Nguyễn Hoàng Kim Oanh
***
BÀN VỀ
Tiểu thuyết
GÃ ĐIÊN VÀ NGÕ THIÊN ĐƯỜNG - Phạm Thanh Khương
SỰ THẬT HIỆN SINH - CÚ ĐẤM THÉP CẢNH BÁO
+**+
“Gã Điên & Ngõ Thiên Đường”
như cái nguyên cớ để tôi bén duyên chữ nghĩa với Phạm Thanh Khương (Lù Pò Khương), bằng chút bùa ngải, thuốc mê, bằng chất giọng mồi chài, mối lái, vừa ngoa ngoắt, ngang tàng vừa tưng tửng bông phèng của phong vị con chữ đắng cay, chua chát, phá phách mà đong đầy nghĩa hiệp.
Một cái tên Khờ ÷ ương = Khương, '”khờ" lại kết duyên tiền kiếp với "ương"(theo chủ danh xưng giảng giải), thì khiếp thật! Cha mẹ anh sao khéo đặt tên, vận vào tính cách anh ta thế không biết? Tôi thấy nê nể, khoai khoái...rồi, mò mẫm đi tìm...
Chàng là sĩ quan cao cấp QĐNDVN, người lính chiến, lính bộ tổng biên phòng. Gương mặt của "chiến tranh và hòa bình" (tôi chợt nghĩ), của tiền tuyến & hậu phương (chàng tự nói). Gương mặt vừa máu lửa, vừa hiền hoà, đáng yêu thế đấy.
Phạm Thanh Khương, một nhà văn mới dựng nghiệp trên dưới 10 năm, nhưng anh đã tự thu xếp cho mình một chỗ đứng có giá trên chốn văn trường cùng trong lòng độc giả. Chỉ vỏn vẹn thời gian ngắn ngủi đó, nhà văn cũng đã kịp ẵm về nhiều giải thưởng giá trị “cây bút vàng”, bút bạc, sau kết quả các cuộc thi viết đình đám, đẳng cấp. Chúc mừng anh.
Văn anh trẻ, nhiệt huyết, gã “thợ cày” cày cật lực, cày sáng tạo. Rõng cày thẳng băng, lật từng mảng đất quê hương.
Vì vậy, đất chả phụ lòng người, gã “thợ cày” cật lực ấy, đã gặt hái được thành quả xứng đáng, cho ra đời cơ số đầu sách : tản văn, tùy bút, truyện ngắn, thơ, tiểu thuyết...
Bốn cuốn tiểu thuyết xuất bản "Kỳ Hoa Di Thảo"; " Mật Danh AZET"; " Giáp Mặt"; " Gã Điên và Ngõ Thiên Đương", thiết nghĩ, đó là một kỳ tích, là mơ ước của bao người cầm bút.
Anh lại vừa khoe với tôi, sắp sinh nở đứa con Tiểu thuyết thứ 5 "khuôn mặt chiến tranh" còn dữ dội, bùng nổ hơn gã điên nhiều. Ôi! Những quả bom tấn văn chương thì hiện đại!
Anh đa tài. Anh sù sì, gai góc. Anh chằng ai lai quấn, chứ chẳng hào hoa phong nhã như khách làng văn ta thường ngưỡng vọng.
Tôi mến mộ anh vì những gì tôi hiểu về anh. Tuy chưa nhiều nhặn gì, nhưng cũng đủ để tôi phóng tác phác hoạ bức chân dung ngây ngây, ương ương, gồ ghề, gốc gác, kiêu bạc, nhưng cương nghị phong sương rất đời, rất lính Phạm Thanh Khương đáng vị nể.
Tôi hiểu anh, một nhân cách tử tế, một văn chương tử tế, ẩn giấu trong lòng con chữ nổi loạn nỗi đau thương rỉ máu.
Với tất cả cảm nhận tốt về anh, tôi càng trân trọng, cẩn trọng đọc, suy ngẫm kỹ càng tác phẩm " Gã Điên & Ngõ Thiên Đường"(cuốn tiểu thuyết thứ 4 anh xuất bản)
Theo tôi, đây là một tác phẩm viết theo khuynh hướng phản ánh sự thật hiện sinh - một mảnh đất màu mỡ mà văn học VN đương đại hình như còn bỏ nhiều hoang hoá. Thật tiếc!
“ Đền thiêng từ người
Không thiêng bởi đền”
Câu đề từ cho cuốn sách dường như đã thâu tóm chủ đề tác phẩm. "Đền có thiêng đến đâu không được dân tôn thờ cũng chỉ là ngôi đền hoang. Tư tưởng có vĩ đại đến đâu mà không đáp ứng kỳ vọng của dân thì tư tưởng ấy cũng chỉ là thứ hão huyền hoang tưởng".
SỰ THẬT HIỆN SINH - CÚ ĐẪM THÉP CẢNH BÁO
SỰ THẬT và NHÂN TÍNH
Đó là tôn chỉ, mục đích, lý tưởng, thế nhân tâm của người cầm bút chân chính, văn học chân chính.
Thiển nghĩ, Phạm Thanh Khương đang đi đúng hướng, hướng về phia sự thật, về phía nhân sinh, chống lại cái ác, tìm đến tận sào huyệt căn nguyên cái ác mà gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh hồi sinh.
“Gã Điên và Ngõ Thiên Đường”như một quả bom nổ chậm, sẽ nổ tung bất cứ lúc nào. Nó báo hiệu sự sụp đổ cả một hệ tư tưởng man trá của thế giới Thiên Đường hoang tưởng, tội lỗi, bí bách, trong cuộc giằng xé về hai phía Thiên Đường và Địa Ngục.
Đúng, lên thiên đường.
Sai, xuống địa ngục.
Quyết sách sống hay chết tối thượng trọng đại ấy, đôi khi lại chỉ xuất phát từ vài ký tự chữ ký:
"Khi hạ chữ ký lên bất kỳ văn bản nào, nó là sự xác nhận giữa hai con đường. Nếu đúng, đó là con đường đi tới Thiên Đường, còn sai, đó là con đường dẫn đến Địa Ngục"
( Tr. 216).
Gã Điên, hiện hinh của phù phép biến hoá kỳ bí, ma thuật, trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội.
“Chính trị là một cô gái điếm được phủ bên ngoài lớp son phấn mỹ miều quyến rũ. Kinh tế lại là cô gái điếm đã lột bỏ bộ xiêm y để trần nằm dài trên giường chờ đợi” (tr. 129).
Khi cất lên tiếng nói sự thật, tôi đoan rằng Phạm Thanh Khương đã xé toang lồng ngực, moi trái tim mình, làm cây đuốc sống, soi đường đi tiêu diệt cái ác. Tôi cũng đoan rằng: Anh luôn tâm niệm, Con người sinh ra có thể bị đánh chết, nhưng không thể thất bại, không thể gục ngã.
Trung thực, thẳng thắn, nỗi đau đã làm nên thương hiệu PTK, con
người và văn hoc trong làng văn đương đại. Cũng có lẽ, vì vậy, mà vừa mới chân ướt chân ráo, 10 năm nhập cư, anh đã được mời lên chiếu trên chăng?(chả là tôi nghĩ thế).
Anh chọn cho mình lối đi riêng cả tư tưởng chủ đạo lẫn cốt cách văn chương. Anh đã vung cú đấm thép, có khi chỉ là vào khoảng không cảnh báo.
Anh thuộc về mô típ Tạ Duy Anh chăng? Với những “Bước Qua Lời Nguyền”; “Thiên Thần sám hối”; “ Đi Tìm Nhân Vật”; “Mối Chúa” Tạ Duy Anh đã mang vào bầu trời VHVN những trái đại bác. Nay đến “ Đất Mồ Côi”quả bom nguyên tử phát nổ đãlàm khuynh đảo nền VHVNĐĐ. Đồng thời, kéo theo cả thế giới tác giả & độc giả tá hoả tâm tinh, giật thót mình, bàng hoàng thảng thốt!
“ Đất Mồ Côi là hòn đá tảng ném xuống cái ao tù văn học VN tù túng, tẻ nhạt làm cho bèo tấm, cỏ rả, bùn đất, rều rác tung lên”
“Đất Mồ Côi làm sang cho người viết văn cảm thấy bớt hổ thẹn”
(Sương Nguyệt Minh - Về Đất Mồ Côi - Tạ Duy Anh).
Văn chương của sự thật, của hiện sinh - Viết về cái ác?
Đúng. Không cần bàn cãi, họ cùng chí hướng, cùng ánh nhìn. Có khác chăng là ở điểm xuất phát, bề dày tên tuổi, tầm ảnh hưởng thứ bậc, giá trị văn chương, thế đứng, dáng đứng làm nên tầm vóc, góc nhìn, qua lăng kính cá thể khác biệt mà thôi.
Bởi vậy, mọi so sánh giữa nhà văn này với nhà văn khác đều trở nên khập khiễng. Lù Pò Khương nguyên bản Lù Phò Khương cả ngẫn, lơ láo, hóm hỉnh, sắc sảo - Ngôi sao cô đơn trong đêm trường thăm thẳm...
Với gần 300 trang sách, PTK đã lột trần trụi chủ nghĩa hoang đường, để lồ lộ ra sự thật Thiên Đường là ngõ 30, nguyên bản thổ Lò Gái khai mở sinh sôi.
Sộc thẳng cuối ngõ có một ngôi đền PHÚC ĐẲNG THẦN KIM THIÊN ĐƯỜNG, thờ thành hoàng làng, ông tổ nghề lò đúc. Ngôi đền có tự xưa xa, uy nghi nằm trên khoảng đất khoáng đãng, bãi nổi (bãi Trốc) của dòng sông Cái, hai nghìn năm tuổi. Nó ưỡn phình ra như người đàn bà chửa đến tháng đẻ.
Người đàn bà vi diệu ấy, thuở khai sinh lập địa đã sinh hạ ra bao thế hệ con cháu ngoan hiền, theo nghề lập nghiệp. Nghề đúc. Nghề lò đúc, làm nên sự thuần khiết dáng quê, hiền lành, chân chỉ hạt bột, làm nên lịch sử quang vinh làng xã dân tộc Việt, vang bóng một thời...
Đặc biệt, nó gây dựng, bồi bổ niềm tin trở thành đức tin Thiên Đường thần thánh.
Nhưng người đàn bà kỳ vĩ ấy, sao hôm nay, lại đẻ ra một đám con loi nhoi, lơ láo, bát nháo vậy hả trời?! Cơ sự nào làm nên nông nỗi?
Ối chao ôi! Hậu sinh khả uý! phúc đẳng hà sa! Kỳ vĩ!
Mảnh đất Thiên Đường mang bọc hoang thai, nở ra loi nhoi những hình hài quái dị trong tiểu thuyết Gã Điên. Những người là người, những ma là ma, những nửa ma nửa người, không danh, không phận, lạc loài, lạc loài chính tại cái Lò Cái của cha ông minh ngàn đời khai hoang lập ấp.
Để hôm nay, ngả ngớn, ngổn ngang, ngửa sấp, sấp ngửa, sõng soài sống, sõng soài chết trên trang sách đầy bi hài của nhà văn PTK. Ấy là tuyến nhân vật không có cả cái tên (một thủ pháp ẩn dụ, lối chơi các cớ tài hoa Phù Lò Khương, nét riêng anh):
Bà lão thành, ông mất cà, ông nhà văn, bà bô lô ba la, lão thợ đóng gạch, bà bếu, bà hừ hứ, cô sập gụ đời minh, lũ choai choai thích xe phân khối lớn, ông ưỡn bụng,gã điên và gã “xủng xoảng”(bán thuốc bắc, cha ruột gã điên), gã “xủng xoảng”Voòng A Minh anh cùng cha khác mẹ của gã điên). Nghe nói gã điên còn có cái tên huý phương bắc Voòng A Trịnh nữa.
Một tâp hợp số trong tiểu thuyết GÃ ĐIÊN và NGÕ THIÊN ĐƯỜNG của Phạm Thanh Khương.
Trong cái hũ nút ngõ cụt ấy, tất cả đều tối như đêm 30, như cái tiền đồ của cư dân thiên đường hoa lệ, hoang đường đó.
Để hôm nay, loi thoi những phận người chẳng phải là người? Ma không phải là ma? dở dở ương ương, khùng khùng điên điên, vô hồn, vô cảm.Tất cả đều điên, mà lại chả điên, điên trong vũ hội hoá trang(!)
Tất cả đều đeo tấm mặt nạ mỹ miều(!)
"Một xã hội cả ông, cả tôi, cả ngõ này, xóm này, làng này, rồi đất này cùng đang điên đấy. Ông có thấy thế không? Mà có khi điên thật chứ chả cả ngẫn như nó đâu.Ông với tôi chỉ khác nó là biết giấu cái điên đi...Đúng là cả lũ điên thật" (tr. 279).
Lớp mặt nạ lớn bao trùm, mang tính phổ quát lên cả bề mặt xã hội ngách ngõ âm u.
Tên mặt nạ phổ quát bao trùm ấy là Thiên Đường:
“Người như thánh hiền, cảnh vật như thần tiên, của cải dạt dào như nước suối"
PTK đã lột tuột tấm mặt nạ xã hội giả dối xuống, phô bày những khuôn mặt người bèo nhèo, héo úa, dúm dó, hoang mang, ngác ngơ, đau khổ đến tột cùng sự sống, tột cùng cái chết; phô bày những ánh mắt quỷ chập chờn cơn ác thú, xảo trá, lọc lừa, gian manh, quỷ quyệt, hút máu dân lành; Phô bày những mảnh ghép, những vụn đời nhạt thếch, vô nghĩa, vô hồn, vô cảm,vô thừa nhận.
Thì đấy, lột lớp mặt nạ trát phấn bôi son ra, trơ khấc một bản mặt khảo dị xẻ đôi phần sáng tối; Một thế nhân, dị nhân nham nhở, dở dang.Cái gì cũng dang dở be bét, nhão nhoét. Nhão nhoét cả cương cả lĩnh, cả chân cả lý, cả pháp cả quyền, cả cơ cả chế, cả chế cả tài... để cả bàn dân thiên hạ chơi vơi bơi, chơi vơi nghiêng ngả, chơi vơi hốt hoảng, sống hốt hoảng, chết hốt hoảng...trong cơn tức tưởi đớn đau, khi niềm tin bị phản bội, đức tin bị đánh cắp.
Ai phản bội niềm tin? Kẻ cắp nào làm khánh kiệt đức tin?
Một khi:
“Thời này còn tin á? Chả tin bố con thằng nào nhá”
“Dễ mất nhất thời này là niềm tin. Dễ đánh cắp nhất cũng là niềm tin”
“ Muốn đi đến cái chết nhanh nhất là hãy trao cho nhau niềm tin”
( T. 209).
Thì đấy, bà lão thành đã một đời tin, yêu. Niềm tin son sắt, trở thành đức tin thần thánh từ năm mười sáu tuổi trăng tròn. Bà hiến dâng trinh nguyên cho lý tưởng, hiến dâng cả cuộc đời cho lý tưởng. Bà xung phong vào đoàn dân công hoả tuyến tải lương lên chiến trường Điên Biên Phủ, rồi ở lại chiến trường làm công tác cứu chữa thương binh. Bà vinh dự góp phần làm nên chiến thăng Điện Biên lẫy lừng năm châu bốn biển.
Rồi nối tiếp cuộc kháng chiến chống Mỹ, bà “tình nguyện vào chiến trường. Nơi đâu cần bà có mặt, nơi nào khó khăn bà xung phong...Cuộc đời của bà thực sự là vàng thử lửa, là sự dâng hiến. Trong trái tim bà là cả sự hy sinh vì phía trước, cho tương lai”
( T. 91).
Tương lai của lý tưởng thiên đường!
Một đời hy sinh, không chồng, không con, không hoàng thân quốc thích, không họ hàng dòng tộc, không tài sản, không tấc đất cắm dùi, tứ cố vô thân.
Bà sống trong tình làng nghĩa xóm, nghĩa đồng bào.
Một đời vô sản đúng nghĩa, cộng sản đúng nghĩa.
Vậy mà, cuối đời, bà đau khổ, ngơ ngác, sợ hãi :
“Tâm trạng chơi vơi như người đi thuyền ngoài biển, gặp ngày sương mù không xác định được phương hướng để đưa con thuyền thuận gió mà về bến”.
(Tr. 90).
Nhin cảnh tượng, con người, sự vật, sự việc đang diễn ra quay cuồng trước mắt mình, bà xót xa, hoang mang, thất vọng, bất lực.
Nhìn đàn sói cha, sói mẹ, sói con, lớp người hậu thế mà bao thế hệ ông cha, trong đó có bà đã hy sinh vì tương lai tươi đẹp cho nó, bà đau như cắt từng khúc ruột, sinh tâm bệnh. Để rồi đến khi, bầy lang sói ấy chúng dám cả gan “đốt đền " (kịch tính, đỉnh của đỉnh), ngôi đền linh thiêng Phúc Đẳng Thần Kim Thiên Đường. Chúng đốt đền, đốt luôn cả linh hồn thiêng liêng của bà, bà uất quá, hộc máu mà chết!
Chết tức tưởi đầy bi ai, oan khuất!
Cái chết bà lão thành, biểu tượng của sự thất bại, bế tắc và kết thúc.
Tấn bi kịch thời đại mãn vương triều!
Giọt nắng sót cuối ngày đã tắt trong buổi xế tà, hoàng hôn hoang hoải và phí phạn!
“Gã Điên & Ngõ Thiên Đường” có ba đốm le lói sáng bà lão thành, ông nhà văn, ông mất cà. Ba hạt giống đỏ lạc mùa ươm.
Bà lão thành đã khuất, âu đành phận bạc. Hai người còn sống, sống vật vờ, nhàn nhạt của kiếp đời hạt giống lạc mùa ươm. Sống để sống sót, sống để sống nốt đấy thôi.
Nói thế chẳng là nói quá lời hay sao? Chẳng bĩ bỗ mặt hai ông một thời vào sinh ra tử hay sao?
Vâng, ông nhà văn, người lính chiến biên cương, từng xông pha trận mạc đánh quân phương Bắc, dâng hiến tuổi xuân nơi biên trận. Ông mất cà thì lại xông pha chốn lửa đạn phương Nam, bỏ lại đất phương Nam “chùm giống quý”.
Cả hai người lính trở về trong vinh quang chiến thắng và mang đầy thương tích chiến tranh.
Cả hai hiện an sinh ở ngõ Thiên Đường trong hai tâm thế, bộ dạng khác nhau, một có chữ nghĩa, hiểu biết, một thô mộc chất thợ cày. Họ trân trọng, yêu thương và tin tưởng lẫn nhau. Họ tin yêu nhau bởi, tình đồng đội, nghĩa đồng bào. Bởi cả hai còn giữ được lòng nhân, nghĩa đức, tỉnh táo mà sống giữa thời buổi non tưởng mình đã chín, gà ngỡ mình là công, tự đắc, ngộ nhận, dối trá, vô nhân, vô cảm để cái ác lên ngôi.
Thời khắc chập choạng nhá nhem sáng tối...
Chỉ tiếc rằng, hình ảnh cả hai ông đều mờ nhạt, bàng bạc. Mỗi người bàng bạc một kiểu.
Kiểu nhà văn, kẻ sĩ thời nay
" kẻ sĩ thời nào cũng là kẻ sĩ. Họ không chỉ biết sống cho họ mà luôn mong muốn sống cho mọi cuộc đời...Họ như bậc đại trượng phu phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất"
(Tr. 238)
Vậy mà, "gặp thời thế thế thời phải thế" hỏi, khí tiết học giả ông, biến đâu mất hết rồi? "Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách" hỏi, hồn sỹ phu ông, lạc trôi biến mất đâu rồi?
Ông biết tuốt tuồn tuột mọi sự thể, mọi nguy cơ cái ác đang len lỏi vào đời sống con người, mọi thế lực đang hoành hành tàn phá an sinh xã hội vì lòng tham vô đáy, tham quyền lực, tiền tài, danh vọng. Một số cơ chế đang vô tinh thao túng bắc thang cho tham nhũng leo cao, luồn sâu. Lách kẽ hở pháp lý, chế tài, sâu mọt tung hoành đục khoét...
Ông biết hết, nhưng ông im. Ông sợ. Ông hèn. Ông rụt cổ rùa. Ông mũ ni che tai, ngoảnh mặt ngó lơ. ông vô tình, vô cảm, mặc kệ nó, để kẻ ác thỏa sức tung hoành ngang dọc.
Ông chui tọt vào cái vỏ ốc, giữ mình:
"Ông nhà văn sau khi vào viện thăm bà lão thành về cũng đóng cửa, cả ngày chả ra ngoài...Năm thì mười họa, ông ra lan can, thò đầu ra ngoài ngó nghiêng một chút cho thay đổi không khí"
(Tr. 168).
Đóng chặt cửa, ông viết, viết cái khỉ khô chi? Viết ba cái tin vặt theo đơn đặt hàng cho các báo. Bồi bút, gặm bút để nuôi mòn giá áo túi cơm. Giờ đây, ông chẳng còn phụng sự ai, phụng sự cái gì, ngoài phụng sự cái dạ dày của riêng ông. Ông chả buồn, chả vui, chả cảm, thản nhiên nhin đời bằng con mắt dửng dưng của người ngoài cuộc.Thật buồn! Thật chán mớ cái đời ông!
Đúng như đã có lần thuở thanh xuân, khi còn trong quân ngũ, ông bị thủ trưởng không duyệt một bản tin đơn vị đã viết đi viết lại, ông thốt lên xỉ vả nghề viết văn của mình
"thật nhục như con chó".
Đến đây, tôi chợt thầm mong, giá ông nhà văn thức tỉnh một chút như ngày xưa ấy, chí ít, ông còn biết thế nào là nhục.
Còn kiểu ông mất cà, cũng thì kiểu người lính trở về thời nay lại khác. Trái ngược với ông nhà văn. Ông trung thành và chân thật. Ông muốn bảo vệ mảnh đất này tới cùng, minh chứng xác thực nhất: Ông kiên quyết tẩy chay, đuổi thẳng cổ gã "xủng xoảng” biến khỏi mắt ông, cút khỏi mảnh đất ngõ Thiên Đường Thần Thánh của ông. Vì hơn ai hết, ông thấy rõ dã tâm, mưu đồ xâm lấn của bè lũ ngoại bang, theo cách thức “tằm gặm lá dâu”thâm độc.
Nhưng khốn nỗi, cái đầu ông ngắn quá. Ông không làm sao lý giải nổi những gì đang xẩy ra xung quanh ông. Bởi ngay cả cái mảnh đời ông, số phận nhỏ nhoi ông, ông cũng còn không tài nào tự chủ được, không tài nào hiểu được sao lại nhiều trái ngang, đầy bi kịch đến thế? Ông nhìn đời bằng cái đầu ngắn ngủn và đơn giản.
Giá như, gắn cái đầu ông nhà văn vào cổ ông mất cà thì, thế sự đã xoay chuyển theo một tình huống khác sáng sủa hơn chăng?
Suy cho cùng, cả ba nhân vật đều đại diện cho sự thất bại ê chề, thảm hại của cả một hệ tư tưởng "giải phóng xã hội, giải phóng con người"tốt đẹp.
Nhà nhà, người người trong cái ngõ Thiên Đường này cũng đều nuôi "ba con khỉ"(bịt mắt, bịt tai, bịt miệng. Họ làm ngơ mọi chuyện, mặc thế sự xoay vần.
Họ chui vào phận mình mà sống, tự ti, thỏa mãn, bằng lòng, thủ tiêu đấu tranh, thỏa hiệp và vô cảm để cái ác tác oai tác quái hoành hành.
"Khuôn mặt lão không bộc lộ một nét gì của tâm trạng vui, buồn. Một khuôn mặt điển hình của sự vô cảm"(Tr. 216)
PTK đã xây dựng thành công hình tượng điển hình dàn nhân vật. Mỗi người mang sự khác biệt cá thể, đại diện cho một giai tầng, lớp người, trong mối quan hệ giữa tính cách nhân vật với môi trường cuộc sống. Họ là ai? Họ không danh, không phận, vô nhân, vô ảnh, vô hồn, nhỏ nhoi, con ong cái kiến, những mảnh vụn nhạt thếch, bị bỏ rơi vào cái xó lãng quên của cuộc đời. Họ Là bà bô lô ba la, ông thợ đóng gạch, bà bếu, cô sập gụ đời minh, lũ choai choai thích xe phân khối lớn, gã điên...Mỗi người một hoàn cảnh, số phận, tính cách khác nhau. Nhưng trừ gã điên và lũ choai choai ra, tất cả cùng chung một nếp nghĩ:
"Năng lực à? Năng lực là ai đem cho tôi nhiều tiền, có được cái nhà khang trang. Đấy là năng lực. Phẩm chất đạo đức à? Ai cho tôi thu nhập cao, cho nồi cơm nhà tôi đầy, con cái đi học có cái áo đẹp, phương tiện đi lại. Đấy là đạo đức".
(Tr.136).
" Cứ có cái vỗ vào miệng, có cái thừa để dành thế là có niềm tin"
Họ chả quan tâm đến thế sự, nhân tình, người tốt, kẻ xấu. "làm gì thì làm, miễn là không đụng đến nồi cơm manh áo của mình là được".(tr.137).
Họ đại diện cho nếp nghĩ tư hữu, hẹp hòi, vị kỷ cố hữu của tầng lớp nông dân, thị dân nghèo,hèn an phận và ngu muội, đáng thương, nhưng cũng có phần đáng trách giữa lối sống thời nay.
Thì đấy, bọn ác lượn lờ, rình rập trước mắt mọi người hàng ngày.
Bà hừ hứ cấu kết với ông ưỡn bụng đang rắp tâm cướp mảnh đất đền Phúc Đẳng Thần Kim Thiên Đường. Ai ai cũng đều ơ thờ, coi như chả liên quan gì tới nồi cơm, manh áo của mình, để thả sức cho kẻ xấu tung hoành, gây tội ác càng ngày càng kinh hoàng hơn.
Làm thế vô tình dân mình có phải đang đồng loã với tội ác hay chăng?
Quá khứ, chẳng thể ăn mày quá khứ mãi được. Quá khứ đã chết. Hiện tại thì thế này, nhìn về tương lai lại càng mù mịt tăm tối hơn. Lớp người kế cận, lũ choai choai thích xe phân khối lớn “Chỉ là những kẻ biết hưởng thụ. Cuộc sống với chúng chỉ là môt dấu chấm trong chiều dài thời gian vô tận. Chúng chỉ là những kẻ đào tường, khoét ngạch để phục vụ cho nhu cầu sống thoải mái, bầy đàn và không cần biết đến ngày mai.”
(Tr.241).
Mới tí tuổi đầu, chúng đã chuyên đào tường khoét ngạch, thậm chí còn dám cả gan đốt đền để kiếm tiền ăn chơi du đãng, thì lớn lên chút nữa, ai dám cam đoan rằng, chúng không đâm thuê chém mướn, giết người cướp của, hoặc làm bao việc kinh thiên động địa khác trên cõi đời này?
Ai dám cam đoan rằng, nhà tù không mở cửa dẫn chúng vào, dẫn cả tương lai ngõ Thiên Đường vào địa ngục tăm tối chốn trần gian?
Ơ, quái lạ. Khác biệt. Khương khác biệt - thực hư hư thực bi hài đầy năng lượng. Anh như một đạo diễn điều khiển dàn nhân vật trên sân khấu tiểu thuyết, tấn bi hài kịch cuộc đời. Người nghệ sỹ sành điệu ấy, cho gã điên, gã hề điên biểu diễn trò ma thuật ấn tượng ngay từ đầu trang sách mở.
Gã điên là con trai người đàn bà bỏ quê theo ông bán thuốc bắc "xủng xoảng". Sau chín trăm ba mươi tám ngày trở về làng, chị ẵm theo một đứa con thơ (gã điên). Người đàn bà tội tình ấy, chẳng may trượt chân, ngã vào chiếc khuôn đúc gang chết thảm, trong dòng gang nóng đang chảy từ lò đúc xuống khuôn.
Không còn cách nào khác, làng đành chôn người chết nằm nguyên trong khuôn đúc gang, tại khuôn viên đền Phúc Đẳng Thần Kim Thiên Đường, cạnh ngôi mộ tổ. Sau nơi đó thành nơi tá túc, vạ vật của gã điên, ở cùng với rác rưởi, chuột bọ tanh hôi.
Gã điên tật nguyền, thiểu năng, sống vật vờ nhờ vào chút xót thương trong lòng người dân ngõ Thiên Đường vương vãi.
Vậy mà...sau vụ cháy đền, gã bị người ta giết hụt, bỏng nặng... thì... lạ thay, khi đó có bàn tay nào đã thò ra đánh cắp gã, mang đi biệt tích. Để rồi, mười lăm năm sau, bàn tay ma thuật ấy đã nhào nặn, phù phép, quỷ quyệt biến gã điên thành "Ông Phạm Trịnh chủ tịch hội đồng Quản trị kiêm Tổng giám đốc tập đoàn Group Phạm Trịnh, nhà đầu tư chính của dự án" (tr.20).
Gã điên trong truyện như một dấu hỏi lớn, một khơi mào ẩn ý, uẩn khúc. Gã điên, không điên, lại điên. Điên mà biết làm tình. Điên mà biết để lại mầm, lại mống đồng hoácho đời sau, gieo ẩn trong ổ bụng cô sập gụ đời minh?
Phúc họa? Khôn lường! Bất giác tôi rùng mình khiếp đảm!
Đến đây, ngẫm ra thì...cái tên Kh + ương ghê gớm, thâm nho thật, chứ đâu phải dễ chơi, đâu phải chuyện đùa.
Gã nhà văn đang đặt ra một dấu hỏi lớn (?)phúc họa tồn vong, chưa có lời hồi đáp.
Tất cả tập hợp số lớp lang dàn nhân vật trên đã cộng sự, tạo đường nét trên tấm toan, vẽ nên một bức tranh xám xịt ngõ thiên đường. Để, Phạm Thanh khương lại một phen "đùn đẩy hồn mình thành gò đống... Rồi mượn hồn hổ báo mà chết".
Anh viết như điên, như dại. Viết khao khát, khao khát viết như canh bạc khát nước, con bạc khát tiền. Ngòi bút thẳng băng, không tỳ vết, sục sạo vào sự thật mà viết.
Anh là nhà văn đi tìm sự thật, nơi cội nguồn cõi sống cùng cõi chết. Anh viết trong sự phân định rạch ròi và hoài nghi, hoang mang và tin tưởng. Tin tưởng ngay cả khi:
"chả tin bố con thằng nào...chả tin cả chính cái thằng mình".
(Tr. 209)
Thâm tâm anh vẫn tin ở ngày mai sẽ sáng. Bởi tin, nên mới giáng cú đấm thép cảnh báo trước hiện trạng con người, xã hội. Bởi tin mới phô bày những bí ẩn nơi đây. Nơi đầy rẫy những bí mà không hề ẩn, ẩn mà cứ thản nhiên lồ lộ phô ra như đêm vũ hội khỏa thân lõa thể. Lõa thể đánh tráo khái niệm. Lõa thể dối trá thành hệ thống. Lõa thể sự tàn độc đến rợn người.
Phạm Thanh Khương đam mê đến rồ dại, sục sôi, gào thét tiêu diệt cái ác, để tình người thiện lương vốn dĩ giống nòi được nẩy mầm xanh tươi trong ngõ hẹp Lò Cái Thiên Đường.
Tình làng nghĩa xóm đó đây vẫn đậm đà thương yêu nhau đấy thôi. Ẩn hiện. Vẫn chân, vẫn mộc, vẫn hồn nhiên ngây dại như bản thiện thuở ban sơ đấy thôi.
Họ thương nhau bằng nhiều kiểu, nhiều cách vừa truyền thống vừa hiện đại thời 4.0. Dù gì vẫn là thương, là xót, vẫn cốt nhục tình thâm, máu đỏ da vàng chung một bọc "đồng bào", đùm nhau vượt qua hoạn nạn truân chuyên.
Tác giả đã thắp sáng ánh lửa niềm tin trong hoang tàn, phế tích, để xây không phải để phá.
Với ngòi bút sạch, ngòi bút thẳng, ngòi bút thép, ngòi bút chịu chơi trò gút bắt trốn tìm, đa đoan chữ nghĩa, khương ngang tàng, ương ngạnh đã xông thẳng vào một chủ đề xã hội máu thịt, hót nhất, nóng nhất, nổi cộm nhất: ĐẤT
“Người sinh ra từ đất. Đất sinh tham lòng người. Đất sinh ra con người, nhưng cũng từ đất mà con người phải chết. Chết lại trở về làm đất!”
( tr.
Bây giờ, người ta ăn đất như ăn gỏi. Đất là món béo bở để bon quan tham vinh thân phì gia; Để các đại doanh nhân biến tướng làm giàu; Để chính trị gia tự chuyển hoá leo lên nấc thang danh vọng. Bộ ba: kẽ hở pháp lý + Quan tham + doanh nhân, doanh nghiệp bắt tay nhau, kết thành một liên minh ma quỷ, tập đoàn mafia lớn nhất thời đại. Một khi đã ở thế chân kiềng vững chãi, chúng mặc sức tung hoàng thao túng thị trường BĐS, thâu tóm đất đai. Dự án gian, dự án ma, dự án treo, dự án đắp chiếu...Thôi thì đủ cách luồn lách,lươn lẹo, trá man đẩy cuộc sống dân lành xiêu liêu, điêu đứng, lâm bước đường cùng, bị dồn vào tận chân tường không lối thoát.
Vô hình chung, chúng biến cương lĩnh của Đảng "người cày có ruộng" thành người cày mất ruộng, dân làm chủ thành ông chủ mất đất, cùng đinh, bỏ quê cha đất tổ, tha hương tứ xứ, làm thuê, làm mướn tìm kiếm hạt cơm vãi, cơm rơi khắp nơi trong thiên hạ.
“Đất - vật tưởng như vô tri vô giác, vô ảnh vô hình chưa hẳn đã đem lại sự bình yên, khi nó có lòngtham của con người. Đất có bùa mê thuốc lú...Đất là máu. Máu thấm lại khô trong đất. Bởi thế đất có màu máu khô”
(Tr. 
Đất có màu máu khô
Cuộc chiến đất đai
Cuộc chiến đang diễn ra trên mảnh đất ngôi đền Phúc Đẳng Thần Kim Thiên Đường. Cuộc chiến ngầm, âm thầm mà vô cùng khốc liệt. chủ xâm lược đang thò đôi bàn tay gân guốc nhem nhúa mạ vàng vào nơi này cướp đất, mưu đồ cướp nước. Đó là đôi bàn tay ngoại bang ngàn đời nham hiểm. Ngoài mặt thì anh anh em em, nhưng bụng dạ lai rắp tâm ăn tươi nuốt sống mảnh đất này.
“Với loại người này không tin được. Tin nó có ngày mất cả mả bố ấy. Miệng nó nói hay, tay nó cầm dao. Tử tế gì. Cả dòng giống xưa nay chúng nó là thế. Ngay lịch sử ngàn đời nay chúng nó cũng thế”
( tr.226).
Lãnh chúa, cát cứ là đỉnh cao tham vọng. Tham vọng chiến tranh giành đất. Thứ chiến tranh hôm nay lạnh mà rực lửa nham thạch sục sôi trong lòng đất đang chờ trực phun trào.
Mảnh đất ngôi đền hoang Phúc Đẳng Thần Kim Thiên Đường lâu nay là bãi rác xú uế, là nơi cho lũ chuột trụi lông, rắn rết cú bọ bẩn thỉu về làm ổ, làm tình, cắn nhau choen choét.
Giờ, bỗng nhiên có thêm một đồng bọn chuột người về rắp tâm xâu xé, tranh giành chiếm đoạt.
Bỗng nhiên khu phế tích ấy, trở thành miếng pho mát ngon lành quyến rũ cả bầy chuột đen đầu.
Chuột người, người chuột, quy tụ đủ hạng người, hạng thú hoang trong tiểu thuyết "Gã Điên & Ngõ Thiên Đường" của PTK.
Ông ưỡn bụng, kẻ chức sắc trong XH, được ngòi bút phiếm họa đặc tả vẽ một đường nét chấm phá trên bộ mặt phì nộn, hạ đẳng của ông: "Khi nói, cái mụn cứt ruồi bên dưới mép đỏ lên. Mấy sợi lông mọc trên cái mụn ruồi lại rung rung" (tr.217)
"Có mùi sát khí trong mỗi câu nói từ miệng bà hừ hứ thốt ra" (tr.264), người đàn bà doanh nhân đài các, cơ thể tỏa ra mùi hương hăng hắc.
Thảng hoặc chút gia vị điểm xuyết thế thôi cũng đã khía một vạch ấn cảm xúc trong tôi về PTK tinh tế. (Giá như tác giả có thêm những đoản văn tả cảnh, tả tình, khai thác sâu hơn diễn biến tâm lý nhân vật...thì tác phẩm sẽ sinh động biết bao nhiêu - chả là tôi mong thế).
Ông ưỡn bụng (quan chức) cấu kết với bà hừ hứ (doanh nhân), thông qua giao cấu làm tình để giao cấu làm quyền, làm tiền. Cái này giờ đây người ta gọi là "đĩ kinh tế".
Ma lực đồng tiền làm điên đảo cả xã hội. Lớp dưới, móc nối với lớp trên, với quan tham thượng cấp, cùng rủ nhau chui qua cái lỗ ánh kim tiền.
Phương cách làm giàu, cực kỳ giàu sang, bước lên giai tầng tinh hoa, thượng lưu, đẳng cấp cũng cực kỳ đơn giản.
Việc làm ăn vốn theo trình tự, quy trình, quy định, thông tư, văn bản hẳn hòi chứ đâu phải chuyện đùa, chuyện chơi.
Chúng ẩn nấp kẽ hở pháp lý, mưu ma chước quỷ, mập mờ đánh lận con đen, kết nối nhau thành một hệ thống chặt chẽ, từng bước: Lập dự án, lấy chữ ký, thu gom đất đai... Mọi việc hạ hồi phân giải.
Chuyện ở xứ ta thật cứ như đùa, đùa thành thật chỉ trong vòng một nốt nhạc, một chữ ký là xong
"Khó khăn về quyết định lựa chọn dự án ư. Chuyện trong tầm tay. Một khi đã xác định được lợi ích thì nét ký sẽ chẳng là gì"
(Tr.216).
Chữ ký tối hậu có khi chỉ đơn giản được lấy trên bàn nhậu với những hiệp rượu tây hảo hạngShipwrecked, Krug, Cristal Brut; Có khi trong cuộc đưa đón mỹ kim (USD) giao hữu, tình thương mến thương; Có khi lên giường sau cuộc mây mưa với "đĩ kinh tế", thứ đĩ "có tàn, có tán, có hương án, có bàn độc".
Sau chữ ký tối thượng ấy là một thảm họa, dân cày mất đất, người lành mất nhà. Sau chữ ký tối thượng ấy, hàng trăm hecta biến thành đất dự án, đất quy hoạch:
"Mới đây, ở một tỉnh nọ, người ta còn cấp quyền sử dụng đất hơn năm trăm hecta cho một doanh nhân đầu tư xây chùa. Trong dự án khuôn viên nhà chùa có cả sòng bạc, nhà nghỉ, khách sạn năm sao"
(Tr.139)
Thời mạt pháp, thánh thần mang ra đấu giá. Đức tin bị báng bổ làm nhục. Treo đức tin nhử mồi tín đạo thập phương để buôn thần bán thánh.
Thời mạt pháp, " tiền là tất cả, tiền là trên hết...Họ không hề quan tâm đến đời sống văn hóa, tâm linh. Tâm linh là chỗ để kinh doanh, thu lợi...Vào dịp Tết người dân đi giải hạn cầu siêu đông đến mức...chỉ ba ngày nhà chùa thu về cả vài ba chục tỷ đồng...Sau mùa lễ hội, tiền lẻ người đi lễ gọi là có giọt dầu mà phải có hai mươi tám xe tải chở tiền gởi ngân hàng. Hỏi thế...sao không làm, có mà mang bắn cũng làm"
(Tr.139, 140).
Liệu việc kinh doanh chùa chiền có "sân sau"của các bậc quan phụ mẫu? Liệu quan từ trên xuống dưới có được chia phần trăm cổ phần "phi lợi nhuận" này chăng? Bao nhiêu? "Chỉ hỏi trời mới biết".
"Tiền là tất cả. Tiền là trên hết". Tiền trong đất. Vàng giấu trong đất. Vì vậy Bà hừ hứ, ông ưỡn bụng quyết chiếm bằng được mảnh đất đền Phúc Đẳng Thần Kim Thiên Đường, kể cả mưu cao kế hiểm, kể cả đốt đền, giết người. Phải giết, giết gã điên để dọn sạch vật ngáng cản đường ông bà đi tới mục tiêu, bán mảnh đất đền cho thằng xủng xoảng "kẻ cả, mắt lươn, đầu trọc, tóc cua". Tính là làm. Chúng đã đang tay đốt đền, giết người, cướp đất, bán đất cho tên xủng xoảng ngoại bang.
Đến đây, PTK đã chạm vào một thách thức lớn cũng là câu hỏi lớn thế sự cho xã hội hôm nay (?)Câu hỏi không có lời hồi đáp...
Đất có màu máu khô. Đất có cả màu máu tươi đang thấm đỏ khắp mọi vùng miền. Con giết cha, anh em đâm chém lẫn nhau, hàng xóm tắt lửa tối đèn triệt hạ nhau, chủ dự án chủ đất đai đánh giết nhau. Xã hội rối ren với những vụ thưa kiện về đất đai kéo mấy thập niên dài. Sự mâu thuẫn, phân hóa xã hội mỗi lúc một gay gắt. Niềm tin vào chủ nghĩa nhân sinh càng ngày càng khánh kiệt... Thảm họa mỗi ngày, nóng bỏng các trang tin. Họ quyết sinh tử tranh giành từng tấc đất. Bởi giờ đây, hơn lúc nào hết,"tấc đất tấc vàng".
Nhưng khổ nỗi thua cuộc bao giờ cũng thuộc về kẻ yếu thế: ông chủ mất đất.
Tất cả, được nhà văn PTK thu vào trong tầm mắt, rồi tái hiện trên từng trang tiểu thuyết viết bằng máu và nước mắt.
Phạm Thanh Khương đã phản ánh hiện thực khách quan thời đại bằng linh hồn văn chương đích thực. Nhà văn khao khát tự do viết, khao khát phá vỡ giam cầm, giải phóng con chữ. Anh lột xác nhân vật, lột xác chính mình, gửi mình trong dòng sông ngôn ngữ, lột xác xã hội, khám phá đời sống đương đại trên tâm thế phản biện và dự báo. Nhà văn luôn đề cao tính văn học, tính xã hội, tính nhân văn trong tầng trải nghiệm đang ươm độ chín lập ngôn cho riêng mình.
Tất nhiên, đây mới chỉ là bước đầu rời điểm xuất phát.Con đường VH tương lai đang còn ở phía trước chờ đón anh, bạn đọc chờ đón anh.
Chỉ mong sao nhà văn, nếu trèo lên đỉnh ngọn Tháp Bút thì thả chữ trên Trời Xanh; Nếu đi dưới đất bằng, chân cứng đá mềm, vững tâm, bền chí.
Và... nhớ rắc thêm muối, những hạt muối sàng nắng lọc gió, tinh khiết của cuộc đời lên từng trang sách mới.
Thân ái
Nguyễn Hoàng Kim Oanh

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét