĩnh Bảo đây!...
- Còn em dân rau má nè...!
- Mí lị cả em dân “xin xà phòng” nữa...!
Lao xao vui vẻ một hồi, tôi chợt hỏi:
- Có đồng chí nào ở Lạng Sơn hay Thái Bình không nhỉ?
- Ối giời ơi, dân nhà máy cháo thì đầy! Ai Thái Bình giơ tay nào? Cái cậu vừa nói, cười ha há, gào lên về phía đằng sau rồi hát rống lên:
“Thái Bình có cái cầu Bo
Có nhà máy cháo có lò đúc muôi”
Có nhiều tiếng cười phá lên, rồi đấm vào lưng nhau bùm bụp. Một loạt cánh tay giơ lên, tiếng “Thái” lao xao:
- Có em...! Có con...! Bố đồng ý gả em nhà mình cho con bố nhớ!
- Con ... cao to đen hôi hơn. Bố chọn con bố nhớ!
Thế là cánh lính Thái Bình xúm lại hỏi han. May quá tôi làm con rể Thái Bình, cũng có một lần theo thầy Mạc về quê, gặp đúng vụ Cải cách ruộng đất nên nhớ mãi. Đang tếu táo một lát tôi hỏi:
- Mình đi họp chẳng có gì cả, chỉ mang theo ít thuốc lá chiến lợi phẩm. Các đồng chí có ai hút thuốc không?
Lập tức cả đám lính ào ào reo lên “có” rồi xúm lại, bỏ hết cả các chuyện khác. Cái đồng chí dáng chỉ huy còn vừa cười vừa nói:
- Thủ trưởng có biết không, chỉ có mỗi thuốc lá đã là quà đặc biệt, quý hiếm lắm rồi còn gì. Hơn tuần nay, mấy cái thằng đốt thuốc như đốt bùi nhùi rơm này phải nhịn thèm rồi đây, thủ trưởng ạ. Liệu thủ trưởng có đủ thuốc chia cho chúng nó không?
Thấy vậy, tôi liền nói:
- Có đủ, cứ yên chí. Mình đề nghị như thế này. Các đồng chí xếp hàng đi phát cho tiện. Có bao nhiều người nhỉ. Khoảng bảy trăm à. Thế thì đủ đấy. Mỗi đồng chí ba điếu được không. Để cho ai cũng có phần!
- Ối trời, mỗi thằng ba điếu cơ à. Bố ơi, sao mà bố của con giàu thế. Thế này thì con xin làm con rể bố cả mấy đời mất! Cái giọng hài hước lại vang lên, cả lũ cười khành khạch.
- Nào, các đồng chí, xếp hàng vào. Mỗi người chỉ rút ba điếu thôi nhé.
Tiếng đồng chí có dáng là chỉ huy nói to.
- Rõ!
Cánh lính đáp lời rồi nhanh chóng đứng vào hàng, mắt nhìn tôi và cô giao liên như muồn hút hồn. Tôi ngoái lại bảo An:
- Cháu bóc thuốc ra mời anh em nhé.
- Dạ!
Giọng An ngọt lịm khiến mấy chú lính trẻ cứ đờ đẫn cả ra. Đến lúc rút thuốc lá cứ lóng nga lóng ngóng mãi! Cả tôi và An bóc từng bao thuốc ra mời cánh lính. Đến đâu mọi người cũng giới thiệu tiếp luôn, rồi cảm ơn rối rít. Có điều nhiều người quá, nên tôi cũng không nhớ hết được. Mới lại trời cũng nhá nhem tối nữa. Có cậu xin đổi khẩu AK mới toanh của Trung Quốc có lưỡi lê gập cùng hai cơ số đạn(1) lấy khẩu M16 có kèm súng phóng lựu tôi đang khoác trên vai. Có cậu còn xin đổi cho tôi chiếc mũ cối mới toanh để lấy chiếc mũ tai bèo của Quân giải phóng nữa. Tôi cười trừ, kiểu gì cũng được.
- Em ơi! Nhanh tay lên chút được không. Thèm thuốc quá rồi!
- Dạ, các eng chờ chút xíu thôi mà! Ai cũng có phần mà!
An trả lời vừa cười tươi rói. Cánh lính càng mê mẩn nhìn. Cái cậu tếu táo lại véo von tán tỉnh.
- Mời thuốc thế có mời người không em!
- Dạ! Có chứ. Các eng vào đánh Mĩ giúp người Quảng. Người xứ Quảng không có tiếc chi. Các eng ai cứ vô xong trận này ra có huy chương là em ưng hết nghe!
- Thế thì anh xung phong nhận huy chương tạm ứng trước có được không em!
Tiếng cười lại phá lên vui vẻ. Tay cô giao liên vẫn thoăn thoắt bóc những bao thuốc Ruby Queen mới, miệng liến thoắng đối đáp. Trên mỗi bao thuốc Ruby Queen vỏ màu xanh sản xuất tại
-----------------------------------------------------------
1. Mỗi cơ số 90 viên
nhà máy ở Khánh Hội dành riêng cho quân lực Việt Nam Cộng Hòa luôn có in dòng chữ: “ Quyết tâm bảo vệ đất nước” như một lời nhắc nhở vậy(1). Cánh lính nhận thuốc lá cứ rộn hết cả lên. Có nhiều cậu láu cá, nhân lúc nhập nhoạng tranh thủ rút cả thành bốn năm điếu nữa. Có thuốc trên tay, ai nấy lập tức châm lửa hút phì phèo. Nhiều cậu nhịn thuốc lâu, giờ mới có, thèm quá rít một hơi dài tóp má, đứng đơ đơ nhả khói vòng tròn, rồi say. Có lẽ khói thuốc lá mang đến cảm giác của một cuộc sống bình thường, làm cho người lính tạm thời quên đi sự đáng sợ của chiến trường thì phải. Nên không chỉ lính Mĩ ngụy và cả quân ta cũng hút rất nhiều. Thuốc lá đã trở thành thứ thuốc giảm đau tinh thần của lính tráng. Đến khi phát xong thì trời đã tối hẳn. Mười lăm cây thuốc lá Ruby Queen vị chi là ba nghìn điếu hết veo. Nhìn cánh lính khoái chí hút thuốc, cười nói lao xao, mặt tươi hơn hớn, tôi cũng thấy vui lây. Đột nhiên, đồng chí dáng chỉ huy mang đến một cái bọc lớn nói với tôi.
- Báo cáo thủ trưởng. Cảm ơn thủ trưởng đã mời thuốc lá anh em. Cánh lính ngoài Bắc vào chẳng có gì, gọi là có chút gửi biếu thủ trưởng và anh em mình trong Huyện đội Hải Lăng ạ!
- Ấy chớ. Cái này là tiêu chuẩn để các đồng chí mang vào dùng mà lấy sức đánh giặc. Nhân dân Hải Lăng và Quảng Trị còn phải tiếp tục ủng hộ nhiều nữa cho anh em chứ sao lại nhận của các đồng chí được.
- Cái này là tình cảm của các anh em thôi mà. Thủ trưởng cứ nhận cho anh em vui. Nhiều no ít đủ, thế mới là đồng hương, thế
----------------------------------------------------
1. Thời đó thuốc lá Ruby Queen bán cho dân sự bao mầu hồng
mới có kỉ niệm chứ.
Cánh lính tráng cũng xúm vào nói, lại còn bê cả bọc quà đưa sang tay cho An nữa, miệng liếu tiếu nói:
- Em cứ nhận đi. Nếu nặng quá thì để anh sẽ báo cáo xin thủ trưởng cho đi bê luôn giúp em cũng được!
- Đúng đấy, cả anh nữa!...
