Thứ Ba, 7 tháng 9, 2021

VÙNG BIÊN - TRẦN VIỆT HÀ - PHẦN 1

 “Ai rồi cũng phải sống giữa vùng biên của chính mình.”

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1: ĐỒNG ĐĂNG
CHƯƠNG 2: PÒ MẠC
CHƯƠNG 3: BẢY NĂM BIỆT TÍCH
CHƯƠNG 4: TRỞ VỀ
CHƯƠNG 5: XÂY DỰNG PHÁO ĐÀI
CHƯƠNG 6: CHÂN TRUYỀN
CHƯƠNG 7: TÌM SÂM TRỜI
CHƯƠNG 8: VỀ HAI QUÊ
CHƯƠNG 9: CHIẾN TRƯỜNG
CHƯƠNG 10: VÙNG BIÊN KHÔNG YÊN TĨNH
------------------------------------------------------------------
CHƯƠNG 1: ĐỒNG ĐĂNG
"Lạng Sơn Lạng Sơn ơi
Ta sinh ra từ nơi rừng hồi, ta lớn lên trong hương hoa hồi"
(trích bài hát “Hương hồi xứ Lạng”- Ngô Quốc Tính)
I - TRẠM Y TẾ
Những màn sương mờ bao phủ khắp núi rừng. Gió thổi nhẹ đủ gom những đám mây trắng xốp tơi đang là là lưng núi cuộn lại, dập dềnh uốn éo, múa lượn, rồi như có người rủ, lại dềnh dang tràn xuống triền đồi thấp sát thị trấn Đồng Đăng, vẩn theo những đám bông lau trắng bồng bềnh. Những cây hồi già trước sân trạm y tế, thân thẳng đứng, vỏ nứt nẻ mốc meo như nhòa đi trong làn khói sương trắng sữa bàng bạc. Trên những vòm lá xanh thẫm, tỏa rộng, lấp ló những chồi non, những giọt sương nặng trĩu thỉnh thoảng nhỏ xuống tạo thành những tiếng động nhẹ. Trên những cây hồi còn sót lại mấy chùm quả chưa hái, hương thơm thoảng nhẹ dễ chịu. Những cây hồi này đã được Pò Mạc, cha của y tá Liên trưởng trạm y tế, trồng từ sau chiến dịch biên giới 1950 cùng với cả vườn cây thuốc quý trên quả đồi rộng ba hec-ta phía sau trạm. Ông vừa là một thầy Tào(1), một thầy lang nổi tiếng vừa là một võ sư mật truyền già đòn, khắp mấy tỉnh vùng biên này mấy chục năm nay không đối thủ.
---------------------------------------------
1.Thầy mo đẳng cấp cao nhất
Chính ông đã góp phần không nhỏ để tạo dựng nên trạm y tế từ những ngày đầu tiên. Gần một trăm cây hồi, quế do chính tay ông trồng trước sân trạm và quanh vườn thuốc bạt ngàn, giờ đã ngót nghét ba chục tuổi rồi.
Đầu mùa xuân nhưng cái lạnh của núi rừng vẫn còn thấu da thấu thịt. Cái lạnh thấm qua mái tranh, qua ô cửa sổ của ngôi nhà trình tường lớn, hơi thấp và dài của trạm y tế khiến không gian còn mờ tối như ngưng đọng lại. Gió len qua những kẽ nứt của bức tường cũ, thổi vào những giường bệnh bằng ván gác lên khiến mấy bệnh nhân đang ngủ co quắp vì lạnh. Đằng sau ngôi nhà là dãy lán tạm cho người nhà bệnh nhân tềnh toàng, mái phủ bằng một lớp dày lá và thân lau khô, mốc thếch. Bên dưới quây bằng phên nứa mỏng rếch rác. Bên trong nền đất chạt nện chặt và khô, rơm và lá chuối khô quây lại thành ổ trên tấm giát nứa cho người nằm. Vài người đã dậy nhóm thêm lửa sưởi, nhìn ra ngoài cửa chăm chú. Ngoài sân đất phía sau trạm rộng và phẳng, không khí lạnh và sương như giảm hẳn đi bởi những đường đao múa loang loáng của trạm trưởng Liên. Từng đám sương bạt hẳn ra, thỉnh thoảng những giọt sương trên tán lá hồi nhỏ xuống gặp đao loan bắn tía lia. Mấy chiếc lá khô dưới sân tốc lên theo bước chân bị đao cắt vụn đẩy xoay chong chóng rồi dạt ra xa. Kết thúc bài đao, cắp đao vào nách, Liên khoa tay bái tổ rồi hít thật sâu và thở ra chầm chậm, một làn hơi trắng phảng phất thoát nhẹ trên cánh mũi. Cô khẽ vén tóc, vuốt nhẹ mồ hôi lấm tấm chân mai và nhìn về khu nhà chính trạm y tế khẽ trầm ngâm. Mới hôm trước Tết Nguyên đán, rét dữ dội, nhiệt độ còn xuống dưới 0oC. Nhiều người già ở Cao Lộc chết cóng. Nhiều trâu bò cũng bị chết rét, vừa đúng dịp Tết, ngả ra thịt chia nhau, vừa làm ma, vừa lo Tết luôn. Thị trấn Đồng Đăng cuối thập niên bảy mươi bấy giờ chỉ có vài con phố với mấy trăm nóc nhà dân rất thưa thớt, một đường xe lửa nhỏ chạy qua, một nhà thờ đơn sơ, trường học và vài xí nghiệp khai khoáng, trạm thu mua lâm thổ sản, mấy cửa hàng thương nghiệp.... Nhưng trong dịp giáp Tết, trạm y tế luôn chật kín người ốm bệnh do trời rét đậm, có cả người ở thị trấn và các bản xung quanh đưa đến. Y tá Liên và hai nhân viên trong trạm huy động cả người nhà bệnh nhân phục vụ cũng không xuể. May mà cái rét cũng qua dần. Bệnh nhân dần khỏi và về, chỉ còn hơn chục người bị nặng vẫn nằm lại qua Tết . Nhưng Liên và hai đồng nghiệp không có ngày nghỉ. Chỉ tội cho A Si và Yến không được về nhà ăn Tết. Yến người Kinh, 21 tuổi, mới ra trường, nhà thầy mẹ ở ngay thị xã Lạng Sơn. Còn A Si người Tày, hơn Yến năm tuổi, nhà ở Đồng Mỏ, Chi Lăng. A Si đã có vợ và một con gái sáu tháng tuổi. Tết này cả hai bận tối mắt, không kịp cả báo tin về. Bố mẹ Yến thương con gái trước Tết đã lên thăm và mang quà Tết lên cho, nhìn bệnh nhân la liệt, con gái đang tất tả tiêm tiêm khám khám, không kịp tiếp. Cả hai chỉ biết thở dài rồi quay về. Còn y tá Liên thì chỉ kịp về nhà dọn dẹp chút rồi sắp lễ thắp hương cho gia tiên chiều hôm 30 Tết rồi gửi nhà cho già thợ rèn Nùng Lếnh hàng xóm, tất tả quay lại trạm. Chồng Liên đang là một sĩ quan chỉ huy thuộc sư 304 quân đoàn 2 ở chiến trường Campuchia, Tết không về. Hai con trai sinh đôi là Kì Hùng và Kì Mạnh. Kì Hùng đang học Trường Sĩ quan Tăng Thiết Giáp ở Vĩnh Phúc, còn Kì Mạnh đang theo học Trường Sĩ quan Đặc công ở Xuân Mai, Chương Mỹ, Hà Tây. Từ cuối năm 1978, tình hình vùng biên căng thẳng nên cả các đơn vị chủ lực và học viên các trường quân chính miền Bắc đều tập trung huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu. Còn con gái Kì Hạnh thì đang học năm đầu Đại học Quân y tại thị xã Hà Đông. Thầy Pò Mạc đưa anh Kì Hoằng đi tìm sâm trời ở dãy Hoàng Liên Sơn từ rằm tháng chạp, hẹn nhanh thì một tháng mới về. Bá Pò Khâm bố anh Kì Hoằng ốm nặng, miếng sâm trời mấy năm trước Pò Mạc mang sang, giờ mới đem ra, dùng đã gần hết mà chỉ cầm cự. Không có sâm trời thì không qua được, nên anh Kì Hoằng từ Na Kang vừa sang báo tin là Pò Mạc đưa đi luôn. Chiều qua, bệnh nhân về bớt. Liên cho A Si nghỉ hai ngày, về thăm vợ con, gửi theo thăm cháu một làn tre đầy bánh trái, lá thuốc, thịt phơi khô và một cái vỏ chăn con công đỏ chói. Trạm chỉ còn Liên và Yến ở lại chăm sóc bệnh nhân.
Trịnh Hoàng Kì Liên vừa là con gái duy nhất vừa là đệ tử đích truyền của Pò Mạc ở Lạng Sơn. Vợ mất sớm, Pò Mạc đã dành tất cả tình yêu thương và tâm huyết y võ cho con. Vừa dạy chữ vừa truyền nghệ. Khi mới 16 tuổi thạo cả tiếng Tày, tiếng Tráng, tiếng Pháp và tiếng Việt, Liên tinh thông quyền cước, đao thương. Liên sở trường về đao. Ánh đao loan của Liên khi thì bung nhẹ khoái lãng với cước bộ thanh thoát thuần thục, khi thì như chớp giật đầy sát khí, đao chồng đao tẽ ra như nan quạt mang khí thế lăng nhiên bạt hồn. Luyện được đường đao đấy là cả một câu chuyện dài của cả hai cha con. Ba mươi nhăm năm nay, chỉ trừ thời gian mang bầu và chăm con trong cữ thì sáng sớm nào, Liên cũng dậy sớm luyện khí, khi trời sáng hơn thì luyện đao pháp, bắn nỏ, phi dao. Riêng tài phi dao thì dù cố gắng thế nào Liên cũng chưa bao giờ vượt qua được Pò Mạc. Dù trong khoảng cách 30 mét, con chim bồ câu núi đang bay, cô chỉ cần một cái vung tay, lưỡi dao cong chỉ dài hơn nửa gang, sắc lẻm đủ cắt ngang cái cổ đang vươn ra chấp chới. Tuy thế Liên vẫn là một trưởng tràng được các thế hệ môn sinh của Pò Mạc trong đó có chồng của Liên kính nể và tự hào. Năm nay Liên sang tuổi ba tám, cái tuổi quá nửa chừng đời của người phụ nữ, nhưng thời gian dường như bất lực trước sức lực và vóc dáng của cô. Được thầy và ông ngoại rèn luyện cho từ nhỏ với vô số bài tập khắc nghiệt khi còn ở mãi Na Kang bên Ninh Minh thuộc Sùng Tả, Quảng Tây. Khi về xứ Lạng, cô vừa đi học, rồi làm cán bộ y tế, vừa giúp thầy huấn luyện lò võ. Liên cao và đậm người giống thầy, mắt sắc như dao, leo núi trèo cây hái thuốc nhanh thoăn thoắt, cả ngày không biết mệt...
Trời sáng, Yến cũng đã dậy. Đêm qua được ngủ một giấc ngon lành. Cô nhanh nhẹn mang thau ra giếng rửa mặt. Hai con chó thấy cô ra, vẫy đuôi nhảy cẫng lên chạy theo. Cái giếng nhỏ, quanh miệng xếp những tảng đá xanh đen, sâu hun hút, nước trong vắt. Yến vươn vai nhẹ, cẩn thận áp khăn mặt trên hai tay vào mặt. Cảm giác lạnh tê từ nước giếng thấm vào da thịt làm Yến tỉnh hẳn. Chiếc khăn mặt khẽ miết lên làn da trắng mịn, dừng lại một chút ở cái lúm đồng tiền lặn sâu, cái cổ kiêu ba ngấn thanh mảnh. Rồi Yến dừng lại chải tóc, vừa chải vừa hát mấy câu vui nhộn. Tóc buộc đuôi gà gọn gàng, Yến đi về phía Liên vừa mới dừng tập:
- Cô dậy tập sớm thế. Cháu ngủ say quá, quên cả giờ tập rồi.
Liên quay sang nhìn Yến cười đáp:
- Ừ, cô quen rồi. Cháu đã đỡ mệt chưa?
- Cháu đỡ rồi. Mấy tuần nhiều bệnh nhân quá cũng thấy oải. Nhưng ngủ được giấc đã đời nên cũng khỏe rồi. Hôm nay rảnh, cô dạy cháu nốt bài quyền nhé!
Liên nhìn Yến. Yến khá xinh, người cao và cân đối. Mặt bầu bĩnh, răng trắng đều tăm tắp. Mắt đen láy, đuôi mắt dài. Một nốt ruồi nhỏ sát mí dưới bên trái. Chiếc áo màu xanh hoa thiên lý, cổ trái tim có thêu chim én khuôn gọn thân hình vắn căng, trẻ trung. Yến chưa có người yêu. Mấy anh bên ty thương nghiệp, bên đại đội 5 công an vũ trang ở pháo đài Đồng Đăng thích Yến lắm nhưng cô chưa nhận lời với ai cả. Yến siêng, giỏi chuyên môn và thích học võ lắm. Mới về trạm được nửa năm nhưng rất chịu học. Liên rất hài lòng về cô bé này.
- Chắc không được rồi - Liên nói - Hôm nay mùng 9 rồi, mai lễ đền Mẫu. Sáng nay, cháu trực trạm nhé. Cô lên đền giúp mọi người quét dọn sắp lễ đã. Hôm nay vẫn chưa thấy thầy Mạc về, nên cô phải lên giúp nhà đền thôi. Mọi năm, thầy ở nhà thì dịp này đều lo việc lễ cả.
- Ôi thế ạ! Đã đến lễ Mẫu rồi! Mấy năm trước cháu cũng hay theo thầy mẹ lên lễ. Nhanh thật đấy.
- Ừ, lễ Mẫu là lễ to nhất, vui nhất ở vùng biên này mà. Năm nay, tình hình biên căng đấy. Chưa biết thế nào. Cháu ở lại trực trạm phải chú ý cảnh giác đấy nhé. Bảo cả mấy người nhà bệnh nhân nữa!
-Vâng, cháu biết rồi ạ! Có con Luông và con Vàng coi trạm nữa, cô cứ yên tâm!
- Lát nữa cô kiểm tra bệnh nhân và cho thuốc xong rồi đi. Có khẩu súng kíp để trong tủ bên phòng thuốc đấy.
-Vâng ạ!
*
* *
Ở vùng giáp biên này rất phức tạp. Trộm cướp không thiếu, nhà nào cũng cẩn thận. Đàn ông con giai trong bản ai cũng biết dăm miếng võ phòng thân. Đàn bà con gái biết đặt bẫy, bắn nỏ, bắn súng kíp là chuyện thường tình. Mấy năm nay, bọn thám báo tìm mọi cách trà trộn thâm nhập các tỉnh vùng biên quấy rồi, phá hoại khiến nhiều nhà đều lo tích cóp và cảnh giác thận trọng. Lực luợng công an biên phòng và dân quân đã tăng cường tuần tra. Không ít đêm, tiếng súng đã vang lên trong các hẻm đường núi. Đầu năm 1978, dòng người Hoa từ Việt Nam về nước ngày một nhiều qua cửa khẩu Hữu Nghị. Đến đầu tháng bảy, bên kia cấm biên. Lệnh đóng cửa biên giới đã khiến dòng người Hoa ùn tắc ở cửa khẩu. Họ dựng lều bạt sát cửa khẩu, cả trong những khu vực cấm vừa sinh hoạt chờ chực vừa làm mất an ninh trật tự vùng biên. Tỉnh ủy Cao Lạng phải lập “Ban giải tỏa người Hoa” để vận động người Hoa trở về nơi cũ làm ăn sinh sống, mất mấy tháng trời mới tạm ổn. Một phần không nhỏ người Hoa cắm trụ ở lại thị xã Lạng Sơn và thị trấn Đồng Đăng, Na Sầm để làm ăn sinh sống. Nhiều nhà tạm lại mọc lên. Những cắm dùng xếnh xáng, nỉ hảo lại rộn ràng chao chát quán xá chợ búa. Tuy nhiên đó mới chỉ là phần tro tàn bên trên của bếp lửa mới tắt mà thôi, Pò Mạc bảo Liên vậy rồi lẳng lặng đi lau khẩu súng săn hai nòng tự chế, những viên đạn được lau, xếp gọn gàng như những con chuột vàng láp lánh chiếu ánh lửa hắt lến từ bếp củi giữa nhà. Liên cũng biết vậy nên cô để ý mọi việc rất kĩ. Qua các lớp đệ tử đàn em của lò võ sống rải rác khắp vùng biên Cao - Lạng cho đến Móng Cái, qua những lần xuống bản hỗ trợ chữa bệnh, trong mỗi phiên chợ, cô vẫn chú ý theo dõi những gương mặt lạ, khả nghi mới xuất hiện. Trong công an biên phòng các đồn trạm và dân quân cũng có nhiều người biết hoặc học võ từ Pò Mạc nên cũng thường xuyên cho cô biết tin.
Từ ngày Yến về trạm, cô và A Si đã gấp rút huấn luyện cho Yến, vừa chăm bệnh nhân vừa tập võ, bắn súng. Thỉnh thoảng các anh công an biên phòng đến chơi thăm trạm cũng hướng dẫn thêm. Hôm nào không xuống bản chữa bệnh thì chăm vườn thuốc của trạm và tăng gia. Cô bé khỏe hơn và tiến bộ trông thấy. Liên nói xong, quày quả đi vào nhà chính, thay đồ và chuẩn bị lên gặp bệnh nhân.
- Hôm nay thấy trong người dễ chịu hơn chưa, bá Phán?
Y tá Liên vừa hỏi vừa cặp nhiệt độ và bắt mạch cho bà già. Bà già khoảng hơn bảy mươi, dáng người mệt mỏi, hai mắt trũng xuống, da mồi nhăn nheo bợt bạt. Khớp cổ tay, ngón tay sưng vều.
- Đau lắm. Đỡ rét thì thấy có khá hơn, cán bộ à! - Bà móm mém trả lời.
- Bệnh này không khỏi hẳn được đâu, bá à. Phải sống chung với nó thôi!
Liên xoa bóp tay chân giúp bà môt lát và ghi liều thuốc chỉ định vào giấy. Chồng bá Phán là anh họ ông Nùng Lếnh, ở bản Nà Cỏn bên cạnh, chết từ thời trẻ, một cái chết hi hữu, nghe đâu khi đi làm nương bắt được một con rắn độc về làm thịt, con rắn độc còn sống, vừa chặt đầu rời ra rồi, vậy mà không hiểu sao cái đầu rắn còn ngọ ngậy lại bập được răng vào tay người giết nó. Không kịp tìm thầy tìm thuốc, chỉ một chốc chất độc ngấm nhanh, khi vợ về đã thấy chồng chết gục ngay bên xác rắn. Đứa con trai sau này lớn lên biết chuyện sinh thù, tìm mọi cách để giết rắn không từ loại nào. Rồi hai vợ chồng nó đột nhiên bỏ đi biệt tích. Bà ở cùng với thằng Khuôn, cháu trai. Tết này, đứa cháu đi bốc hàng gì đó cho mấy người Tàu ở giáp biên, ít về. Bà được người bản đưa lên trạm y tế chữa đau khớp, thỉnh thoảng mới thấy có người ở bản lên thăm. Y tá Liên và mọi người cũng đỡ đần cho nhiều.
- Đúng đấy cán bộ à! Chẳng biết thằng Nùng Khuôn có biết hay không nữa.
Bà lão nhìn ra cửa sổ, ánh mắt già nua rệu rạ như vô hồn. Một cơn gió nhẹ thổi qua, những chiếc là vàng rơi rớt ngoài sân cuốn bay tung lọt qua cáah cửa phòng bệnh nhân của trạm. Liên quay sang khám cho một người Hoa trung niên, dáng khắc khổ:
-Ông Chu Chương đỡ đau lưng chưa? Tại mấy hôm trước Tết kéo hàng nặng quá nên đau bại thôi. Hôm nay cháu sẽ tiêm cho một mũi nữa là có thể về được rồi.
-Dạ, cảm ơn cán bộ! Được thế thì mừng quá! Nhưng mà tôi chẳng có...
- Ông cứ về đi, không phải lo, khi nào có tiền thuốc lên gửi cho trạm cũng được. Chỉ là về đừng có tham việc làm quá. Để bị sụm lưng lại là khó phục hồi lắm đấy!
- Dạ vâng, cảm ơn cán bộ nhiều. Cán bộ tốt quá!
Liên khám nốt cho mấy người bệnh, ghi chép vào sổ, để ở phòng thuốc, dặn dò Yến cẩn thận rồi mới đi. Hôm nay là một ngày bận rộn đây, Liên lẩm bẩm, mà bận rộn thật, thiếu chút nữa còn va chạm với mấy tên phỉ tặc nữa.
II - A SUNG
Trong các đệ tử lớp đầu của Pò Mạc có A Sung tức Thân Kì Sung, người Tày hơn Liên bốn tuổi, đấu quyền ngang ngửa với Liên. Sung người cao, vai hổ lưng gấu, tay vượn, từ bé đã nổi tiếng gan dạ. Mồ côi cha từ nhỏ. Cha A Sung mất khi quân Nhật tràn vào thị trấn năm bốn mươi, mãi mới tìm thấy hài cốt. Mẹ đi theo cách mạng từ thời Việt Minh. Đầu kháng chiến chống Pháp thì làm ở chiến khu Việt Bắc, phụ trách phát triển hoạt động phong trào du kích vùng Cao Lạng, đi về rất bí mật. Có khi cả nửa năm A Sung không gặp mẹ. A Sung ở nhà với ông bà nội ở Nà Pàng. Ông nội Sung là Thân Kì Phúc, thầy Tào có tiếng của vùng Cao Lộc, Văn Lãng... Đối với người Tày, Nùng ở Cao - Lạng, thầy Tào là người được coi là toàn tài, toàn đức, có khả năng kết nối hoặc chia cắt giữa linh hồn người đã khuất với các cõi, có nhiều bùa chú pháp quyết để trừ khử ma tà. Thầy Tào còn phải là người am hiểu kinh Dịch, đặc biệt là phải thông thạo chữ Nho, chữ Nôm. Mặt khác, thầy Tào phải là người công tâm, chịu khó, thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao kỹ năng nghề nghiệp. Thỉnh thoảng A Sung theo phụ giúp ông đi hành lễ trong các đám tang ma, cúng trừ tà để chữa bệnh, cúng cầu yên, cầu phúc cho gia đình, làng bản. Cậu đã học được thành thạo cách thổi kèn mạy loi từ ông nội. Ông của A Sung còn có thể kiêm nghề bói toán, xem đất, chọn ngày lành tránh ngày dữ, xem số tử vi của trai gái để định việc hôn nhân… Ngoài ra ông còn làm lễ cấp sắc (1) cho các thầy Mo, Then trong vùng. Ở nhà, A Sung giúp bà làm nhiều việc, nuôi lợn, lấy củi chẻ củi, xuống suối cõng nước, đi nương bẻ ngô, trồng cải làn, trồng mía... Lúc rảnh thì ra ngoài truông đặt bẫy gà rừng, ra suối bắn cá. Cá suối khỏe và khôn lắm, mò hay câu không bao giờ được, thấy bóng người là rúc vào ngách đá, rễ cây mọc trùm ra suối. A Sung thường nấp sau tảng đá, lấy lá cây ngụy trang nằm im phắc. Cá thấy lặng bơi ra đớp rêu đá liền bị mũi tên của A Sung xiên trúng. A Sung bắn nỏ rất cừ và thông thuộc đường rừng. Năm mười hai tuổi, người khá phổng phao, chạy đường đồi cả canh giờ không thấy mỏi, A Sung đã có thể một mình dắt chó vào núi đi săn. Mọi lần, đã vào rừng săn là kiểu gì lúc về không có cheo, dúi thì cũng có cầy cáo, rắn, rùa. Ít khi về tay không. Mấy hôm nay cánh thợ săn trong làng đi săn mãi bên Văn Quán. Mấy đứa trẻ nhóm săn của A Sung cũng đi theo học hỏi kinh nghiệm, ở các bản Tày Nùng vùng Cao Lạng, trẻ con được đi rừng từ rất sớm, hái rau, hái nấm, đào măng, nhặt củi, đặt bẫy… đều làm hết. Với chúng, rừng núi chính là nhà, chỉ cần nhìn hướng núi, ngửi hơi gió, xem vạt cỏ đổ, cành lá mới gẫy đã tìm được đường về, kiếm cái ăn… chả lo lạc rừng, quên lối
Buổi sáng hôm đó, A Sung đang lúi húi chỉnh lại cái dây bằng ruột mèo xoắn đanh trên cánh nỏ gỗ táu mật đen bóng. Cái nỏ đã nhiều lần cùng nó lập công.
- A Sung à!
-----------------------------------------------------------------
1. Thứ bậc trong cúng lễ
Mé Đức (1) đang đan cái rọ lợn, gọi với vào nhà. Người Tày khi có con thường gọi bố mẹ theo tên con trưởng. Bố A Sung là Thân Kì Đức, con trai duy nhất của thầy Tào. A Sung ở trong nhà vội chạy ra.
-Dạ, gì á mé?
-Sáng nay, pú Tào (2) về đấy. Mày vào núi kiếm cái gì về cho pú Tào uống rượu nhé!
Nghe nói thế, A Sung đồng ý ngay. Mấy ngày pú Tào đi vắng. Nó buộc phải quanh quẩn ở nhà giúp Mé. Nó làm việc luôn chân luôn tay nhưng cứ thấy lửng thửng thiếu thiếu cái gì đó. Pú Tào đi sang làm đám ma cho một nhà bên Khuổi Tao ba ngày trước. Có pi khươi (3) , pú Tào đi cùng nên A Sung không cần phải mang giúp đồ tế lễ đi theo. Nó vẫn nhớ từng nghi lễ và các bài văn khấn bằng cách hát nói, hát sli, vừa giúp linh hồn người chết dễ siêu thoát của ông. Sau mỗi lần đi lễ đám tang về, pú Tào thường thắp hương trên bát hương thờ Phi Ham(4) rồi kin lẩu(5) để thanh tẩy trừ tà. Ông bày lên bàn thờ một hũ rượu ngọt dâng rượu lên Thánh rồi lầm rầm khấn vái. Mỗi lần kin lẩu thường rất lâu, vừa uống vừa lẩm bẩm mấy câu then gì đó. Những lúc ấy pú Tào thường ôm cậu vào lòng, gắp thức nhắm cho cậu, rồi xoa đầu cậu, cười khà khà. Những lúc như thế, A Sung khoái chí lắm. Cậu quý pú
--------------------------------------------------------------------
1. Bà nội
2. Ông nội, 3. Anh rể
3. Thờ Tam Thanh - Tổ sư của Đạo Pháp ở nhà có người hành nghề Tào
4.Uống rượu
mé lắm. Po thẩu(1) mất sớm, me thẩu(2) đi kháng chiến, nên cậu được pú mé chăm chút rất nhiều, lại dạy nó học chữ nữa. Cậu vào nhà lấy mấy thứ đồ đi săn, cẩn thận cho vào bọc khoác lên vai cùng cánh nỏ, ống tên. Nhét con dao đi rừng vào thắt lưng, A Sung bước ra sân huýt sáo, con chó Vện từ đâu chạy về. Vốn còn con Mực nữa nhưng mấy hôm trước me thẩu đi công tác từ đêm nên dắt nó đi theo. Nhìn thấy bộ dạng A Sung, con Vện nhảy cẫng lên ra chiều rất phấn khích. Không cần chờ thúc giục, nó đã phóng chân dốc, tung tăng nhảy xuống con suối gần cạn sang bờ bên kia đứng chờ cậu chủ đi xuống. Mặt trời đã lên gần bằng đầu người rồi. Tiết trời cuối thu hơi lạnh. A Sung vội chào mé rồi đi luôn. Hôm nay cậu quyết định đi săn ở chỗ mới. Chỗ này, cánh thợ săn trong làng cũng ít khi đến.
Vượt qua quãng truông rậm và mấy quả đồi lớn đầy lau lách và cây bụi, A Sung men theo lối mòn chân núi hướng lên phía Bắc. Mặt trời vừa lên cao, ánh nắng xuyên chéo qua những tán lá xanh thưa thớt thành từng vệt lấp lánh. Từng đám dây leo bám vào thân cây, vách núi thả mình đong đưa. Mấy cụm lan lơ lửng trên thân cây mốc meo nở muộn từng chùm hoa trắng muốt. Mấy con ong đang lượn trên những cánh hoa. A Sung ngây người, hít một hơi dài, chút hương hoa nồng quyện trong gió sớm nhẹ thấm sâu trong lồng ngực. Cậu khẽ huýt điệu sáo vui vẻ. Con chó săn đang chạy, thấy vậy ngoái lại chờ. Ánh mắt nó lấp lánh, cái lưỡi thè dài như đang cười. Chừng nửa canh giờ đi đường, cậu mới đến chỗ săn. Cậu không thấy mệt. Sáng nay thời tiết đẹp, chắc chắn sẽ có
---------------------------------------------------------------------
1. Bố, 2. Mẹ
một buổi săn thú vị, cậu nghĩ vậy trong khi con Vện bắt đầu sục sạo. Con chó đã đi săn nhiều lần nên thính hơi lắm. Cậu nhìn quanh một vòng, bứt nắm lá tung lên xác định hướng gió.
A Sung chăm chú nhìn xuống cỏ để phát hiện dấu vết. Nhiều lần đi cùng cánh thợ săn trong bản, cậu đã học được tập tính cũng như cách tìm dấu của từng con vật săn qua dấu vết bước chân, mùi phân hay nước tiểu, vệt cọ xước trên thân cây hay lối ra vào hang... Không thấy dấu vết mới. Cậu hơi thất vọng, nhìn ra xa. Con Vện đang chạy đánh hơi ở chân ngọn núi thấp giáp biên, bỗng con chó săn to tướng dừng sững lại, chun mũi, lông xù ra, ép mình xuống đất vẻ sợ hãi. Nó đã từng cắn chết cả con sói gộc trong đàn sói năm trước từ bên kia biên giới sang. Thấy vậy cậu vội nhẹ nhàng tiến đến, thụp người xuống quan sát theo hướng con chó săn. Vùng này cậu chưa bao giờ đến săn. Trên đám đất ẩm có bụi rậm, có dấu trườn đi nhẵn thín dưới cỏ, chỉ riêng chỗ đất nhẵn khô ráo hơn. A Sung để ý thấy chỗ con Vện dừng lại có mấy cục phân nửa vàng nửa đen còn mới, to khác thường, mủi khẳm lặm. Đây chính là phân của loài rắn hổ mang chúa. A Sung đã từng bắt rắn nhưng chưa bao giờ nhìn thấy hang hoặc bắt được rắn chúa, chỉ nghe cánh thợ săn trong bản kể lại thôi. Chắc hang của nó cũng gần đây thôi. Con này chắc to đấy. Phải bắt con hổ chúa này thôi, một mình A Sung thì không thể nhưng nhất định phải tìm ra hang của nó rồi về báo thêm người đến. Lá thuốc trị rắn cắn thì A Sung cũng đã nhìn thấy mấy loại quanh đây, có cả bạch hoa xà, kim hoàng, cây nổ lá nhỏ, lá trầu lương, lá bồ ngót, phèn đen... Tiện tay, cậu hái lấy nắm lá cho vào mồm nhai. Cứ ở đâu có rắn thì xung quanh hang nó có lá cỏ làm thuốc trị rắn. Các cụ nói cấm có sai. A Sung không sợ, cậu hít một hơi thật sâu vào lồng ngực. Một cảm giác hư vinh thật khó tả len lỏi trong cơ thể cậu. Tìm được hang có rắn chúa đã là một chiến tích lớn. Nhiều thợ bắt rắn vùng này cả đời chỉ mong một lần tìm được hang rắn chúa chứ chưa thấy người nào có thể một mình tự bắt được. Cánh thợ săn trong bản sẽ nhìn cậu bằng con mắt khác. A Sung vẫn cẩn thận đề phòng, một tay thò vào bọc rút miếng da hươu tẩm lá thuốc bí truyền của dân thợ bắt rắn cậu đã dùng mấy lần, một tay rút con dao dài, cong, lưỡi thép sáng xanh. Con dao mà ông nội tặng cậu. Chiều cháu, thầy Tào đã đổi cả chiếc vòng bạc trắng lớn cho một người Khách bên Tàu sang chợ phiên năm ngoái để lấy con dao bén. Con chó săn hiểu ý chủ cũng ép sát người xuống đất trườn tới, cánh mũi phập phồng. Nhưng đám lông gáy vẫn dựng lên rung rung. Nó có vẻ e ngại. Gió núi thổi nhẹ vào mặt. Mùi phân rắn hổ chúa vẫn nồng nặc khó thở. A Sung thận trọng gạt đám cây lúp xúp cạnh mấy tảng đá, chân nhón khẽ, mắt chăm chú theo dõi dấu vệt trườn dưới đất. Qua khoảng sấp bóng mấy tảng đá lớn, khoảng đất chân núi mở rộng ra, phẳng phiu và sáng rõ. Con Vện dừng hẳn lại, mắt nhìn về phía trước dại hẳn, tai cụp cả xuống, mấy cái ria trên mõm run rẩy. A Sung, bước lên mấy bước ngước mắt nhìn ra xa, cậu cũng nín thở, tim đập nặng nề. Trước mắt cậu, trên bãi trống, hai con rắn hổ mang chúa to khác thường đang quấn lấy nhau. Đám cỏ tươi tốt bị đè quằn rạp cả xuống, rung bần bật. Chưa bao giờ A Sung nhìn thấy con rắn to và dài như thế, mỗi con phải dài đến gần bốn sải tay người lớn. Con rắn to hơn, chắc là con đực, có màu đen, vảy lấp lánh, cái đầu hình tam giác. Con cái kia bé hơn một chút màu đen pha vàng và xám chì. Trên thân cả hai con rắn đều có những vằn trắng hình chữ V ngược đều tăm tắp đến tận đuôi. Cả hai con rắn đang ngóc lên cao uốn éo thân mình, cọ cọ xoa xoa đầu vào nhau, để lộ ra hầu rắn mầu vàng. Phần thân rắn còn lại chắc phải dài gấp ba bốn phẩn đầu nhô lên đang quấn lấy nhau trên đám cỏ. Giờ đang đúng mùa giao phối của rắn hổ chúa. Có vẻ con rắn đực vừa tỏ tình xong và cuộc giao phối bắt đầu. Chúng chưa phát hiện ra kẻ lạ. Nhưng A Sung thì chả còn tâm trí đâu mà nghĩ đến chuyện chúng phát hiện ra hay chưa. Người Tày rất kỵ điều này, nhìn thấy rắn giao phối là gặp điều xui xẻo, cần phải tránh xa và về nhà phải đốt vía trừ tà ngay. Có như thế mới may ra tai qua nạn khỏi. A Sung cũng biết tập tính của nhiều loài vật hoang dã khi đang giao phối bị kẻ lạ hoặc con thứ ba can thiệp thường rất dễ nổi điên và tấn công dữ dội. Loài hổ chúa to và dài nhưng khi tấn công và đuổi theo con mồi thì rất nhanh. Chỉ cần một con hổ chúa này mổ trúng thì đến voi cũng chết chứ đừng nói người. Bản Na Pàng đã từng chứng kiến con trâu mộng nhà ông Nùng Lếnh thợ rèn bị con rắn hổ mang chúa mổ trúng ở gần trái bếp. Con rắn đang thời kì lột da luyện nọc nên độc tính phát tác mạnh nhất để giúp nó tự vệ. Con trâu mộng ra ăn đống thân ngô mới thu hái trên nương về cạnh tường bếp xập xệ nhà ông Nùng Lếnh liền bị con rắn mổ một nhát chí tử. Con vật khốn khổ đã rống lên mấy tiếng thảm thiết, chỉ chừng vài phút sau tê liệt và gục xuống, thở khò khè, co giật rồi chết. Con rắn bị mọi người đập chết hôm đó cũng chỉ to bằng hơn nửa một trong hai con trước mặt thôi. Một cảm giác lạnh buốt thoáng hiện trong đầu A Sung. Cậu dợm chân bước lùi. Con Vện lủi theo. Một bước... nín thở...mồ hôi rịn ra trong lòng bàn tay cầm dao. Hai bước... tiếng tim đập chậm hẳn lại, cổ họng như có ai chẹn ngang, đồng tử như dãn thêm...
Cạch... một hòn đá thia lia từ lưng núi bên kia rơi cầu vồng xuống nghe khô lạnh. Cả A Sung, con chó săn và hai con rắn hổ chúa đều giật mình sững lại. Cậu luống cuống. Hai con rắn phát hiện ra hai kẻ rình mò đồng loạt phì lên giận dữ, hai bên mang bạnh ra như cái mui xe. Con chó săn cũng bật dậy, sủa như tru lên, tiến đến phía trước cậu chủ. Hai con hổ chúa buông nhau ra. Chúng ngóc đầu cao trườn tới cất tiếng huýt gió nhỏ và sâu rờn rợn báo hiệu cơn thịnh nộ. Hai cái đầu rắn to tướng, bè bè, lưỡi chẻ thè dài đỏ lòm, với hai đôi mắt to đúng bằng quả trứng gà đen tròn, sáng ma mị và mi mắt trong suốt như có lửa chiếu thẳng vào khiến A Sung đờ đẫn cả người. Cậu định chạy nhưng hai chân nặng như chì không theo sự điều khiển của mình. Cậu vứt tấm da hươu về phía trước. Con rắn hổ chúa đen, to hơn mổ xuống nhanh như chớp. Con Vện thấy chủ bị nguy bất chấp sợ hãi, hộc lên một tiếng rồi lao lên liều chết. A Sung vừa lùi chân thì bị hẫng ngả người xuống, đè rạp vào mấy thân cây to bằng cổ tay đằng sau. Thoát được cú tấn công của con rắn chúa thứ nhất nhưng con Vện cứu chủ đã lãnh nguyên cú mổ độc địa, chỉ oẳng lên một tiếng rồi bị hất sang một bên. Con rắn chúa thứ hai đã lao tới mổ thẳng vào tay cầm dao của A Sung. Đang trong tư thế ngã người, cậu thấy cánh tay nhói lên, liền buông dao, lật nghiêng người sang trái. Đúng lúc đó, đám thân cây thoát khỏi lực đè liền bật ngược trở lại cùng con dao đập thẳng vào thân trên con rắn chúa khiến nó bắn tung lên cao và rơi mạnh xuống mấy tảng đá, nằm đưỡn ra. A Sung tay trái ôm chặt tay phải lăn hai vòng, ngồi dậy, vừa móc trong miệng nắm lá nhai giập từ nãy đắp vào chỗ vết cắn đang tứa máu đen. Kể lại sự việc thì dài dòng nhưng tất cả chỉ diễn ra trong sáu bảy giây thôi. A Sung vừa ngẩng lên đã thấy nhủn người...
Con hổ chúa thứ nhất đang tiến đến, ngóc đầu oai vệ lên. Thân hình dài hơn sáu mét tràn đầy sức mạnh và sự đe dọa. Nó vừa lắc lư vừa cất tiếng phì phì điên cuồng. Chắc nó đã nhìn thấy con rắn kia văng ra nằm đuồn đuỗn không biết chết hay sống nên quyết tâm trả thù bằng được. Nhất định không để cho hai kẻ phá hoại kia được sống hay chạy thoát. Con chó săn láo xược dám cản đường, nó đã tiễn xuống quỷ môn quan bằng cú ra đòn đích đáng gọn nhẹ. Còn thằng bé kia phải do chính nó trừng phạt. Chưa kẻ nào xâm phạm vào lãnh địa của nó mà có cơ hội nhìn thấy mặt trời. Đối phương vừa bị trúng độc rồi, chắc chắn không sống nổi. Nó không chỉ mổ mà còn quấn chặt bằng bộ xương sống rắn chắc và những bó cơ cuồn cuộn, siết chết thằng bé kia trong đau đớn. Thù này nhất định phải trả. Nó rướn người ...
A Sung thì chẳng còn đủ bình tĩnh và tỉnh táo để hiểu con rắn định làm gì. Nọc rắn thời kì động dục quá độc nên phát tác nhanh. Nắm lá thuốc vừa ngậm và đắp không đủ kịp để giải trừ bớt độc tố. Cậu bắt đầu thấy chóng mặt và buồn ngủ. Mắt cậu hoa lên, cái đầu rắn chúa lắc lư như ảo ảnh. Khi cái đầu rắn chúa rướn lên chuẩn bị bổ xuống, cái diềm cổ bạnh ra và hầu rắn vàng lộ hết cỡ, A Sung chỉ thấy một vệt sáng lóe lên rồi cậu lịm đi.
*
* *
Bóng tối vẫn tỏa xung quanh những tán cây và phía sau đám lau lách. Tiếng côn trùng rù rỉ trong các lùm cây bụi lúp xúp. Thỉnh thoảng có tiếng chít chít rào rào của đám chuột, dúi ra giỡn trăng. Ánh trăng thượng tuần tháng tám mờ ảo trong sương thu. Một con cú mèo sà cánh kiếm mồi vụt qua mặt. Tôi thấy mình đang đi. Con chó Vện đang chạy quẩn dưới chân. Thỉnh thoảng con chó quay lại dụi dụi đầu vào tay nó, lè lưỡi liếm liếm. Tôi cúi xuống ôm ghì lấy cái cổ đầy lông lá của nó vào lòng, lắc lắc. Con chó khoái chí ử ử trong cổ họng rồi vùng dậy chạy biến lên trước. Đường đi hơi gập gềnh. Phía trước tôi là thầy Tào và ông Khẩu Nang, pi khươi(1) của thầy Tào. Thầy Tào một tay cầm chiếc chuông nhỏ, một tay cầm ngọn đuốc đi trước. Chiếc chuông đồng cổ không biết có tự bao giờ, được truyền qua hơn mười đời nghề Tào, linh lực cự mạnh quý giá vô ngần. Chuông to như chiếc bát, nặng chừng hơn mười lạng, cao chừng mười tám phân, màu đồng đen, chỗ quai cầm mòn nhẵn, bóng lên sắc vàng. Bốn xung quanh có đúc bốn hình nổi mặt hổ phù và nhiều chữ tượng hình. Cây đuốc tẩm nhựa thông cháy bập bùng, thỉnh thoảng nổ lách tách tỏa mùi thơm khen khét. Trên lưng thầy Tào là chiếc đãy đựng đầy những lá cờ, lá phướn, cành phan, một cái thanh la, nạo bạt và mấy thứ đồ lặt vặt khác. Ông Khẩu Nang mang chiếc tráp giấy sớ, gậy tích trượng, kèn mạy loi và quần áo lễ. Còn tôi đi sau vai khoác khẩu súng kíp, dắt con ngựa chở lỉnh kỉnh một chiếc trống to và mấy cái trống mạy tảng nhỏ, mấy cây đuốc dự phòng, một
----------------------------------------------------------------
1. Anh rể
chiếc hòm gỗ lớn để đầy các đồ nghi lễ cho Then và đôi kiếm phép. Đôi kiếm cổ được truyền qua mấy đời làm Tào chỉ được sử dụng trong những việc lễ trọng và lễ đền Mẫu Đồng Đăng mùng 10 tháng giêng hàng năm. Hôm nay thầy Tào đi làm lễ cấp sắc cho Then ở bên Na Sầm. Chiều hôm trước, thầy Tào đã cùng A Sung chuẩn bị rất kĩ lưỡng từng món và viết lên các tờ tấu sớ, sắp xếp theo trình tự rồi cẩn thận đặt vào trong chiếc tráp bằng gỗ sơn kĩ không thấm nước.
-A Sung à, kiểm tra lại các đồ lễ của Then, xếp đúng thứ tự nhé. Nhớ mang cả bầu nước và khẩu súng đi - thầy Tào nhắc tôi – ăn rồi đi ngủ sớm đi!
-Dạ, xong rồi à. Cháu cho ngựa ăn nữa là xong à!
Ba người đi từ quá nửa đêm. Phải mất chừng hơn hai canh giờ đi bộ mới tới nơi. Tôi ngáp một cái thật dài, vừa đi vừa ngái ngủ. Tiếng chuông trên tay thầy Tào cứ kêu đinh đinh đang đang lanh lảnh, sắc nhọn trong đêm vắng. Thầy vừa đi vừa lẩm nhẩm những câu then bí hiểm, chân vẫn bước đều đặn. Con đường này thầy đã đi qua đi lại không biết bao nhiêu lần rồi. Tiếng vó ngựa khua mặt đường sỏi đá từng bước nghe khô khốc, chiếc lục lạc vang lên lẻ loi. Mấy bản nhỏ ven đường vẫn chìm trong giấc ngủ. Thấy có tiếng động, mấy con chó sủa ầm lên một chốc rồi im. Phía đông, trời bắt đầu sáng dần. Ba người không nói với nhau điều gì, cứ lặng lẽ đi. Chừng sáng bạch thì đến nơi.
Na Sầm buổi sáng hôm nay đông đúc hơn hẳn mọi ngày. Nhiều người trên các bản cao cũng kéo về, nhiều bà nhiều chị ăn mặc đẹp. Ai cũng có vẻ hào hứng. Lễ cấp sắc cho Then là một tập tục quan trọng trong cộng đồng người Tày ở Cao Lạng đã lưu truyền qua nhiều thế hệ và có ý nghĩa to lớn trong đời sống tâm linh, gắn kết cộng đồng. Rất lâu mới có lễ cấp sắc cho nên nhiều người từ già đến trẻ đều thích. Các bà Then phụ trách nhiều hoạt động cúng lễ nhỏ trong các làng, xã. Để một người hành nghề Then được chứng nhận đủ khả năng tiến hành nghi lễ cúng bái, cầu an trong đời sống tâm linh của cộng đồng thì nghi thức cấp sắc lần đầu là một trong những nghi lễ chính của đại lễ mở hào quang cho người làm Then. Trước khi được cấp sắc, người sắp làm Then phải có một thời gian đi theo phụ lễ cho các thầy Tào để học hỏi các nghi lễ cơ bản, cách sắp các lễ, sử dụng quyết ấn và viết giấy sớ. Dòng họ nào có người làm Then là một vinh dự lớn và được mọi người kính trọng, tin tưởng. Không được tự ý làm Then vì không được mọi người thừa nhận và mất thiêng. Bản thân người trước khi làm Then phải trực tiếp thêu thùa khâu quần áo lễ, mua sắm hoặc làm các đồ lễ của mình. Suốt thời gian đó phải giữ mình chay tịnh. Những ngày kiêng cữ thì không được làm. Khi làm xong phải đưa toàn bộ trang phục, đồ nghi lễ đó sang nhà thầy Tào để cúng trình tổ ba tháng mười ngày. Một số đồ nghi lễ đặc biệt phải do đích thân thầy Tào làm. Sau đó, để thực hiện lễ cấp sắc, nhà làm Then phải chọn ngày lành tháng tốt rồi thống nhất với thầy Tào về nghi lễ, phân công người phụ trách công việc và mời một số bà Then quanh vùng đến dự chứng kiến ra mắt. Ba bảy hăm mốt ngày trước khi thụ lễ, người sắp được làm Then phải trai giới, không được sát sinh, cãi nhau hay đi đến nơi mồ mả.
Hôm nay, nhà bà Nông Thị Dinh làm lễ cấp sắc Then, ở ngay đầu lối vào Na Sầm. Khi thầy Tào và hai người đến nơi thì mọi thứ đã chuẩn bị xong. Người nhà vội vàng ra đỡ các đồ lễ và mời lên nhà ngang nghỉ ngơi, ăn sáng cùng mấy người già trong họ tộc. Con Vện cũng được dành riêng một chỗ ở trái nhà với một thau thức ăn to. Trên nhà, khi mọi người ăn sáng xong rồi thì uống nước lá chè dây tươi đặc sít, hút thuốc lào. Cái ống điếu dài khảm bạc và vẽ hoa văn được chuyền tay nhau, chỉ một lúc sau khói phả mờ mịt. Lá thuốc lào ở đây được đất nên sống tốt, lá dày bản, thường thái to hơn dưới xuôi, khi phơi khô hút có vị nồng, hơi ngái. Thầy Tào không hút, đứng dậy vào nhà trong thay áo lễ. Tôi và ông Khẩu Nang chuyển hòm đồ lễ và chuông trống lên nhà chính. Cái nhà sàn dài, làm toàn bằng gỗ lim, nghiến hoặc táu mật lâu đời, gỗ sàn lên nước bóng loáng. Ông Khẩu Nang kiểm tra lại bàn thờ chính điện, chỉnh lại bức trướng và các lá phan, câu đối. Ông cắm vào mấy khoanh thân chuối cắt sẵn hình vẽ Tam Thanh và các thẻ bài có ghi lệnh phù bằng chữ Hán. Sau đó treo cành phướn đỏ ba dây bên trái, năm chuỗi sênh tiền và chiếc nón tre nhỏ vẽ hoa văn ở bên phải, rồi cho người nhà bưng lễ bày lên. Đồ lễ gồm một mâm xôi trắng, một cái thủ lợn to luộc chín có cái đuôi lợn đặt nằm ngang miệng; canh gà đồi nấu măng chua; cá suối nướng với bột cây tàu soi, một loại cây được dùng làm gia vị trong nhiều món ăn đặc sản địa phương; một ang nhỏ nước mưa trong vắt và rất nhiều hoa quả. Những cây hương dài để sẵn trong ống tre già hun khói ngay ngắn một góc. Bên kia là ống quẻ thẻ có khắc thư phù làm phép. Trên bàn nhỏ trước bàn thờ phủ chiếc khăn đỏ đã cũ nhưng sạch sẽ, bày một mâm toàn bộ trang phục và đồ nghi lễ, cây đàn tính để lát nữa trao cho người được cấp sắc Then. Tôi xếp trống lớn, trống nhỏ, thanh la bên cạnh chiếc chiếu đã trải sẵn rồi mang sáu dây cờ nhỏ hình tam giác cho người nhà đem buộc từ nóc nhà chính chéo sang hai bên mâm lễ ngoài sân. Ngoài chiếc sân rộng, Một mâm lễ cũng được bày sẵn trên bàn trải vải đỏ. Trên chiếc mâm đồng lớn là một đĩa đựng con gà sống luộc chắp cánh tiên ngay ngắn cùng lòng mề và miếng tiết tròn lòng bát. Một đĩa quả gồm chuối xanh, bưởi, mắc cọp, táo, hồng và mấy chùm ớt dài đỏ chói, một hũ rượu bằng sành bịt vải đỏ cài lá bưởi. Bát gạo đầy, đĩa muối trắng nhỏ và năm quả trứng gà xếp xung quanh. Một ống tre lớn dựng bên cạnh bàn Tết đầy vòng quanh hoa râm bụt tươi rói(1) . Hai bên bàn là hai thân chuối còn nguyên cả lá mới cắt cao tầm thân người được gim bốn góc cho đứng thẳng. Tôi bê tráp ra, đặt một cái chuông lắc tay, mấy tập giấy sớ, cốc nước hoa hồi thơm dịu dịu lên cạnh bàn. Xong rồi cả ông Khẩu Nang và tôi đều đi thay quần áo lễ. Ngoài sân, người đến xem đã đứng chật cả cái vườn rộng đã được dọn sạch, tràn ra mé đồi đối diện.
Đến giờ lành, thầy Tào bước ra chính điện. Thầy đội mũ hoàng quan ngũ nhạc, mặt trước có hình Tam Thanh, hai bên có thêu hai con rồng chầu vào, phía sau có hình âm dương bát quái. Bên trong thầy mặc quần lĩnh trắng, áo the thâm hai tay loe rộng, bên ngoài khoác áo choàng đỏ viền vàng. Cổ đeo chuỗi hạt gỗ dâu đã lên nước nâu bóng với một hình mặt hổ phù nổi bằng đồng đỏ, xung quanh có chữ theo lối đại triện. Một tay cầm gậy tích trượng, tay kia cầm cành phan nhỏ có ba dải bằng lụa xanh đỏ
------------------------------------------------------------
1. Ngụ ý trừ tà ma
viền vàng. Hai bên điện và cả phía sau, các bà Then được mời đến, các già bản và người nhà ngồi kín. Người được cấp sắc phủ phục bên trái ban thờ, hai tay nâng bát nước ngũ vị ngang đầu. Thầy bước chân trần đến bàn thờ, cắm cành phan vào sau cổ áo rồi nhận ba cây hương đã châm sẵn từ tay tôi. Thầy Tào trịnh trọng dùng tay trái để cắm nhang vào lư hương, miệng lẩm nhẩm mấy câu chú tiếng Hán:
Đạo do tâm học
Tâm dạ hương truyền
Tâm tồn để tiến
Chân linh hạ phán
Tiên phối lâm thiên
Kim thần quan cáo
Kinh đạt cửu thiên
Tiếng trống nổi lên cùng tiếng thanh la nạo bạt báo hiệu buổi lễ bắt đầu. Ông Khẩu Nam cao tuổi hơn thầy Tào, ít nói, nhưng khi đánh trống thì hai tay múa lên thoăn thoắt. Người ông như nhập đồng, mặt đỏ lên, người lắc lư. Những tiếng tùng, tinh, tỏng, cắc, rụp... khi khoan khi nhặt của ông phối hợp với tiếng thanh la của tôi làm không khí buổi lễ nóng bừng lên. Mọi người trong nhà ngoài sân đều ngưng bặt tiếng trò chuyện, hướng mắt vào chính điện. Thầy Tào quỳ gối phải trước rồi mới tới gối trái, bàn tay phải nắm lại, bàn tay trái bao nắm tay phải, đưa hai tay lên giữa hai lông mày rồi quỳ lạy sát xuống đất. Sau ba lạy chín khấu, thầy Tào co gối trái lên trước kế đến gối phải rồi toàn thân đứng lên, mặt trang nghiêm. Thầy nhẹ nhàng cầm cành hoa để sẵn nhúng vào nước ngũ vị khẽ vẩy lên bàn thờ và xung quanh nhà. Trên bàn thờ, ba cây hương lớn tỏa mùi thơm ngát. Một lúc sau, tiếng kèn mạy loi của tôi vang lên hòa nhịp cùng tiếng trống mạy tảng của ông Khẩu Nang. Thầy Tào đứng chính giữa nhà, một tay kết ấn, một tay cầm trượng, mắt nhìn thẳng, hai bàn chân khi tiến khi lui vạch những đường ngang dọc trên mặt sàn, mồm lẩm nhẩm những câu then kì bí, cầu xin thần linh và các vị tổ nghề Then về chứng giám cho lễ cấp sắc. Ba lá phan phất phơ trong khói hương mờ ảo. Tất cả chăm chú say sưa theo dõi từng động tác của thầy. Mùi khói hương, tiếng trống tiếng kèn quyện vào nhau khiến mọi người thêm ngây ngất, thỉnh thoảng có tiếng xuýt xoa vang lên. Hết phần lễ trình, thầy Tào gác trượng bên bàn thờ, chỉnh lại cành phan vào cổ áo sau rồi trịnh trọng hai tay nâng mâm áo và đồ lễ, trên có cây đàn tính sơn đỏ bước ra ngoài sân đặt trên chiếc bàn nhỏ, thấp hơn chiếc chiếu mới trải. Tôi và ông Khẩu Nam chuyển trống chiêng và cái hộp đựng kiếm ra. Mọi người lục tục ra theo.
Ngoài sân, người già các bản, các làng đến dự đứng bên trái, người cao tuổi trong họ đứng bên phải. Phía sau thầy Tào là bà Nông Thị Dinh, rồi đến các bà Then xếp thành hàng ngang trên tay đều cầm đàn tính. Bà Dinh năm nay chừng ngót năm mươi tuổi, dáng người khỏe mạnh, mặt tròn phúc hậu. Bà mặc chiếc áo chàm mới, gấu áo thêu hoa, đầu vấn khăn đen, thắt lưng màu điều có chiếc xà tích nhỏ, cổ và tay đều đeo vòng bạc trắng. Thầy Tào đốt năm cây hương lớn, ba cây cắm vào khoanh thân chuối đặt giữa mâm hoa quả, một cây hương cài cạnh mâm áo và đồ nghi lễ, một cây hương giao cho bà Dinh cầm chắp trong hai bàn tay để ngang mày. Ông Khẩu Nang kính cẩn đặt hai cây kiếm cổ hai bên bàn. Sau phần lễ trình là lễ cấp sắc. Một hồi trống, chiêng nổi lên, thầy Tào rót rượu từ cái hũ sành ra bát, tay bắt quyết làm phép búng ba lần trên miệng bát rồi hai tay nâng bát rượu kính trình trời đất, miệng lầm rầm đọc lời thỉnh. Sau đó đặt bát rượu xuống, rút hai thanh kiếm cổ ra. Lưỡi kiếm bằng đồng đỏ dài chừng ba gang, bản rộng, đốc hình bát úp có mấy chữ tượng hình liền với chuôi, có thêm cái vòng bảo vệ các ngón tay, khoen tròn cuối đốc kiếm có dây ngù tua ngũ sắc buộc tiền đồng. Tiếng đàn tính của mấy bà Then đồng loạt cất lên. Thầy Tào hai tay cầm múa lên chầm chậm theo nhịp nhạc, khi phải, khi trái, lúc xoay tròn uốn lượn trên chiếu. Mặt thầy đỏ hồng. Thầy hát một điệu then cổ, giọng trầm trầm nhưng nghe vui tươi rộn ràng, các bà Then cũng hòa theo. Tôi cầm chuỗi xênh tiền lắc lắc làm nhịp. Xung quanh, có mấy người già cùng hát theo. Rồi thầy vừa múa kiếm vừa đi ba vòng trong quanh sân, ông Khẩu Nang theo sau hai tay cầm hai cái chuông nhỏ vừa rung vừa xoay vòng, chân nhún nhảy, mái tóc bông xõa bay phơ phất trông cổ quái. Các bà Then đánh đàn tính đi trước, rồi đến bà Dinh và người già trong họ tộc. Sắc mặt ai nấy đều hưng phấn, nhiều người cầm theo xênh tiền cũng lắc nghe rộn ràng vui tai theo nhịp bước chân .
Bài then kết thúc, thầy Tào buông kiếm, lấy tờ sớ, nhận cây hương từ tay bà Dinh đưa đầu que hương huơ huơ mấy nét chữ làm phép rồi mở đọc. Bà Dinh quỳ trước bàn lễ nghe sớ, đầu cúi thấp và hai bàn tay chạm đất, lòng bàn tay ngửa lên. Lời sớ dài kính cáo thiên nhân quỷ thần về việc chứng nhận cấp sắc cho bà Then Nông Thị Dinh. Rồi thầy Tào một tay cầm thanh kiếm trên bàn, một tay cầm chiếc mũ năm dải, tay thầy chỉ kiếm lên trời, chỉ kiếm xuống đất, rồi đập khẽ mũi kiếm lên dải dây mũ chín lần cầu xin thần linh và các vị tổ nghề Then ban phước lành và linh lực cho người được đội mũ để làm phúc cho dương gian, bản làng. Bà Dinh ngồi thẳng người trên hai gót chân quỳ, thầy Tào đội mũ cho bà, chỉnh lại năm dải ngay ngắn. Rồi thầy Tào đọc bài khấn và cấp các đồ nghề gồm áo, đai, hài, giầy dành riêng cho Then, cây đàn tính ba dây, chùm xóc nhạc năm dây. Mấy bà Then bước lên giúp bà Dinh vận áo đi hài, buộc dải khăn, trông bà uy thế khác hẳn. Kể từ đây bà Then Nông Thị Dinh sẽ dùng những trang phục lễ cụ đó để đi cầu an, cầu phúc cho người dân, cho bản làng. Bà Then hai tay nâng cây đàn tính màu đỏ lên ngang đầu bái tạ. Tiếp theo thầy còn cấp cho bà Then ấn Tam Bảo dùng cho nghi lễ cầu an, ấn Ngọc Hoàng để cúng giải hạn trừ tà và ấn Ngũ Lôi để làm lễ cầu màu cùng nhiều vật thiêng khác như quẻ xin âm dương, thanh kiếm trừ tà bằng các đồng tiền nhỏ gắn kết lại, quạt và cờ hiệu để sai lính hay nhập đồng, chuông tay và cành phan có ba lá màu hồng...Mỗi vật trao đều được thầy lầm rầm đọc chú ngữ tịnh giới độ cho. Xong việc cấp sắc, thầy Tào đọc và giao tờ sắc đã viết sẵn cho bà Then và niệm chú. Bà Dinh hai tay nâng tờ sắc, cúi lạy tạ thầy Tào rồi quay sang cúi lạy bốn phương. Thầy Tào hai tay đặt thanh kiếm trên vai phải của bà Then đọc những giới quy mà tổ nghề truyền lại:
“Một là không bất trung bất hiếu, bất nhân bất tín, làm hết sức mình trọn đạo trọng nghề, tôn trọng gìn giữ thanh tịnh đồ nghi lễ.
Hai là không âm mưu hại người, chiếm vật làm lợi cho bản thân, mà trái lại phải thi hành âm đức sâu dày, cứu giúp chúng sinh rộng rãi .
Ba là không được dâm tà bại hoại luân lý, tổn hao linh khí, gìn giữ nết na đoan chính, đức hạnh trọn vẹn.
Bốn là không dùng cách làm tổn hại người để lợi cho mình, không chia rẽ cốt nhục, luôn lấy tình cảm hòa ái thương yêu người, vật, xử sự tốt đẹp trong thân tộc gần xa.
Năm là không ém tài người giỏi, nói xấu và hạ nhục người khác để tự nâng cao mình lên, mến trọng người có căn duyên với nghề, giúp sức và tạo điều kiện tốt để họ phát huy.
Sáu là không được rượu thịt say sưa, phung phí tiền của, mà phải sống cuộc sống thanh đạm, có chừng mực, giao du với người lành bạn tốt.
Bảy là không tham lam bỏn xẻn, vơ vét tiền của làm tài sản riêng tư, bo bo giữ của không bố thí, mà phải siêng năng cần mẫn, tiết kiệm để có điều kiện trợ giúp người khác.
Tám là không giao thiệp với kẻ ác, làm những việc trái đạo để kiếm tiền bất hợp pháp.
Chín là gìn giữ tư cách đứng đắn, ăn uống, nói năng chừng mực, không hành động, cử chỉ thô tháo, kém tư cách, phi đạo đức”.
Tiếng thầy Tào sang sảng uy nghiêm, rành rõ từng tiếng một làm cho mọi người càng thêm thấm thía ý nghĩa cao quý của nghề Then và không khí trang trọng của buổi lễ cấp sắc. Tôi nhìn ông nội đầy tự hào. Việc cấp sắc cho Then hoàn thành. Đến lúc bà Then thực hiện nghi thức đầu tiên trong vai trò là Then, đó là nghi lễ truyền thống đón Đức tướng xuống nhập vào người. Then Dinh cùng các bà Then vui mừng vừa đàn vừa múa chầu tiến vào trong nhà chính, tiến đến chính điện.
Thầy Tào hướng dẫn thay đồ lễ mới gồm một mâm xôi ngũ sắc, hai chân giò sau lợn gác chéo nhau, hai hũ rượu ngọt bịt vải đỏ, hai cây mía to nguyên lá, rất nhiều hoa quả mới và tiền giấy, vài đồng bạc trắng và bát đũa tăm nước đủ bộ. Thầy giúp bà Then dán đạo bùa an vị sắc phong lên chính điện, thắp ba cây hương rồi lui về bên cạnh cầm kèn chuẩn bị khởi đầu lễ đón Đức tướng nhập Then. Bà Then Dinh đứng trước ban thờ, bàn tay phải hai ngón trỏ và giữa duỗi thẳng, ba ngón con lại quặp giơ lên trên đầu, tay trái cầm chiếc quạt đỏ che ngang trán, miệng lầm rầm khấn. Tiếng trống của ông Khẩu Nam vang lên ba hồi chín tiếng hòa cùng tiếng chiêng và chuông lắc của tôi, hòa trong tiếng kèn của thầy Tào, hết một hồi trống, thầy dừng kèn, hét lên mấy câu chú ngữ chói tai, kết thúc bằng tiếng a...a…kéo dài. Tiếng trống cái chắc nịch ầm vang, tiếng trống nhỏ mạy tảng khi dồn dập khi khoan khi nhặt cùng tiếng kèn vút lên réo rắt. Trong tay ông nội tôi cây kèn như múa lên, tiếng kèn nghe mê hoặc xuất thần. Ánh mắt mọi người đổ dồn về chính điện. Khói hương mù mịt. Bà Then Dinh đang đứng im bỗng giật nảy lên rồi lắc lư dữ dội. Ba lá cờ nhỏ cắm trên mũ rung bần bật. Mọi người xung quanh lào xào “Đức tướng... Đức tướng... nhập rồi”..., bà Then phất tay quạt hết tiến lại lui, dáng vẻ uy nghi lẫm liệt. Ánh mắt bà sáng lên long lanh, mỗi động tác toát lên vẻ oai nghiêm khí lực tràn trề. Chiếc quạt khi vung ra khi cụp lại như kiếm chém đao bay. Hồi trống vừa dứt thì tiếng hát và tiếng đàn tính trên tay các bà Then còn lại nối tiếp vang lên. Tiếng sênh tiền gõ nhịp dồn dập cùng lời hát. Điệu then khi trầm khi bổng, đôi lúc sôi động gấp gáp kết hợp với động tác của Đức tướng nhập vào bà Then Dinh, cùng tiếng hò reo của thầy Tào và ông Khẩu Nang tạo khí thế vừa dữ dội vừa thiêng liêng khiến người xem hồi hộp, nín thở. Năm dải mũ trên đầu Then Dinh tung bay. Trên ban thờ, ngọn đèn nhỏ lung linh mờ tỏ. Ba cây hương đột nhiên bùng lên cháy, ngọn lửa thấp thoáng hư vô. Lời hát then liên tục chuyển điệu, hết điệu Khẩu tu(1), rồi đến Pây mạ(2)... Khi lên Đức tướng lên ngựa, tiếng Then Dinh hát rằng: “Phạt cờ khửn bưởng lăng tứn mạ. Phạt cờ khửn bưởng nả tứn loan”(3). Đồng thời tay Then mô phỏng theo câu hát. Cả căn nhà sàn như đang rung rinh theo tiếng nhạc. Tôi ngây người nhìn, thỉnh thoảng quên cả gõ sênh tiền.
Đến phần dâng rượu, lần lượt người nhà từ già đến trẻ tiến lên, hai tay bê bát rượu lớn cung kính mời, Đức tướng ngồi uy nghi trên ghế chỉ uống nhấp môi rồi đặt lại chiếc mâm lớn bên cạnh. Rồi Đức tướng chia lộc cho mọi người trước khi thăng. Tôi thấy mọi người dồn cả lên trước. Ai cũng muốn nhận được lộc vì điều đó sẽ đem lại may mắn cho cả gia đình. Tôi bị mọi người chen lấn dạt ra sát bậc thang. Đột nhiên, tôi thấy mọi người đang đứng chật ngoài sân bỗng dạt cả ra, tiếng ồn ào quát tháo. Có tiếng súng nổ. Một đám lính dõng lăm lăm súng tiến lên cầu thang, đi đầu là một viên đội người Pháp có cái mũi khoằm, mặt đỏ như con gà chọi, hùng hùng hổ hổ. Thấy tôi mặc áo lễ, viên đội túm lấy cổ áo tôi. Tôi vặn người giãy giụa. Có tiếng con Vện hộc lên.
-----------------------------------------------------------------
1. Vào cửa trời
2. Đi ngựa...
3. Phất cờ về phía sau lên ngựa/ Phất cờ về phía trước xuất quân
Nó lao tới phía cậu chủ. Tên đội người Pháp giơ súng ngắn nhằm thẳng con vật bóp cò. Một tiếng nổ đanh gọn, con chó ngã vật ra. Tôi hét lên, một bàn tay nữa đè tôi ngã xuống. Tôi thấy ai đó cố nhét cái gì vào mồm, tôi lắc mạnh đầu cố gắng vùng thoát...
Có thể là hình ảnh về sách

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

BÀI MỚI ĐẮNG

Truyện ngắn: BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN _ NGUYỄN HẢI ĐĂNG

Bên cánh gà chánh điện phần 1 BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN Xe dừng lại với tiếng xột xoạt trên mặt đường, như bao chuyến xe đã ghé qua từ thuở ...