Cánh lính lại lao xao trêu đùa. Tôi đành nhận vậy. Mọi người nói chuyện thêm một chút rồi cả hai tiểu đoàn lên đường. Giờ này, bọn máy bay trinh thám cũng về hết cả. Cậu tếu táo cầm càng hát bắt nhịp cho mọi người cùng hát vang:
Ai về Thanh Hóa quê ta
Khoan, ới hời dô khoan
Ước mơ lớn của người Thanh Hóa
Khoan, ới hời dô khoan
Lá rau má to bằng lá sen
Khoan, ới hời dô khoan
*
Ai về Nghệ An quê ta
Khoan, ới hời dô khoan
Ước mơ lớn của người Nghệ An
Khoan, ới hời dô khoan
Con cá gỗ có mùi tanh tanh
Khoan, ới hời dô khoan
*
Ai về Thái Bình quê ta.
Khoan, ới hời dô khoan
Ước mơ lớn của người Thái Bình
Khoan, ới hời dô khoan
Cả nước mình toàn là nhà máy cháo
Khoan, ới hời dô khoan...
Tôi và An phì cười vẫy tay chào đoàn quân đang tiến vào mặt trận, lòng thấy nao nao. Con đường mòn dưới tán cây rừng hun hút tối, rầm rập đoàn lính trẻ đi vào. Cái câu hát “đường ra trận mùa nay đẹp lắm” sao thấy đáng yêu vậy. Nhưng bằng trải nghiệm của một người có mười một năm lăn lộn trên đất lửa Quảng Trị cộng với chiến sự khủng khiếp trước mắt, tôi lại thấy có gì bất an nữa. Họ còn quá trẻ cả tuổi đời và tuổi lính nữa. Tôi nhớ lần trước, đưa đồng bào ra ngoài Vĩnh Linh tránh mưa bom bão đạn hồi mới đầu tháng sáu. Lúc vào tiện thể đưa thêm đoàn cán bộ lính tráng cùng vào thị xã Quảng Trị. Qua đoạn gần thượng nguồn sông Bến Hải, trên con đường mòn xuyên qua vạt rừng thưa, thỉnh thoảng lại thấy mấy ngôi mộ của những nữ thanh niên xung phong nằm xuống vì bom đạn. Nhiều nấm đất còn mới. Chỗ này sông Bến Hải còn nông, có thể nửa bơi nửa lội qua được. Chờ mọi người sang sông xong, tôi mới bảo:
- Các đồng chí. Đây là sông Bến Hải, ranh giới phân chia hai miền rồi đấy!
- Thật thế sao! Ôi đất thép đây rồi!
- Giờ ta đã đặt chân lên đất miền Nam rồi cơ à!
- Mẹ ơi! Đến đất lửa rồi!
Mọi người nhao nhao lên nói. Rồi không ai bảo ai, cả đoàn cán bộ lính tráng quay lại, nhảy xuống sông, vục mặt vào dòng nước lạnh. Có người lấy sổ tay ghi nhật ký. Có người quay về bờ Bắc vái mấy vái. Có người thì khóc thút thít nữa. Rồi ai nấy tháo bi đông lấy đầy một bi đông nước sông Bến Hải mang theo. Có cái gì đó rưng rưng không nói lên thành lời ở họ. Khi đứng trên một vùng biên thực sự của cái sống và cái chết, nỗi ám ảnh về tâm linh trong mỗi con người thực sự khó lí giải. Còn tôi đã đứng ở trên vùng biên ấy mười một năm rồi. Không đến nỗi chai sạn vô cảm như một khẩu súng bằng xương bằng thịt, nhưng quả thật nước mắt đã thật hiếm, thật thật hiếm sau bao lần phải vĩnh biệt khi chôn những người đồng đội, những người học trò do mình dạy dỗ huấn luyện, những người dân lành vô tội và đôi khi cả những xác lính ngụy, lính Mĩ nữa. Kể từ khi từ biệt Thượng tọa Thích Đôn Hậu về Hải Lăng đến giờ, không ngày nào tôi không dành thời gian để tụng kinh niệm Phật như một thói quen, nhưng cũng là để xua bớt đi những nỗi ám ảnh chết chóc hàng ngày phải nhìn thấy, để quên những âm thanh bom đạn vật vã trong mỗi đêm mơ, để tìm thầy một cái gì đó bám víu cho ngày mai nữa. Từ hạ nguồn, tiếng hàng chục cụm loa tâm lí chiến loại cực lớn vặn hết công suất của cả hai bên vẫn chõ sang nhau tuyên truyền vẳng lại nghe khá rõ... Tôi cầm lấy cái bọc lớn của mấy anh em lính tráng tặng lại, vội giục cô giao liên An đi nhanh cho kịp đến nơi.
Từ trung tuần tháng 8 năm 1972, Bộ Tư lệnh B5 liên minh Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam và Quân đội Nhân dân Việt Nam quyết định giao nhiệm vụ cho sư đoàn 325 chỉ huy lực lượng phòng thủ Thành cổ Quảng Trị. Sở chỉ huy Thành cổ đóng ở khu vực Cao Hy trên một bãi bom B-52 đã đánh nát tơi bời, được ngụy trang kín đáo và canh phòng nghiêm mật. Máy bay trinh sát của Mĩ hàng ngày soi tìm lùng sục nhưng vẫn không sao phát hiện ra được. Sở chỉ huy ở sát mép sông, nay bên dưới căn hầm rượu của dinh tỉnh trưởng Quảng Trị cũ. Lúc này, bom đạn làm đổ nát gạch đá gỗ sắt ngổn ngang bao phủ phía trêm khu hầm dày tới 4-5 mét, cho nên nếu bom có ném bên cạnh cũng chẳng hề hấn gì. Khi chúng tôi đến nơi nhìn thấy cửa hầm giấu kín rất khéo và được bảo vệ rất chu đáo.
Tôi ở lại dự họp ngày hôm sau, báo cáo lại tình hình, nắm bắt đầy đủ thông tin, rồi tranh thủ viết bức thư nhờ gửi về nhà. Cũng mấy tháng rồi, tôi không viết thư về nhà. Đợt đầu năm 1971, Kì Liên có gửi cho tôi một lá thư nói rõ tình hình ở nhà. Mấy năm rồi cả ba nhà đều có nhiều chuyện buồn. Sau khi ông nội Tào Phúc mất năm 1967, lại đến ông ngoại Kì Liên, Thái Kiệt lão gia tuổi cao cũng qua đời năm 1969. Đến giữa năm 1970 thì anh Tôn, con cả của thầy Mạc bị bệnh tim đột ngột qua đời trong khi thầy đang ở Lạng Sơn. Rồi đến tháng mười năm đó, mẹ Miên, mẹ cả của Kì Liên vì buồn bã cũng sinh tâm bệnh mà đi. Chỉ có mỗi tin vui là anh Kì Hoằng nhà bá Pò Khâm đã lấy vợ và sinh được hai con trai khỏe mạnh thôi. Tôi phải viết mấy lá thư về để động viên an ủi mọi người. Một mình Kì Liên quá vất vả lo công việc của mấy nhà lại còn chăm ba đứa con nữa. Thầy Mạc chắc cũng phải đi lại nhiều và buồn lắm. Còn ở trong này, qua thông tin từ anh em trong thành Huế ra, tôi cũng biết được o Liên đã sinh đôi, một trai, một gái, mấy mẹ con bà cháu khỏe cả. Nhân có người vào Huế, tôi cũng gửi vào cho ba mẹ con mấy hộp sữa bột nửa cân và hai thùng nhỏ bột trứng gà xin được của anh em lính tráng ngoài Bắc vào.
Đầu năm 1972, lính ngoài Bắc vào chiến trường B được cung cấp khá đầy đủ, không đến nỗi chịu đói khổ như những năm chúng tôi đi nữa. Ngoài những thứ như ba-lô, mũ cối, màn đã có khi mới nhập ngũ, mỗi người còn được cấp phát: một khẩu AK của Liên Xô, Trung Quốc hoặc Triều Tiên với một hoặc hai cơ số đạn, một túi đựng lựu đạn kèm theo bốn quả lựu đạn mỏ vịt, hai bộ Tô Châu mới, hai quần lót, hai áo cộc tay, một áo ấm đông xuân cộc tay, hai khăn mặt, hai đôi tất dài để chống vắt, hai đôi tất ngắn, hai mảnh gỗ nhỏ có tráng lân tinh để đi đêm, một bình tông, một xanh-tuya-rông, hai bao tượng đựng gạo(1), một đôi giầy thấp cổ, hai cuộn quai dép cao-su, hai bánh lương khô Việt Nam, hai lạng mì chính, một hộp sữa bột nửa cân, một gói ruốc bông, một cân đường, một hăng-gô, một mảnh vải mưa to để đi mưa và khi cần có thể bọc ba-lô làm phao để vượt sông kèm theo một túi đựng to bảo quản quân trang bằng ny long dày, lót vào balo để chống nước, một túi trắng đựng cơm nắm hoặc lương khô, bát ăn cơm bằng sắt tráng men(2). Cứ mỗi tổ ba người có một dao găm và một bật lửa. Ngoài ra còn có mỗi tiểu đôi còn có một hộp cứu thương của Trung Quốc bằng nhựa cứng màu xanh lá cây có dấu chữ thập gồm bông băng, thuốc phòng độc, thuốc lọc nước, thuốc sốt rét, thuốc bổ, thuốc chống rắn cắn, kim chỉ nữa. Mỗi tiểu đội còn được trang bị một bộ nồi quân dụng gồm một nồi cơm mà chúng tôi gọi là nồi B12 và hai nồi nhỏ có nắp được tạo thành những ngăn đựng thức ăn kèm theo hai cái muôi (3)... Tóm lại là rất đầy đủ, chỉ có điều, trên đường hành quân vào, lính
---------------------------------------------------------
1. Mỗi bao đựng được 8 kg
2. Lính gọi là bát B52
3. Trích nguồn tư liệu Tổng cục hậu cần
tráng hoặc san sẻ cho các anh em ở binh trạm dọc đường, cho thương binh hoặc dấu diếm đổi cho dân lấy thuốc lá, thực phẩm tươi và cả rượu nên vào đến chiến trường chẳng còn mấy nữa.
Sáng hôm thứ ba, sau khi tôi đi tiếp ra ngoài địa phận Gio Linh để tiện thể dẫn một đoàn cán bộ lính tráng nữa trở vào. Mở cái bọc anh em lính cho thấy toàn những loại thực phẩm đặc biệt như ruốc bông, bột trứng, đường ép khô, lương khô cao cấp BA70, BB70 hoặc 702 giành cho sĩ quan và lính đặc công. Cả một ít lương khô Việt Nam hoặc loại lương khô không chữ nhãn mác mà chúng tôi gọi là lương khô mù chữ nữa. Tôi rất cảm động vì những thứ này sẽ giúp anh em bộ đội ở Hải Lăng rất nhiều trong những bữa ăn kham khổ thời gian tới. Cả đoàn vào đang dừng nghỉ gần Thượng Phước chờ đến tối vượt sông Thạch Hãn thì thấy có một nhóm thương binh khoảng hai chục người đi ra, có mấy cáng võng do giao liên khiêng, còn lại chống gậy vịn nhau, bông băng trắng thấm máu đỏ khắp người. Còn cách nhau chừng hơn chục bước, mọi người gật đầu chào nhau thì đột nhiên tôi nhìn thấy mấy gương mặt quen quen. Cả cô giao liên An hình như cũng thấy vậy.
- Này, các cậu!...
Tôi hướng về đám thương binh gọi giật. Cánh thương binh chậm lại rồi dừng. Mọi người đoàn của tôi cũng đứng cả dậy. Tôi nhìn một cậu thương binh gần nhất, đầu và mặt quấn kín bông băng, cả tay và ngực nữa. Cậu ta chậm chậm nhìn tôi rồi nói:
- Có phải... là hôm trước thủ trưởng đã mời... thuốc lá chúng em phải không ạ!
Cái giọng đấy không thể nhầm lẫn được. Nhưng hôm trước tếu táo vui vẻ, cầm càng cho mọi người hát búa xua thì hôm nay chỉ nói thôi cũng thật nặng nề khó nhọc. Tôi hỏi mà thấy nghèn nghẹn, cái linh cảm hôm trước chợt nhói lên.
- Đúng rồi, là mình đây mà! Thế đoàn mình sao rồi? -
- Hi sinh hết rồi... thủ trưởng ơi! Chỉ còn lại đúng bằng này thôi!
Anh ta nặng nề nhìn mấy người thương binh còn lại. Chừng ấy người có thể cử động cái cổ được đều im lặng gật đầu xác nhận. Ánh mắt họ tối lại hun hút như con đường đêm trước đi vào.
- Trời ...!
Có tiếng khóc nấc lên của giao liên An từ phía sau tôi. Tôi cũng thấy như có cái gì thắt chặt tim mình lại. Cả đoàn đi vào theo tôi cũng lặng hết xuống. Nhưng có lẽ mọi người trong đoàn vào vẫn chưa hình dung hết được. Đó là hai tiểu đoàn đủ và toàn lính trẻ măng, chứ không phải là một đại đội thiếu, nhỏ lẻ. Hơn bảy trăm con người mới hai ngày trước còn ríu rít bố bố con con, trêu trọc tán tỉnh, tếu táo bỗ bã. Giờ chỉ còn lại mấy người, hay nói đúng hơn là những hình nhân biết thở và cử động, bởi tâm hồn của họ chắc đã chết cùng đồng đội ở Thành cổ rồi. Dẫu ra đến Bắc mà cả chừng ấy vẫn may mắn còn sống thì chắc cả đời họ sẽ sống trong ám ảnh, mộng mị.
Tôi đã quen lắm với hi sinh mất mát suốt hơn chục năm qua mà còn sững cả người như chính mình đã chết nửa, thì những trái tim non tơ lần đầu biết đến chiến tranh khốc liệt sẽ còn tan nát đau thương như thế nào nữa. Thành cổ, chiếc cối xay thịt khổng lồ đó đã từ chối các vị thần định mệnh để tự quyết định mọi số phận theo cách tàn nhẫn nhất của mình. Mười tám hai mươi năm trước Bắc Đẩu quyết định ngày sinh rất nhẩn nha cho những người trai trẻ đi B hôm nay. Còn Nam Tào đã không còn đủ sức để dũng cảm gạch sổ tử nữa. Người chết nhiều quá chắc, ông cũng vãi linh hồn ra rồi chứ nói gì đến việc nghĩ xem nên tìm gạch ai nữa. Súng đạn, bom mìn cực mạnh cướp mạng người còn nhanh hơn nhiều so với lực bút. Khói lửa mịt mù đen hơn cả sắc mực nhà trời. Sổ thiên tào đã đẫm máu lệ đau thương lắm rồi. Tôi bước tới cầm lấy tay những người lính trẻ mình đầy thương tích không nói được thành lời. Mà còn biết nói cái gì đây nữa.
Có ai đó vội móc trong ba lô ra mấy gói ruốc hay sữa gì đó đưa cho những người thương binh. Cũng chẳng đưa được nhiều, vì với họ bây giờ mang thêm cái gì cũng là cả gánh nặng rồi. Nhìn những người vào vừa trao quà cho những người ra, tôi lại rùng mình. Cái bọc quà trên lưng đeo từ hôm qua bỗng nặng như đá đè khiến tôi khó thở. Tôi nghẹn ngào đưa tay lên vành mũ cối. Cả đoàn cán bộ lính tráng đi vào cũng giơ tay chào. Đoàn thương binh chầm chậm đi ra Bắc.
Đêm đó, về đến cứ, tôi lặng lẽ đọc kinh suốt cả đêm...
IV - TRỞ VỀ
Sau trận Thành cổ Quảng Trị 1972, tôi tiếp tục chỉ huy huyện đội Hải Lăng thực hiện tiếp chủ trương của Tỉnh ủy Quảng Trị và Huyện ủy, vừa tiếp tục xây dựng lực lượng vũ trang vừa tiếp tục phối hợp để đánh địch, từng bước mở rộng khu giải phóng. Chiều ngày 16 tháng 9 năm 1973, tôi cùng nhiều các cán bộ của hai huyện Gio Linh và Hải Lăng còn được ra đón Chủ tịch Cuba Fidel Castro và thủ tướng Phạm Văn Đồng tại Đông Hà trong chuyến thăm của nhà lãnh đạo Cuba đến vùng "đất lửa". Tôi thấy ông Lê Hành, Chủ tịch Ủy ban Mặt trận dân tộc giải phóng Quảng Trị lúc đó đã đích thân đi tiếp đón và giới thiệu về chiến thắng vang dội của quân và dân Quảng Trị. Tôi để ý thấy rất rõ sau những cái vỗ tay chúc mừng chiến tích, là khoảnh khắc trầm tư của nhà lãnh đạo Cuba khi ông nghe về những đau thương, mất mát của nhân dân Việt Nam trong chiến tranh. Con người đã từng trải qua lửa đạn như luôn nhìn sự việc bằng nhiều chiều chứ chẳng hề đơn giản, qua loa. Cuộc viếng thăm ấy đã làm nức lòng quân dân Quảng Trị để bước vào cuộc chiến tổng lực cuối cùng...
Ngày Hải Lăng được hoàn toàn giải phóng cũng là ngày tôi có thể thở phào nhẹ nhõm. Nhiệm vụ suốt gần mười ba năm gắn bó với vùng đất lửa của tôi đã khép lại. Không giấy bút nào có thể nói hết được cảm xúc của quân và dân Hải Lăng trong ngày chiến thắng rực rỡ cờ đỏ tung bay. Sau thắng lợi vang dội này, quân và dân Hải Lăng đã vinh dự được Đảng và Nhà nước trao tặng 2 Huân chương Thành đồng tổ quốc. Với tôi, tôi chỉ nghĩ rằng, dù ở bất cứ vị trí nào, người dân Hải Lăng nói riêng và người dân Quảng Trị nói chung đều xứng đáng được tặng gấp đôi gấp ba số huân chương, huy chương cao quý trong sự nghiệp chống Mĩ cứu nước.
Tuy nhiên đó là việc về sau. Sau ngày giải phóng, ngay trong buổi sáng ngày 20 tháng 3 năm 1975, tôi đã nhận được quyết định trở về đơn vị cũ để tham gia chiến dịch Huế - Đà Nẵng ngay. Khi đó F304 đã được biên chế lại trở thành một đơn vị trong hệ thống Quân Đoàn 2 - còn có tên là Binh đoàn Hương Giang thành lập từ giữa năm 1974, đang chuẩn bị tham gia chiến dịch Huế - Đà Nẵng. Cuộc bàn giao và chia tay nhanh chóng với Huyện ủy và Ban quân sự huyện Hải Lăng cùng anh em bộ đội, du kích diễn ra rất cảm động. Tôi xiết chặt bàn tay của mọi người thân ái rồi đi nhờ theo xe của F325 tiến vào Huế. Tối 20 tháng 3, trước khi bắt đầu nổ súng chiến dịch giải phóng Huế, tôi đã tranh thủ ghé về làng cổ Xuân Hòa thăm mẹ con Liên, mang theo rất nhiều quà. Mấy anh em ở Hải Lăng cũng biết chuyện nên gửi vào theo rất nhiều thứ cho bọn trẻ. Mạ Liên đã nhiều tuổi hơn nhưng vẫn còn minh mẫn lắm, thấy tôi về rất xúc động. Ba mẹ con Liên cứ quấn lấy tôi. Đêm đó đương nhiên là ái ân cuồng nhiệt hết mình còn hơn cả lần “xin con” trước. Đến bốn giờ sáng tôi mới trở lại với anh em F325.
Đúng 5 giờ 40 phút sáng ngày 21 tháng 3, sư đoàn 325 (thiếu trung đoàn 95) tấn công và tràn ngập các điểm cao 310, 312, 329, 494, 520, 560, đồi Yên Ngựa và dải đồi Kim Sắc... Tôi cùng anh em sư 325 lại tung hỏa lực cực mạnh vào đối phương bằng tất cả sự hăm hở, thoải mái và niềm tin chiến thắng. Tám năm trước, chiến dịch Mậu Thân, tôi phải rút lui khỏi thành Huế trong nỗi ám ảnh. Bảy tám anh em bị thương nặng và rút đi trước trong khi tôi chặn hậu cũng không có gặp lại suốt bằng ấy năm, không hiểu số phận thế nào nữa. Đến đến chiều 25 tháng 3 năm 1975, thành phố Huế được giải phóng. Nhìn lá cờ đỏ sao vàng tung bay rực rỡ trên đỉnh Phu Văn Lâu, tôi lấy tay chấm nước mắt rưng rưng. Bao nhiêu anh em trong trận Mậu Thân đã nằm xuống, không có cơ hội được nhìn thấy ngày Huế giải phóng. Cái giá của chiến thắng là không gì tính nổi.
Tôi vội chia tay anh em F 325 rồi trở về với F304 đang chuẩn bị tiến đánh Đà Nẵng từ hướng Tây Nam. Sau biết bao nhiêu năm xa cách và chờ đợi, giờ tôi mới lại được tiếp tục chiến đấu trong hàng ngũ E66 của mình. Mười năm trước trận Ia Drăng diễn ra nhanh chóng khiến tôi chưa kịp thấm thía hết sự khắc nghiệt của chiến tranh thì đã phải vội chia tay để về Hải Lăng để tiếp tục nhiệm vụ. Giờ trở về lại thấy nao nao lạ thường. Cuộc chiến tổng lực đã đến hồi nước rút, F304 đã tấn công các vị trí của lữ đoàn 369 thủy quân lục chiến trên tuyến Thựợng Đức - Ái Nghĩa - Hiếu Đức. Đến ngày 28 tháng 3, E66 của tôi đã đánh chiếm xong quận lỵ Ái Nghĩa và sân bay Nước Mặn. Đến chiều 29 tháng 3, thành phố Đà Nẵng được giải phóng.
Sau khi giải phóng Huế - Đà Nẵng, E66 của tôi cùng F304 tiến vào vị trí tập kết ở rừng cao su đồn điền Ông Quế(1) để tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Trung đoàn của tôi có nhiệm vụ cùng trong đội hình Binh đoàn thọc sâu của Quân đoàn 2 tiến công theo trục đường số 15, xa lộ Sài Gòn - Biên Hòa để tiến đánh vào sào huyệt cuối cùng của chính quyền Sài Gòn. Một cuộc tiến công đẫm máu nhưng dòng thác lịch sử đã đến hồi quyết định, không thể có một sức mạnh nào ngăn cản nổi... Ngày 30 tháng 4 năm 1975, Đại đội 6 thuộc Tiểu đoàn 9 của Trung đoàn 66 vinh dự là đơn vị bộ binh có lực lượng đầu tiên cùng theo xe tăng tiến vào dinh Độc Lập, ghi dấu mốc son lịch sử của
---------------------------------------------------------
1. Cách Sài Gòn khoảng 60 km về phía Đông
cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước toàn thắng.
*
* *
Một tháng sau ngày chiến thắng, F304 cùng nhiều đơn vị khác từ Bắc vào đã lần lượt đưa đơn vị của mình quay ra các vị trí tập kết trước đây và làm thủ tục cho quân nhân xuất ngũ. Nhiều anh em quân nhân và cả sĩ quan đã quá mệt mỏi với chiến trận nên chỉ muốn về nhanh với gia đình chứ chẳng còn thiết tha đến các tiêu chuẩn chế độ nữa. Tôi làm thủ tục xin nghỉ phép về thăm nhà. Do là một trong số các sĩ quan có thời gian đi B dài nhất và liên tục nhất trong Sư đoàn 304 cho nên tôi nhanh chóng được chấp nhận giải quyết nghỉ phép hẳn sáu tháng liền cùng một khoản tiền trợ cấp kha khá. Trên đường về Bắc, tôi đã ghé về Huế để thăm mạ, thăm Liên và các con. Cả nhà rất vui mừng đón tôi trở về. Tôi ở lại thêm mấy ngày lo thủ tục giấy tờ cho hai đứa con theo đúng họ bố, con trai là Thân Kì Chiến và con gái là Thân Kì Thắng. Hai anh em nó đã tròn năm tuổi rồi, mũm mĩm và nghịch khỏe, cứ quấn lấy bố trông yêu ghê.
Tôi cũng tranh thủ thời gian lên chùa Thiên Mụ thắp hương lễ Phật, thăm lại Thượng tọa Thích Đôn Hậu và các tăng. Nghe tôi kể chuyện, thầy Đôn Hậu mỉm cười gật đầu hài lòng và cũng cho tôi nhiều lời khuyên về thời thế. Bậc Bồ tát đã có nhiều dự cảm về những khó khăn sắp tới khi Bắc Nam thống nhất, con người về với thời bình sẽ có nhiều phân ưu hơn. Người nhắc tôi, cái quan trọng là đừng yếm thế chán nản hay bất đắc chí mà đổ lỗi quàng xiên mà hãy thích nghi với nó. Giai đoạn giao thời của những thay đổi có tính lịch sử thì có mấy người được như ý đâu. Tôi chỉ biết cúi đầu thụ nhận, lòng cũng có nhiều điều chưa thực sự thấu tỏ hết. Thôi đành để về nhà hỏi thêm thầy Pò Mạc vậy. Dù sao cuộc sống trên chiến trường mười mấy năm đã làm tôi có cái nhìn khác đi nhiều. Thời tuổi trẻ hồn nhiên, tự do bên gia đình đã thay thế bằng bao gian truân thử thách nhiều lúc chỉ nghĩ thôi cũng đã đủ rùng mình. Một trái tim mang đầy sẹo đã khiến tôi thấu hiểu được vì sao một người như thầy Pò Mạc lại chỉ yên phận làm nghề dạy võ bốc thuốc mấy chục năm qua...
- Eng Kì Sung à!
Liên bảo tôi, giờ Liên mới biết họ tên thật của tôi cũng như gia đình ngoài Lạng Sơn. Liên nói:
- Giờ hòa bình thống nhất rồi, từ Huế về Lạng Sơn cũng không xa xôi gì nữa. Eng đã ở đây với mạ, với em và các con nửa tháng rồi. Giờ eng sắp xếp về với gia đình ngoài đấy đi, cho mọi người khỏi mong. Xa cách mười mấy năm rồi. Khi nào sắp xếp được công việc thì về đây với các con dăm bữa nửa tháng là em hạnh phúc rồi!
- Ừ, giờ anh có cả hai gia đình rồi. Anh cũng muốn để cho mọi người ngoài đó sớm biết về gia đình mình cho danh chính ngôn thuận. Anh đi rồi, chỉ thương em vất vả nhiều thôi.
- Eng lại nghĩ ngợi rồi. Khổ thì cũng khổ bấy lâu rồi, có chi đâu mà lo rứa. Mà đó là do em tự nguyện thương eng mà. Có định trói buộc gì eng mô. Chừ eng về cho em gửi lời hỏi thăm chị Kì Liên và gia đình nhé.
Tôi để lại hầu hết số tiền trợ cấp vừa nhận cho Liên. Cũng chưa biết bao lâu mới về lại Huế nên muốn Liên có thêm một chút quan tâm nho nhỏ này để đỡ nghĩ ngợi nhiều. Mạ cũng cứ dặn dò tôi mãi.
- Mi về Bắc cho mạ gửi lời hỏi thăm mọi người ngoài nớ nhé. Nhớ viết thư về cho tụi trẻ đỡ mong!
- Dạ vâng, thưa mạ! Mạ nhớ giữ gìn sức khỏe, con về nhà ngoài ấy sẽ gửi biếu mạ mấy thang thuốc bổ để mạ dưỡng sức.
- Ừ, rứa cũng tốt. Đi lại giữ gìn sức khỏe. Mà mi nhớ không được bỏ quân đội về hẳn nghe! Đừng thấy cánh lính chúng nó cuống quýt về nhà hết rồi bỏ hết cả công lao cống hiến ngần ấy năm là không được đâu hè!
- Dạ, con nghe lời mạ!
Tôi ôm chặt hai đứa con vào lòng thật lâu. Liên đưa tôi ra ga tàu. Con tàu kêu tu tu rồi chậm rãi vươn mình về hướng Bắc. Nhìn hình bóng Liên đứng vẫy dưới sân ga cứ nhỏ dần, lòng tôi se lại. Tôi vẫn còn đang mắc nợ với Huế thật nhiều.
CHƯƠNG 10: VÙNG BIÊN KHÔNG YÊN TĨNH
“Ôi, ta yêu đến đau thương Tổ quốc của mình
Mỗi đất nước có một số phận riêng, một cuộc đời riêng, có phải?
...Cái ta xây cất mười năm, chúng thiêu tàn một buổi.
Tội ác ấy muôn đời không xóa nổi…”.
Trích “Thần chiến thắng” - Chế Lan Viên
I - HỘI NGỘ RỒI CHIA LI
Khỏi phải nói tôi đã vui mừng như thế nào khi thấy A Sung, chồng tôi trở về. Suốt bao nhiêu năm qua chờ đợi mỏi mòn, một nách ba con, rồi công việc ở trạm y tế Đồng Đăng lúc nào cũng nhiều bệnh nhân, lại còn chuyện bên nội bên ngoại, mọi chuyện cứ bù đầu, cuốn tôi đi hết năm này qua năm khác. Cũng may có thầy Mạc ở bên cạnh động viên giúp đỡ cho nên mọi việc rồi cũng đâu vào đấy. Chỉ có điều nỗi nhớ chồng cứ ngày càng lớn dần.
Mấy năm đầu, mải chăm Kì Hùng, Kì Mạnh rồi đến Kì Hạnh nên nỗi nhớ chồng như còn tạm kìm nén lại. Nhưng kể từ sau khi thầy Tào Phúc, cụ nội của lũ trẻ qua đời năm 1967, các con cũng đã lớn hơn thì tôi mới thực sự cảm thấy trống trải. Cái cảm giác khát thèm một vòng tay yêu thương sao giờ rõ rệt và khắc khoải đến thế. Nhiều lúc tôi cảm thấy chống chếnh bất an nữa. Định lực vững vàng của mấy chục năm luyện công khắc khổ cũng không thắng nổi cảm xúc đã bị dồn nén lại, chịu đựng quá lâu. Cuộc kháng chiến chống Mĩ càng ngày càng khốc liệt, bao lớp thanh niên của Lạng Sơn nối tiếp nhau lên đường đi B sau chồng tôi. Ai trở về được thì người đầy thương tật và chịu thương tổn tâm lí nặng nề. Chỉ qua những lá thư ít ỏi mà chồng tôi gửi về đến được nhà, tôi cũng hình dung chiến trường khắc nghiệt như thế nào. Mà có lẽ đó chỉ là phần nào bởi A Sung không muốn tôi quá lo lắng. Thư nào cũng động viên an ủi mong tôi thông cảm và bày tỏ lo lắng cho mọi người ở nhà nữa. Ngày chiến thắng, tôi lại khắc khoải chờ mong chồng trở về. Ngày nào tôi cũng đi ra ngoài ga Đồng Đăng khi chuyến tàu cuối cùng xuất hiện. Mỗi một ngày chờ thật nặng nề và mệt mỏi, thấp thỏm hi vọng rồi lại thất vọng. Có cái gì cứ nghèn nghẹn dâng lên đầy cổ, nhưng tôi biết nhất định anh ấy sẽ về.
- Kì Liên! Kì Liên!...
Có tiếng gọi vang lên từ mãi ngoài xa. Tiếng bước chân chạy hối hả cất lên rất nhanh, xa rồi lại gần. Từ trong phòng thuốc của trạm y tế, tôi bật dậy lao ra ngoài cửa, rồi sững lại. Ngoài cổng trạm, A Sung chạy vào, dáng người cao lớn lừng lững, đen nhẻm và rắn chắc. Hàm răng trắng phô ra cùng tiếng cười âm vang cả cái sân rộng bạt ngàn những cây hồi trưởng thành làm rung rinh lá. A Sung ào đến trước mặt tôi, cái ba lô đã quẳng vội xuống sân. Ánh mắt tôi nhòa đi tự lúc nào. Một cái ôm thật chặt thật dài khiến tôi như ngạt thở. A Sung nhấc tôi lên khỏi mặt đất, rồi bốc cả người tôi lên thật cao, áp mặt vào bụng vào ngực tôi mà dụi, mà day, mà lắc, mà hít hà. Cái sống mũi thẳng và dài cù vào khắp hai bầu vú nữa. Anh cọ cả khuôn mặt lởm chởm râu ria vào cổ tôi, vào má tôi mà gại mà nhay, nhột quá tôi ưỡn cả người lên mà cười, thấy vậy anh càng làm mạnh hơn. Tôi vội lấy hai tay giữ chặt hai má anh lại. Bốn ánh mặt nhìn nhau, thật lâu, thật lâu không nói được câu nào. Rồi nước mắt của tôi đột nhiên nhỏ giọt, từng giọt to và nặng long lanh rơi xuống mặt anh. Anh cứ để yên cho những giọt nước mắt nóng hổi ấy lăn trên mặt mình. Rồi cứ thế, từng dòng nước mắt của tôi tuôn ra, òa vỡ bất tận. Sau bao ngày nó bị nuốt ngược vào lòng bằng tất cả mọi cố gắng, bây giờ mới có dịp để xuất đầu lộ diện. Tôi cũng không biết là kho nước mắt của mình lại có tiềm năng lớn đến như vậy. Cả hai vợ chồng khuôn mặt chan hòa nước mắt. A Sung thè lưỡi liếm lấy dòng nước mắt mằn mặn trên môi của mình. Anh vẫn không buông tôi xuống. Trong vòng tay giữ chặt của A Sung, tôi ôm lấy mái đầu bù xù đã lấm tấm sợi bạc của anh, áp mặt mình vào mái tóc còn khét nắng. Tôi như mê đi trong cái mùi khét ấy một lúc lâu.
- A Sung đã về đấy à!
Tiếng của thầy Pò Mạc nghe vang dội trong lồng ngực vọng đến từ xa. Cả hai vợ chồng giật mình, buông nhau ra. Mặt tôi đỏ lên, tôi vội đưa tay lau nước mắt.
- Thầy ạ! Con vừa về đến đây ạ!
A Sung nhìn thầy Mạc đang lừng lững bước lại gần. Trên vai thầy là cái gùi lớn đựng những lá thuốc, củ thuốc vừa thu hái ở vườn thuốc trên quả đồi sau trạm y tế. Chắc nghe thấy tiếng A Sung từ xa nên thầy bỏ hái thuốc đề quay xuống trạm. So với thầy Mạc, A Sung vẫn còn nhỏ hơn vài phần, chỉ cao ngang nhau thôi. Thầy Mạc bước lại, bỏ chiếc gùi và con dao quắm mỏng cán dài xuống, đặt bàn tay nặng chịch, còn dính nhựa cây lá thuốc lên vai A Sung, bóp nhẹ. Thầy nhìn con rể từ đầu đến chân rồi hỏi, giọng trầm trầm cố giảm nhẹ mà vẫn cứ như lệnh vỡ:
- Có bị thương ở đâu không, A Sung?
- Dạ, con bị vài vết nhẹ, ở bên ngoài thôi. Lâu rồi thầy ạ!
- Thế thì tốt. Kì Liên, sắp xếp việc của trạm rồi đi về nhà đi. Cụ bà đang chờ ở nhà đấy.
- Vâng, thầy!
Nghe nhắc đến bà nội, A Sung định hỏi thì thầy Mạc đã nói luôn:
- A Sung, về nhà đã nào. Cụ bà Tào Phúc vẫn khỏe, suốt ngày nhắc đến con thôi. Giờ vẫn đang ở nhà với bọn trẻ đấy!
Tôi quay lại khóa cửa phòng thuốc và nhắc mấy bệnh nhân báo lại cho A Si, cậu y tá trẻ mới về trạm trực thay. A Sung đỡ lấy gùi cây lá thuốc cho thầy Mạc. Tôi chạy ra khoác lấy chiếc ba lô của chồng lên vai xúng xính, rồi cả ba người cùng đi về bản Nà Pàng. Vừa đi vừa nghe A Sung kể chuyện. Hai bên đường về bản, hoa sim nở bạt ngàn long lanh dưới nắng hè. Từng đàn bướm vẽ vòng trên những cánh hoa tím biếc mong manh. Lòng tôi cũng như đang bung nở bạt ngàn hoa tím.
- Kì Hùng, Kì Mạnh, Kì Hạnh đâu rồi? Ra đón bố nào?
Tôi cất tiếng gọi to từ đầu bản Nà Pàng. Từ trong bản, một lũ thanh niên choai choai cả trai cả gái chạy ra. Đang nghỉ hè nên chúng được ở nhà. Mấy hôm nay lúa ngoài ruộng bậc thang đã thu hết về rồi, bọn trẻ đang hộ nhau suốt lúa.
- Bố! Bố đâu ạ!
Ba đứa, hai trai một gái cao to hơn hẳn chạy vượt lên trước. A Sung hai mắt sáng lên khi nhìn thấy chúng. Có lẽ chồng tôi không ngờ rằng các con mình đã lớn đến như vậy. Kì Hùng,Kì Mạnh cũng sang tuổi mười lăm, còn Kì Hạnh cũng đã mười ba rồi. Từ khi tôi về phụ trách trạm y tế, mấy đứa trẻ có ông bà Tào Phúc bên cạnh, thầy tôi mới hay đi về cả hai quê. Khi chúng bốn năm tuổi là thầy lại tập trung dạy võ cho chúng. Mang tiếng tôi là mẹ mà lại ít quan tâm được việc đó. Bọn trẻ có gen con nhà võ, lại sẵn có lò võ đông người tập nên tập luyện hăng lắm, lớn nhanh như thổi, chẳng ốm đau lấy nổi một ngày. Mấy năm trở lại có cả chuyện vui lẫn chuyện buồn ở Thái Bình, nên thầy tôi cứ về Thái Bình luôn. Sau khi anh Tôn và mẹ cả Miên mất được ba năm thì chị Thơm con mẹ cả cũng học xong, ra trường đi dạy học, rồi lấy chồng, vừa rồi cũng mới sinh con trai đầu lòng trước ngày chiến thắng. Thầy Mạc cũng về dưới đó trông nom mười tháng cả trước và sau khi chị Thơm sinh, mới lên Nà Pàng được hai ba ngày nay. Bọn trẻ cũng đã quen nên vẫn duy trì nề nếp tập luyện tốt. So với tôi ngày trước chúng còn tiến bộ nhanh hơn nhiều.
- Bố Sung! Bố Sung!
Ba đứa hét lên oang oang rồi lao về phía Kì Sung. Trước khi vào nam, Kì Sung có chụp ảnh quân nhân. Tôi đã đem phóng to cho lũ trẻ xem nên bây giờ chúng nhận ra ngay. Nhìn bốn bố con đang mải ôm nhau hò hét, rồi đấm thùm thụp, rồi nhảy cẫng lên, tôi và thầy Mạc cứ cười cười rồi đi vượt lên trước. Dân bản đã nghe tin A Sung từ miền Nam trở về cũng kéo ra đón, cười nói rào rào. Rồi cuối cùng, cả đoàn dồng dênh nhau kéo vào ngôi nhà lớn của dòng họ Thân. Cụ bà Tào Phúc đã tám mươi tư, mắt vẫn còn tinh, răng còn chặt, nhìn thấy cháu từ xa bước lại, cười như mếu. A Sung vội bước lại ôm chặt lấy bà nội, mừng mừng tủi tủi.
*
* *
Cả năm tháng A Sung được nghỉ phép sau đó, tôi sống trong hạnh phúc ngập tràn. Trong khi đó, thầy Mạc lại quay về Thái Bình để chăm lo cho cả mấy nhà ở dưới đấy một thời gian. Có A Sung bên cạnh, tôi ngủ những giấc thật dài và bình yên. Tôi cũng chiều anh hết sức của mình. Những cuộc ái ân dài, ngọt ngào mê mải như bù lại mười mấy năm phải nhịn thèm xa cách. Cả hai chúng tôi như trẻ lại đến năm sáu tuổi. Hạnh phúc đủ đầy như liều thuốc diệu kì đắp đền lại những mất mát, những nhung nhớ khi cách xa. Tôi lại rủ A Sung lên chỗ những cây hồi già trong núi để sống lại những kỉ niệm yêu thương, và tất nhiên, ở đây tôi càng không có lí do gì để không chiều chồng tôi hết mình. Hai con người đang tìm mọi cách để lấy lại những gì còn thiếu ở nhau cho bõ công chờ đợi. Chúng tôi ngụp lặn trong vòng tay yêu thương chiều chuộng của nhau giữa đất trời thơm ngọt vị hoa hồi.
A Sung cũng đã kể cho tôi và cả nhà nghe về chuyện o Liên trong Huế. Quả thực lúc đầu tôi cũng thấy nhói lòng. Cảm giác ghen tuông lần đầu xuất hiện trong tôi. Từ khi về Nà Pàng đến giờ, tôi chỉ biết có A Sung, yêu có A Sung, và cũng chưa bao giờ có ý nghĩ san sẻ hạnh phúc với bất cứ người phụ nữ nào khác cả. Mười mấy năm xa cách, tôi chỉ thương A Sung vất vả hiểm nguy trong chiến trường, nên vẫn hết lòng lo toan gánh gói mọi việc nhà. Cả họ Thân ở Cao Lộc, Văn Lãng đều khen tôi hết lời. Tôi cũng chỉ một lòng mong mỏi A Sung sớm từ chiến trường trở về bình an chứ chẳng trông mong gì đến công lao quyền chức. Đất nước cần thì góp công góp sức cho trọn vẹn trách nhiệm, xong việc thì về tề gia tu thân. Ham hố gì cái thứ công danh đánh đổi bằng xương máu và nước mắt của bao người dù của phe bên này hay bên kia. Gieo nghiệp rồi lại tự trả nghiệp mà thôi. Lúc được thì được cho cái chung, còn trả nợ nghiệp thì có ai gánh cho ai được đâu. Chuyện của o Liên khiến tôi nghĩ ngợi nhiều. Ý thức sẻ chia hạnh phúc gia đình là chuyện cực chẳng đã mà thôi. Thầy Mạc biết chuyện cũng hỏi A Sung:
- Thế giờ con tính như thế nào?
Kể từ khi ông Tào Phúc mất, thầy Mạc vừa dạy võ, vừa bốc thuốc chữa bệnh, vừa làm trọng trách của một thầy Tào chăm lo chuyện tâm linh đại sự cho cả vùng, lại vừa lãnh trách nhiệm lo toan cho cả hai bên gia đình nữa. Cho nên không có phân biệt chuyện của họ Trịnh hay họ Thân nữa.
- Thưa thầy, o Liên ngay từ đầu cũng nói không lấy chuyện con cái ra để ràng buộc con. Là cô ấy chủ động và tự nguyện ngay từ đầu. Chỉ là nếu con có thời gian thì vào thăm cho các cháu nhớ mặt cha là được. Nhưng con nghĩ, dù sao cũng là do hoàn cảnh chiến tranh nên cô ấy không muốn làm khó con thôi. Còn ai chả mong muốn mình có danh chính ngôn thuận để dễ nói chuyện và không phải tủi với mọi người xung quanh và gia tiên. Vì thế con cũng thưa chuyện để cả nhà mình thông cảm.
- Ừ, con nghĩ vậy cũng phải!
Thầy Mạc nhìn tôi rồi nói tiếp.
- Chủ yếu là việc của con với Kì Liên thôi, sao cho hài hòa. Hoàn cảnh chiến tranh xa nhà, hơn nữa là người ta lại có ơn đối với mình và hoàn toàn tự nguyện dù biết con đã có gia đình cho nên cũng không có gì đáng trách cả. Đàn ông dám làm dám chịu, không được để cho người phụ nữ của mình phải khổ tâm. Nhất là dù thế nào thì cũng phải vì con trẻ trước hết đã!
- Dạ, vâng ạ!
- Thầy nghĩ Kì Liên cũng nên thông cảm cho A Sung. Chuyện cũng không phải cháy nhà chết người gì nên cũng không cần phải cả nghĩ quá. Con lớn hơn cũng nên đại lượng một chút. Có chị có em cũng không hẳn là thiệt thòi đâu. Vả lại họ Thân có thêm con đàn cháu đống cũng là chuyện phúc đức. Chả như họ Trịnh bây giờ...
Thầy nói đến đó chợt thở dài. Tôi nghe thầy nói đến đó, mọi cảm giác ghen tuông bỗng biến đi đâu mất hết. Nghĩ mà thương thầy tôi vô hạn. Từ hồi anh Tôn ở Vũ Phúc mất chỉ để lại có một cháu gái, thầy tôi lại là đứng đầu một ngành thứ họ Trịnh. Vậy là nhánh họ Trịnh của thầy tôi coi như bị đứt mạch. Thầy tôi nghĩ ngợi nhiều lắm. Cô chú Nhượng bị trúng bom quân Pháp mất sớm, may còn có một con trai là em Trịnh Văn Thơ để lo hương hỏa cho ngành thứ này và an tự khi thầy tôi mất đi. Em Thơ cũng đã lấy vợ và mới sinh được một con trai. Đất lề quê thói, nghe tin đó thầy tôi mừng lắm, đỡ lo bao nhiêu chứ nếu không thì hết người thờ tự mất. Tôi làm dâu nhà họ Thân bằng ấy năm, rất thấm thía nỗi lo có thằng nối dõi của bà cụ Tào Phúc và mẹ chồng tôi nữa. Đấy mới chỉ là việc nội bộ trong họ Thân thôi, chứ tôi biết, mấy dòng họ lớn khác của người Tày, Nùng ở Lạng Sơn cũng đố kị với họ Thân và luôn tìm mọi cách cả ngấm ngầm, cả công khai để triệt hạ họ Thân nữa, suốt cả mấy trăm năm nay rồi. May mà đến tôi về làm dâu, họ Thân đã có thêm hai thằng trai Kì Hùng, Kì Mạnh nối dõi, lại có đủ cả nếp cả tẻ nữa. Giờ có thêm hai đứa Kì Chiến và Kì Thắng nữa thì đúng là may mắn cho cả họ rồi. Cuộc sống không khi nào có được tất cả, thêm một chút may mắn như ý đã là mãn nguyện rồi. Tôi cảm thấy thanh thản hơn. Nghĩ lại, may mà có mạ con o Liên mà sau trận Mậu Thân, chồng tôi mới có ngày trở về thế này. Tôi nghĩ mình nên chủ động thì hơn. Còn A Sung tất sẽ biết điều tiết mọi việc. Thôi thì dễ người dễ ta, khó người khó ta. Tôi cười cười bảo chồng:
- A Sung, chuyện của mẹ con o Liên, em cũng không lăn tăn gì đâu. Hoàn cảnh chiến tranh mà. Thế là em lại có thêm em thêm con rồi, càng tốt. Mà cũng lạ thực đấy, anh cũng có duyên với những người tên Liên nữa. Miền Bắc, miền Trung đều có Liên rồi. Anh nhỡ kĩ xem ở Sài Gòn có còn nhận cô nào tên Liên nữa không để em gửi quà vào thăm một thể nào!
- Đâu có, Kì Liên! Có thêm một đã là chuyện li kì, khó xử lắm rồi mà. Anh chỉ nghĩ em sẽ không chấp nhận mẹ con cô ấy thôi.
- Anh nên viết thư cho cô ấy để cho cô ấy yên tâm. Vậy là nhà họ Thân lại có thêm người đây, chắc mọi người sẽ mừng lắm. Khi nào rảnh, vợ chồng mình vào Huế thăm mẹ con cô ấy cho tình cảm.
Thầy Mạc thấy tôi nói vậy thì rất hài lòng và giục luôn:
- Ừ. Kì Liên nói phải đấy. Đi luôn đi, nhân lúc A Sung còn đang nghỉ phép dài. Để thầy gửi vào cho bà mẹ cô ấy mấy chục thang thuốc bổ nữa. Dù sao con cũng không vào đó thường xuyên được. Việc của mình, làm sớm lúc nào tốt lúc ấy. Cho bà cụ Tào Phúc yên tâm hơn. Người già như cái than rạ ấy. Giờ cứ thấy đông con nhiều cháu là mãn nguyện thôi!
-Vâng ạ!
A Sung chắc cũng không ngờ mọi chuyện lại được chấp nhận và giải quyết nhanh như thế. Còn tôi cũng thấy hiếm có ông bố vợ nào lại có cách ứng xử như thầy tôi nữa. Chiều và bênh con rể còn hơn cả con đẻ nữa. Còn bà cụ Tào Phúc khi biết chuyện thì cứ cười suốt mấy ngày liền, rồi lụm cụm đi khoe cả bản nữa. Không ngờ đến lúc cuối đời lại được thấy con cháu đầy đàn như thế. Tuần cuối cùng trước khi trở A Sung trở lại đơn vị, cả hai vợ chồng tôi cùng thằng lớn Kì Hùng đi tàu vào Huế thăm gia đình o Liên. Có lẽ mạ của o Liên mới là người ngạc nhiên hơn cả. Bà xúc động quá, cứ chấm nước mắt hoài. Nỗi lo lắng cho hạnh phúc của con gái út, tương lai của các cháu canh cánh trong lòng mấy năm nay giờ đã được giả tỏa. Chắc bà thấy gia đình A Sung ngoài Bắc đã cảm thông và chấp nhận mọi chuyện nên thấy mừng lắm. Giờ lại còn vào tận Huế để nhận người nhận họ ngay, bà không còn gì thỏa mãn hơn nữa. Nhìn con gái bà có chị có em ríu rít trò chuyện, các cháu quây quần, bà nghẹn ngào nói với tôi:
- Mạ cảm ơn các con, cảm ơn cả gia đình ngoài đó nhiềm lắm hè!
- Dạ, mạ đừng nói vậy!
Tôi cầm tay bà nói tiếp:
- Là việc gia đình con ngoài Bắc phải làm thôi mà. Cũng nhờ có mạ trông nom chỉ bảo cho em Liên và các cháu Kì Chiến, Kì Thắng khi anh Kì Sung đi vắng nên mới được như thế này. Gia tộc họ Thân ở Lạng Sơn phải cảm ơn mạ nhiều mới đúng ạ!
- Con và Kì Sung cứ về công tác cho tốt. Rồi mạ và mẹ con nó sẽ sắp xếp ra ngoài Lạng Sơn thăm bà cụ và gia đình mình sau rứa!
- Thầy Mạc con cũng gửi vào biếu mạ mấy chục thang thuốc bổ, mạ nhớ dùng ngay cho khỏe nhé!
- Ừ, thật quý hóa quá!
Chúng tôi ở lại Huế mấy ngày rồi trở ra Lạng Sơn. Chuyến đi đã kéo gần lại tất cả. Cuộc sống phức tạp thật, nhưng cũng rất đơn giản khi mỗi người trong gia đình biết sống vì nhau và cùng nhìn về một hướng. Tôi đã làm được một điều mà cả họ Thân cũng bất ngờ nữa.
Sang đầu tháng 12 năm 1975, A Sung trở lại Trung đoàn 66 và được điều lên làm cán bộ trên sư đoàn 304 phụ trách huấn luyện lực lượng đặc biệt. Cho đến hè năm 1977, bà cụ Tào Phúc mất, cả nhà o Liên ở Huế đã ra Lạng Sơn để chia buồn. O Liên đưa các cháu ra mắt họ Thân ở Lạng Sơn. Qua buồn đến vui, một cuộc hội ngộ ấm áp cả mấy nhà. Tôi đã thể hiện rất chu đáo vai trò của người dâu trưởng họ Thân, mọi người ai cũng hài lòng.
Suốt hai năm qua, thầy Mạc tiếp tục lên kế hoạch vẫn không ngừng ép mấy đứa con tôi học nghề thuốc và tập võ, ngay cả khi thầy phải về Thái Bình. Kì Hạnh có thiên hướng về nghề Y rất rõ. Hè năm 1977, Kì Hùng và Kì Mạnh đã tốt nghiệp lớp 10, A Sung cho hai con vào học trường quân sự. Kì Hùng đang học Trường sỹ quan Tăng Thiết Giáp ở Vĩnh Phúc, còn Kì Mạnh đang theo học Trường Sĩ quan Đặc công ở Xuân Mai. Đến hè năm 1978, Kì Hạnh tốt nghiệp xong cũng được đi học ở trường Đại học Quân y. Thầy Mạc cũng tiếp tục truyền võ công cho tôi và A Sung. Với A Sung, dù còn bận việc quân đội nhưng thầy Mạc cũng đã nói rõ ý định truyền thừa lại cả võ công và pháp quyết nghề Tào nữa, nhưng vẫn chưa đến thời điểm. Cả hai vợ chồng tôi đều rất cố gắng nên đã tăng tiến dài về công phu hàm dưỡng.
Sau ngày giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước, Việt Nam và Campuchia xuất hiện nhiều mâu thuẫn. Tranh chấp và xung đột biên giới giữa hai nước xảy ra liên tục trong các năm 1977 và 1978. Để thực hiện chính sách chống Việt Nam của chính quyền Khmer Đỏ, Pol Pot mở cuộc tấn công xâm lược Việt Nam trên toàn tuyến biên giới Tây Nam, thi hành chính sách diệt chủng cả đối với người Việt. Tháng 11 năm 1978, quân đoàn 2 trong đó có cả sư đoàn 304 được điều động tham gia chiến dịch biên giới Tây Nam. A Sung cũng lên đường để sang chiến đấu trên đất nước Campuchia chống lại hành vi xâm lược của chế độ Polpot. Lại một cuộc chia li lịch sử nữa diễn ra
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét