thư từ bài vở xin gửi về : hothanhngancm@gmail.com
HỒ THANH NGÂN
Hội viên hội văn học nghệ thuật Cà Mau
Hội viên hội văn học nghệ thuật Phú Yên
Hiện sống và viết tại Cà Mau
Tác phẩm đã xuất bản : Sông Đốc Ngày Nắng Muộn - Nxb Thanh Niên (2016)
Phương Nam Lộng gió - Nxb Hội Nhà Văn (2018)
Trường Ca Nhớ Phú Yên - Nxb Hội Nhà Văn (2019 )
Chiều Ở Phía Ngược Gió - Nxb Hội Nhà Văn (2020)
Hơn hai trăm năm trước, trong kiệt tác Truyện Kiều, đại thi hào Nguyễn Du từng viết: “Trăm năm trong cõi người ta/ Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”. Ngẫm đến bây giờ và cả muôn sau, điều này vẫn còn đúng và chí ít là nó đúng khi vận vào cuộc đời của nữ ca sĩ Phi Nhung vậy!
Ca sĩ Phi Nhung
Tôi biết đến giọng ca của Phi Nhung từ năm 1994, khi làng quê tôi vừa mới có điện. Hầu hết mọi người đều yêu mến chị bởi chất giọng thanh thoát, đằm thắm, ngọt ngào với những bài hát phảng phất làn điệu của ca dao, dân ca, gắn bó thân thương với cuộc sống bình dị nơi ruộng đồng thôn dã, những tình khúc quê hương. Dù chỉ nghe ké qua máy Casstte của người cậu hàng xóm nhưng giọng hát da diết, khắc khoải, đượm buồn đến nghẹn ngào, nức nở của Phi Nhung đã cuốn hút và chinh phục tôi từ đó. Tuy nhiên, Phi Nhung là ai, cuộc đời nữ ca sĩ như thế nào… thì mãi đến sau này tôi mới biết!
Chiều cuối thu nay, trưa 28/9, tôi bàng hoàng nghe tin Phi Nhung qua đời vì Côvid-19! Dù trước đó, các phương tiện truyền thông có đưa tin nữ ca sĩ đã mắc bệnh hơn một tháng rồi nhưng vẫn không thể ngờ được, dù đó là sự thật! Như vậy, giới văn nghệ sĩ Việt Nam thêm lần nữa ngậm ngùi, thương xót, lặng lẽ tiễn đưa một nữ ca sĩ xinh đẹp, tài năng và đặc biệt là rất nhân hậu về nơi vĩnh hằng! Tôi và những ai yêu mến giọng ca của chị đều bùi ngùi, tiếc thương. Kể từ đây, chúng ta chẳng còn thấy một nữ ca sĩ sáng bừng sân khấu, thướt tha bình dị, khắc khoải đượm buồn, mang nặng nỗi niềm với cuộc đời, ngân giọng nghẹn ngào qua các nhạc phẩm thấm đẫm tình quê hương xứ sở nữa.
Phi Nhung sinh năm 1972 ở Gia Lai, mang hai dòng máu Việt – Mỹ. Chị sống cả quãng đời tuổi thơ cơ cực, đẫm đầy nước mắt. Mới hơn 10 tuổi đã mồ côi mẹ, phải nghỉ học và lao động nhọc nhằn để nuôi 5 đứa em cùng mẹ khác cha. Chưa kể đến nỗi tủi hờn, ngậm ngùi khi bị dè bỉu, khinh khi vì thân phận của môt đứa con lai.
Năm 1989, chị sang định cư ở Mỹ theo diện con lai – cha của chị là một quân nhân Mỹ tham chiến tại Việt Nam trước đó. Sự nghiệp ca hát của Phi Nhung thăng tiến rất nhanh kể từ sau bài hát Sông quê cùng nam danh ca Thái Châu. Trong giai đoạn từ 1994-1998, Phi Nhung được mệnh danh là “Nữ hoàng băng đĩa”, gặt hái rất nhiều thành công trên sân khấu hải ngoại. Riêng ở quê nhà Việt Nam, giọng hát của chị đã làm thổn thức, say đắm lòng người qua những tình khúc quê hương, thuộc dòng nhạc Bolero.
Một bước ngoặt mới trong cuộc đời của Phi Nhung là năm 2002 chị được cấp phép về nước biểu diễn. Kể từ đây, người hâm mộ càng thêm yêu quý nữ ca sĩ nhiều hơn bởi tấm lòng nhân hậu, tinh thần từ tâm, hành động thiện nguyện của chị. Như đồng cảm, thấu hiểu nỗi đau của những đứa trẻ kém may mắn, chị đã nhận cưu mang 23 đứa bé mồ côi, cơ nhỡ, coi chúng như con của mình. Trong giới nghệ sĩ, có lẽ chị là người có con nuôi nhiều nhất. Nhìn những hình ảnh ấm áp, yêu thương mà chị dành cho bọn trẻ, tôi càng hiểu thêm câu nói “bàn tay có mở rộng trao ban, tâm hồn mới ngập tràn sướng vui hạnh phúc”. Chị thật hạnh phúc theo cách trao ban và san sẻ!
Tôi ấn tượng về chị không chỉ vì xinh đẹp, hát hay mà còn vì tấm lòng nhân hậu với cuộc đời, nhân ái với con người. Khi dịch Côvid -19 bùng lên, thay vì lo nghĩ cho riêng mình để mong cầu sự an yên, chị lại chọn cách xông xáo lo cho người khác. Bị lây nhiễm đã hơn 40 ngày, dù được các y bác sĩ tận tình chữa trị nhưng chị vẫn không qua khỏi. Thật tiếc thương một nghệ sĩ đa tài, có tấm lòng từ bi, nhân ái, đã sớm vội đi vào cõi vĩnh hằng!
Hưởng dương hơn 50 tuổi, gần 30 năm theo nghiệp cầm ca, 19 năm trở về đất mẹ Việt Nam, Phi Nhung đã cống hiến trọn vẹn một cuộc đời đẹp đẽ, đầy ắp yêu thương, ấm áp tình người. Dù biết rằng ước mơ vẫn còn dang dở, dự định vẫn chưa hoàn thành nhưng lẽ tử sinh thôi đành chấp nhận. Cầu mong cho linh hồn của chị được siêu sinh tịnh độ, nhẹ nhàng thanh thản, về nương cõi Phật!
Chắc chắn rằng, người hâm mộ sẽ còn thương nhớ mãi giọng ca ngọt ngào của Phi Nhung, giọng ca gắn liền với các nhạc phẩm trữ tình về quê hương như: Bông điên điển, Sầu tím thiệp hồng, Phải lòng con gái Bến Tre, Bà Năm hoặc Sông quê…
Ngay lúc này, lời ca của Sông quê như da diết vang lên: “chiều nay bỗng nhớ cây mù u/ dòng sông soi bóng em chiều thu”.
Chiều cuối thu tiễn biệt Phi Nhung nhưng những dòng sông quê vẫn mãi còn soi bóng chị!
Nhà giáo PHAN HUY THÙY - Trường THPT Lê Lợi ( Đồng Xuân, Phú Yên)
Nhà thơ Văn Công: Sống và viết thủy chung với cách mạng
Thồ Lồ với những cái tên như tù trưởng Ma Quân, những chủ làng, già làng Ma Kham, Ma Gâm, Ma Kheo, ma Khó, Ma Ngoe, những người dẫn dắt buôn làng đánh giặc… trong những trang văn của Văn Công thật hào sảng! Và Bí thư Chi bộ Ma Pốp (Văn Công), người có nhiều công lao xây dựng nên phong trào cách mạng nơi đây, được bà con coi như vị tù trưởng đặc biệt…
Năm 1988, lần đầu tiên vào Nha Trang, tôi được Tiến sĩ Nguyễn Đình Thơ, Chủ nhiệm Đoàn Luật sư tỉnh Khánh Hòa dẫn đến thăm nhà thơ Văn Công mà anh gọi là ông ngoại. Khác với hình dung của tôi về một nguyên Phó Bí thư Tỉnh ủy Phú Yên, nguyên Quyền Chủ tịch tỉnh Phú Khánh, Văn Công dáng người thấp bé, xuề xòa, trông giống một lão nông nhiều hơn là nhà chính trị. Vẫn giọng Nghệ nguyên chất, ông bảo tôi: “Mi thấy cái nhà ni đẹp phải không? Nhà của nhà nước đó! Mai mốt chia tách tỉnh, tau trả lại nhà, về Phú Yên. Tau chỉ muốn lên miền Tây thôi, tình nghĩa lắm!”.
Nói là làm, giữa năm 1989, chia tách tỉnh, ông trả lại nhà, chia tay Nha Trang hoa lệ để về Phú Yên còn bộn bề khó khăn. Dẫu không về miền Tây, sống ở Tuy Hòa, ông có điều kiện nhiều hơn để thường xuyên về thăm Thồ Lồ, thăm miền Tây, nơi gắn liền với cuộc đời ông qua 2 cuộc kháng chiến.
Nhà thơ Văn Công tên thật là Cao Xuân Thiêm, sinh năm 1926 tại xã Diễn An, huyện Diễn Châu (tỉnh Nghệ An), trong một gia đình nho học, một dòng họ nổi tiếng về khoa bảng và nhiều trí thức lớn. Năm 1946, hăm hở trong đoàn quân Nam Tiến, ông có mặt tại Phú Yên và như một định mệnh, ông gắn cuộc đời mình ở miền Tây Phú Yên, với những cái tên như Ma Pốp, Ma Xí, Ma Xoong, cũng quấn khố, để tóc dài, đi chân đất, nói tiếng dân tộc thiểu số, sống, chiến đấu cùng bà con trong những điều kiện ngặt nghèo, gian khổ nhất của cuộc kháng chiến.
Một miền Tây đói cơm lạt muối mà mặn nồng tình anh em Kinh – Thượng, một miền Tây hào hùng, quật khởi đi qua cuộc đời Văn Công trở thành những bài thơ rực ngời ánh lửa, chan chứa tình đời, những trang văn da diết đại ngàn, lung linh sắc màu huyền thoại, bộn bề sự kiện tranh đấu. Hơn 20 đầu sách, trong đó 15 cuốn in riêng với những cái tên như Mảnh đất yêu thương, Miền đất huyền thoại, Vùng đất lửa, Ký ức về một miền đất,… là tấm lòng của ông đối với vùng đất đầy ân nghĩa này.
Thực ra, sau gần 10 năm gắn bó với miền Tây, với Phú Yên, lẽ ra cuối năm 1954, ông đã được trở về với quê hương theo chuyến tàu tập kết ra Bắc. Song, sau thành tích trở lại Phú Yên đưa đồng chí Lê Đài, Phó Bí thư Tỉnh uỷ đang tạm lánh trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số ra Diêu Trì, Bình Định dự cuộc họp do đồng chí Võ Chí Công (đại diện Khu uỷ Khu 5) trực tiếp chủ trì, Tỉnh uỷ Phú Yên đã quyết định giữ ông ở lại làm cán bộ giao liên chuyên trách đường dây bí mật từ Phú Yên ra đầu mối đường dây Khu 5 và các tỉnh Bình Định, Đắk Lắk, Gia Lai. Ông nói, nhìn chuyến tàu cuối cùng chở cán bộ tập kết ra Bắc, lòng ông không khỏi bâng khuâng, nhất là trên tàu có mang theo lá thư ông gửi người con gái mà dự định ra Bắc lần này sẽ làm lễ cưới.
Có một cái tên trở đi, trở lại, là tâm điểm trong các tác phẩm của Văn Công, đó là Thồ Lồ (xã Phú Mỡ, huyện Đồng Xuân). Như ông viết, đó là mảnh đất của “một bộ lạc chi nhánh của dân tộc Ba Na”, từ lâu “sống như người rừng, không hề có một sự kiểm soát của ai, dù là vua quan phong kiến, hay thực dân Pháp”. Thế nhưng, bộ lạc chưa đến 1000 người đó đã trở thành đốm lửa đấu tranh vũ trang đầu tiên, nơi đứng chân của cách mạng trong những ngày khó khăn nhất, mảnh đất kiên cường địch không thể làm lay chuyển và cũng là vùng giải phóng đầu tiên của tỉnh Phú Yên vào năm 1957.
Thồ Lồ với những cái tên như tù trưởng Ma Quân, những chủ làng, già làng Ma Kham, Ma Gâm, Ma Kheo, Ma Khó, Ma Ngoe,… những người dẫn dắt buôn làng đánh giặc, trong những trang văn của Văn Công thật hào sảng. Và Bí thư Chi bộ Ma Pốp (Văn Công), người có nhiều công lao xây dựng nên phong trào cách mạng nơi đây được bà con coi như vị tù trưởng đặc biệt. Riêng Ma Ngoe, ông coi như người anh hùng của miền Tây Phú Yên, là người đã cứu ông. Ông nói với tôi: “Không có H' Ngoe, con gái Ma Ngoe, nghe lời cha giả vờ làm vợ mình thì địch nó bắn mình lâu rồi”. H’ Ngoe chết rất trẻ khi vừa sinh con trong một trận càn của địch. Ma Ngoe cũng chết lâu rồi, nhưng cho đến giờ vẫn chưa được phong tặng danh hiệu anh hùng. “Em đi bỏ rừng mai, gốc chuối/ Bỏ mẹ già khúc suối đêm trăng/ Anh ghé đây vun thêm nắm đất/ Cho mồ em thêm chặt mối tình…”. Ông đã có những bài thơ, những trang văn thật cảm động về họ, nhưng sao đến giờ lòng vẫn ray rứt không yên.
Văn Công là lớp nhà thơ đầu tiên của văn học Giải phóng miền Nam. Hai bài thơ “Lòng em” và “Tiếng các em” (1960) của ông giành giải Nhất cuộc thi thơ Báo Thống Nhất. Tập Tuyến đầu Tổ quốc và tập Tiếng hát miền Nam (in chung) được tặng Giải thưởng Nguyễn Đình Chiểu. Bài thơ “Người Cộng sản” (1958) của ông được một tờ báo lớn ở Pháp dịch và đăng ngay trong những ngày chống Mỹ. Đọc thơ và văn Văn Công, có thể hình dung toàn bộ chặng đường hoạt động cách mạng của ông. Điều lạ lùng là trong những điều kiện ngặt nghèo, khó khăn nhất ông vẫn viết được. Ông nói, nhiều đêm, một mình một võng giữa rừng già, ông làm thơ, lẩm nhẩm đọc đi đọc lại cho đến thuộc, rồi sau mới có giấy bút ghi lại.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, dù ở cương vị nào: (Bí thư Huyện uỷ, Phó Chủ tịch, rồi Quyền Chủ tịch UBND tỉnh), hay đã về hưu, hễ có dịp là ông lại về với miền Tây, về lại vùng căn cứ Thồ Lồ. Ông nói: Về để thăm lại núi rừng, thăm lại đồng bào, soi vào đó mà giữ vững lòng mình, sống xứng đáng với dân, với Đảng. Và nữa, về để tiếp thêm năng lượng cho ngòi bút. Không khó lý giải vì sao sau khi về hưu ông lại viết được nhiều đến thế. Cứ vài ba năm ông lại ra một đầu sách, cuốn nào cũng dày nặng .
Cuộc sống một thời gian khổ, đói cơm lạt muối cùng tính cách người Nghệ đã tạo nên một Văn Công bản lĩnh, rắn rỏi và rất giản dị. Hồi còn làm lãnh đạo tỉnh, mỗi lần đi công tác về các địa phương, ông thường dỡ cơm mang theo. Nhà báo Phan Thanh Bình ở Báo Phú Yên, nguyên thư ký của Văn Công hồi ông làm Quyền Chủ tịch tỉnh Phú Khánh kể: Một lần ông về một địa phương trong tỉnh để truyền đạt Nghị quyết về giá, lương, tiền. Truyền đạt xong, lãnh đạo địa phương cứ xuýt xoa: “Bấy nay tụi em cứ tăm tăm, mù mù, may nhờ anh Sáu mà bọn em sáng ra.”. Ông không nói gì, mãi đến khi ra xe, dỡ cơm ra ăn, ông mới nói với anh em trong đoàn: “Thực ra thì cái nghị quyết này, tau thấy nhiều chỗ còn lùng bùng trong triển khai thực hiện. Vậy mà các cậu ấy bảo sáng ra, tau không biết sáng ở chỗ mô!?”. Suốt cuộc hành trình, ông không nói chuyện nghị quyết nữa, mà chỉ nói chuyện thơ, văn.
Lại nói chuyện ngôi nhà rất đẹp ở Nha Trang mà ông trả lại cho Nhà nước, ông kể, khi về Phú Yên rồi, có vị lãnh đạo gợi ý cấp lại ngôi nhà trị giá hàng tỷ đồng lúc đó cho ông, nhưng ông cảm ơn và từ chối.
Ông nặng tình với quê hương xứ Nghệ, có nhiều thơ về quê hương và vẫn luôn coi chúng tôi, những người con xa quê như con cháu của mình. Ở xã Sơn Nguyên, huyện Sơn Hòa, có một ngôi làng trù phú toàn người Diễn Châu vào lập nghiệp. Sau giải phóng, về quê, thấy đất chật, người đông, khi đó đang là Bí thư Huyện ủy Tây Sơn (huyện Sơn Hòa và Sông Hinh hiện nay), ông đã vận động bà con vào khai hoang lập làng làm ăn. Bà con coi ông là công dân danh dự của làng…
Riêng Thồ Lồ, lâu không thấy ông về là bà con nhắc. Bà con vẫn gọi ông là Ma Pốp, Ma Xí, Ma Xoong. Gần 90 tuổi, đã thuộc thế hệ nhà văn Việt Nam ở tuổi “xưa nay hiếm” lâu rồi, sức khỏe yếu nhiều, bây giờ dẫu không thể còn thường xuyên về với miền Tây, về với Thồ Lồ, nhưng hàng ngày, ngồi trước trang giấy, miền Tây, Thồ Lồ lại hiện ra, đầy ắp kỷ niệm, để ông có thêm những bài thơ, những trang văn nặng nghĩa với đời!
Thư gửi Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo: Sự thật của “học thật, thi thật, nhân tài thật”?
“Để đánh giá chất lượng nhân tài chúng ta cũng không có công cụ nào ngoài tổ chức thi học sinh giỏi. Kết quả chúng ta đã đào tạo được các thợ giải toán, thợ thuộc lòng văn mẫu. Đội ngũ này trở thành gà công nghiệp khi ra ngoài đời và chưa bao giờ là “nhân tài thật” vì thiếu sức sáng tạo, thiếu sự đột phá, thiếu tư duy độc lập”. Đó là một phần trong lá thư dưới đây của nhà văn – nhà giáo Mai Tiến Nghị.
Nhà văn – nhà giáo Mai Tiến Nghị, nguyên Hiệu trưởng Trường THCS Hải Phúc, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định.
Kính gửi Thầy Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Thưa thầy!
Lời đầu tiên xin được bày tỏ niềm tin của cá nhân khi Thầy nhận trọng trách Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo – một nhiệm vụ rất vẻ vang nhằm chấn hưng giáo dục nước nhà để đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tôi rất vui mừng trước phương châm chỉ đạo hành động của ngành khi Thủ tướng và Bộ trưởng nêu ra: “Học thật, thi thật, nhân tài thật”. Theo tôi đây là bước phát triển mới thiết thực hơn, kiên quyết hơn và đi thẳng vào hiện trạng của giáo dục Việt nam. Nó là mệnh lệnh chứ không là cuộc vận động nữa. Nó không chỉ dừng ở việc nói mà việc thực hiện chẳng được coi trọng như “Hai không”: “Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục” mà Bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân từng đề xướng, để rồi mọi sự vẫn y nguyên, thậm chí còn tồi tệ hơn so với trước. Đó là các vụ việc gian lận tới hàng trăm trường hợp trong kỳ thi quốc gia năm học 2017-2018 ở Hà Giang, Hòa Bình. Đó là quá nhiều vụ việc tiêu cực trong giáo dục mà báo chí không mấy ngày không nhắc đến.
Là một người dạy học, hơn 30 năm tham gia trực tiếp công tác quản lý nhà trường ở cấp thấp nhất trong hệ thống quản lý giáo dục, tôi biết rõ đằng sau những báo cáo, đằng sau những cuộc thi là cái gì. Những điều được trình bày dưới đây có thể góp phần nhỏ để các thầy ở trên Bộ có quyết sách ở tầm quốc gia cho phù hợp.
1- Trước hết là số lượng trong phổ cập giáo dục.
Với mục đích tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội, theo mong ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”, việc thực hiện mong ước của lãnh tụ đã trở thành ý chí của toàn Đảng toàn dân. Khi trở thành ý chí thì phải quyết tâm làm bằng được. Chính vì thế mà Chính phủ và Bộ Giáo dục có những Nghị quyết về phổ cập các cấp học để khẳng định tính ưu việt của thể chế. Các tỉnh các huyện giao chỉ tiêu cho xã phải đạt chuẩn vào mốc thời gian cụ thể.
Với cơ chế thị trường như hiện nay, học sinh trong độ tuổi bỏ học rất nhiều (thống kê dưới cơ sở của chúng tôi cho thấy khoảng 30% học sinh nông thôn không được bố mẹ trực tiếp chăm sóc vì phải đi làm ăn xa, một số hoàn cảnh kinh tế rất khó khăn… thêm nữa các cháu đang tuổi hiếu động lại bị sức ép về điểm số thi cử nên sợ học, ngại học dẫn đến nguy cơ bỏ học nhiều). Nhưng tại sao ta vẫn phổ cập bậc Trung học cơ sở ở gần hết các tỉnh thành? Xin thưa nếu làm thật thì không có kết quả ấy.
Thực ra phổ cập giáo dục chỉ làm thống kê, tính toán chi ly đếm đầu trẻ ở cấp xã. Đối với cấp huyện thì chỉ cần đếm đầu các xã đạt tiêu chuẩn là xong. Cấp tỉnh lại tính bằng đầu số huyện đạt. Vậy thì đơn giản nhất là biến số học sinh bỏ học ở cấp xã thành chuyển trường đi tỉnh ngoài.
Tại sao lại phải ghi đi tỉnh ngoài? Vì chuyển ra ngoài tỉnh thì Sở chả đi các tỉnh mà điều tra được, và quan trọng là Bộ cũng chỉ cần báo cáo chứ không kiểm tra. Một xã nếu theo thống kê phổ cập thì chuyển đi khoảng 150- 200 (số này thực tế là bỏ học). Nếu cộng con số “chuyển đi” của một huyện ta sẽ có số bỏ học kinh khủng.
Khi đã đạt chuẩn phổ cập thì trên yêu cầu tiếp phải phổ cập đúng độ tuổi. Muốn phổ cập đúng độ tuổi thì phải hạn chế đến mức gần như không có học sinh lưu ban. Giáo viên kêu trời! Việc kêu cứ kêu còn vẫn phải thực hiện. Kết quả học sinh lên lớp gần trăm phần trăm. Trẻ thiểu năng trí tuệ vẫn mỗi năm lên một lớp với cái tên rất đỗi hoa mỹ thân thương “khuyết tật hòa nhập.”
Rõ ràng là lấy ý chí để ra quyết sách cho giáo dục đã nảy sinh nhiều điều không thật.
2- Việc đánh giá chất lượng không có cách nào khác là tổ chức các kỳ thi và coi bằng cấp chứng chỉ là căn cứ duy nhất để xác định năng lực cá nhân. Chúng ta đặt ra các chỉ tiêu về chất lượng và buộc phải thực hiện các chỉ tiêu ấy bằng mọi giá, Nếu không thực hiện được chỉ tiêu là không hoàn thành nhiệm vụ. Chính vì vậy mà mỗi cá nhân trong hệ thống giáo dục phải phấn đấu để có kết quả cao nhất. Để có được kết quả cao nhất thì sinh ra dạy tủ, học vẹt. Sự dạy tủ học vẹt còn được hậu thuẫn chắc chắn từ những bộ đề giải sẵn (500 bộ đề thi Đại học với mỗi môn. Đối với cấp học thấp hơn là các sách ôn tập, thi cũng chỉ ra đề trong sách ấy vì người soạn sách là người ra đề). Người dạy và người học cùng nhau ôn luyện theo bộ đề là đạt kết quả cao. (đấy là ta chưa nói đến chuyện người dạy lại chính là người ra đề hoặc móc ngoặc với người ra đề) Thầy giáo ôn trúng đề được vinh danh là thầy giáo giỏi(!) như các báo đã từng ca ngợi.
Chỉ học theo đề giải sẵn thì làm sao phát triển được tư duy. Kết quả sản phẩm giáo dục là những con người thụ động chỉ biết làm theo lối mòn, thiếu tư duy, không biết phản biện, không phát huy được năng lực cá nhân. Xã hội thiếu vắng những nhân tài thật.
Cũng vì chỉ đánh giá chất lượng bằng thi nên phương châm của người học và người dạy hiện nay là thi gì học nấy. Vì vậy chỉ tập trung dạy kiến thức văn hóa mà không quan tâm các hoạt động giáo dục khác. Trong dạy học các kiến thức văn hóa thì một số môn học chỉ dạy qua loa cho xong. Ngay trong một môn học cơ bản thì giáo viên cũng xem xét sẽ thi đơn vị kiến thức nào thì tập trung vào đấy. Còn lại không dạy hoặc có dạy thì rất sơ sài chiếu lệ. Rõ ràng mục tiêu giáo dục toàn diện đã thất bại hoàn toàn.
Việc thi và chấm thi cũng là điều rất đáng phải bàn. Khâu coi thi không nghiêm. Chấm thi phải theo quy chế: chấm thí điểm một số bài lấy kết quả báo cáo trên. Nếu kết quả cao thì trên cho chấm đại trà, ngược lại nếu thấp thì lập tức trên chỉ đạo nới rộng biểu điểm. Kết quả các kỳ thi bao giờ cũng rất cao là vì thế. Tương tự như Bộ Giáo dục, để có số lượng theo chỉ tiêu đào tạo Tiến sĩ nên đã hạ thấp tiêu chuẩn khi xét điều kiện công nhận học vị Tiến sĩ. Đây là cách gọt chân cho vừa giày để đảm bảo chỉ tiêu số và chất lượng
Chất lượng giáo dục còn khẳng định hiệu quả lãnh đạo quản lý của chính quyền từ cấp cao nhất đến cơ sở nên gian lận trong thi cử có đất để sinh sôi nảy nở (thậm chí có nơi còn được khuyến khích). Nếu có điều kiện là gian lận, sơ hở là gian lận. Thậm chí người ta còn huy động lực lượng, tổ chức chặt chẽ cho việc thực hiện các hành vi gian lận. Vụ sửa điểm ở Hà Giang là ví dụ.
Phải chăng đã đến lúc chúng ta cần tổ chức lại cách đánh giá chất lượng giáo dục theo nhiều tiêu chí chứ không chỉ dựa vào duy nhất là kết quả thi.
3- “Nhân tài” và “nhân tài thật”.
Xuất phát từ mục tiêu giáo dục: “… Đào tạo nhân lực, Bồi dưỡng nhân tài” nên Đảng, Chính phủ và ngành Giáo dục đã đầu tư khá lớn về con người, tiền bạc cho mục tiêu “Bồi dưỡng nhân tài”. Nhưng kết quả thực sự chỉ là những tấm huy chương ở các cuộc thi quốc tế. Ở địa phương cũng vậy. Cũng đầu tư mạnh, bớt xén kinh phí của các nhà trường đại trà để tập trung tài lực cho những “vua” trường chuyên, trường năng khiếu để lấy kết quả xếp loại đội tuyển cạnh tranh giữa các tỉnh các huyện…
Có lẽ Bộ Giáo dục chưa bao giờ tổng kết xem trong tổng số Học sinh giỏi quốc gia của Việt Nam có bao nhiêu phần trăm đã phát triển năng lực để hôm nay trở thành những nhà khoa học giỏi, nhà văn hàng đầu, nhà lãnh đạo giỏi, nhà kinh doanh giỏi. Những “Nhân tài thật” như vậy rất ít. Các nhà văn Việt Nam hiện nay gần như hiếm có ai là học sinh giỏi văn cấp quốc gia. Còn những học sinh đạt giải các kỳ thi quốc tế môn Toán và các môn Khoa học tự nhiên sau khi hoan hỷ vinh quang thì lặn không thấy tăm hơi. Rất ít người trở thành những nhà khoa học thực thụ.
Ngược lại, đa số những nhà khoa học đầu ngành, những nhà văn đầu đàn, những tỷ phú hàng đầu… lại chưa bao giờ là học sinh giỏi quốc gia. Các nhà lãnh đạo hiện nay lại càng không bao giờ có được cái vinh dự là “nhân tài” trong thời học sinh.
Vậy thì chiến lược bồi dưỡng nhân tài ở tầm vĩ mô có lẽ phải xem xét lại.
Ở địa phương, chiến lược bồi dưỡng nhân tài được thể hiện bằng hệ thống trường chuyên lớp chọn. Các trường năng khiếu được tổ chức ở cấp Tiểu học và Trung học cơ sở do huyện quản lý. Hệ thống trường chuyên ở Phổ thông Trung học do cấp tỉnh và các trường đại học quản lý. Để đánh giá chất lượng nhân tài chúng ta cũng không có công cụ nào ngoài tổ chức thi học sinh giỏi.
Kết quả chúng ta đã đào tạo được các thợ giải toán, thợ thuộc lòng văn mẫu. Đội ngũ này trở thành gà công nghiệp khi ra ngoài đời và chưa bao giờ là “nhân tài thật” vì thiếu sức sáng tạo, thiếu sự đột phá, thiếu tư duy độc lập.
Vì công cuộc bồi dưỡng nhân tài ở địa phương chỉ nhằm mục đích lấy thành tích thi có giải, nên trước đây mỗi huyện có một trường năng khiếu cho cấp Tiểu học và Trung học cơ sở, cấp tỉnh có một trường chuyên ở bậc Phổ thông Trung học. Mặc dù Bộ Giáo dục từ những năm 90 của thế kỷ trước đã có chỉ thị giải tán trường năng khiếu bậc Trung học cơ sở và Tiểu học ở cấp huyện nhưng nó vẫn cứ tồn tại như một thách thức. Chỉ cái tên Năng khiếu được bỏ đi để lấy một cái tên khác (tên huyện hoặc tên một danh nhân) và tiếp tục tồn tại như một quái thai trong hệ thống. Dù vậy nó lại được Chính quyền cấp huyện quan tâm ưu ái đầu tư mọi mặt. Người ta lấy giáo viên giỏi ở các trường lên, cắt xén ngân sách của các trường đại trà đưa về cho cái quái thai ở cấp huyện với danh nghĩa “bồi dưỡng nhân tài cho quê hương”. Tuy nhiên chỉ có khoảng 20- 30% số học sinh của nó là học sinh giỏi, còn lại chủ yếu là con em cán bộ và nhà giàu.
Trước kỳ thi xếp loại học sinh giỏi cấp tỉnh thì các giáo viên “chuyên” tìm mọi cách tiếp cận người ra đề để khoanh vùng kiến thức, dạng đề… Sau đó tập trung học tủ, giải tủ… Nếu “tiếp cận” càng thân mật thì khoanh vùng kiến thức học tủ càng hẹp, càng sát dạng bài, kiểu bài… kết quả thi càng cao. Sự “tiếp cận” này rất đa dạng và có những điều kiện “tế nhị” rất khó mô tả.
“Nhân tài” ở cơ sở đã được hình thành và bồi dưỡng như vậy.
Có lẽ Bộ cần xem xét chủ trương thi học sinh giỏi các cấp, nhất là cấp Trung học cơ sở. Trước hết phải bỏ các trường năng khiếu THCS cấp huyện, không cho nó tồn tại dưới bất cứ danh nghĩa nào. Để phát hiện bồi dưỡng nhân tài thì phải đổi mới cách làm, như tổ chức cho nhóm hoặc cá nhân giải quyết một vấn đề trong đời sống khoa học hoặc đời sống xã hội. Việc này bậc Tiểu học đã bước đầu làm được và đã có thành công nhất định.
4- Về các điều kiện để thực hiện những tiêu chí thật.
Trước hết nội dung chương trình sách giáo khoa: Mỗi lần thay sách là một dịp các Giáo sư Tiến sĩ ra sức phô diễn sự uyên bác của mình. Những lần thay sách, đổi mới giáo dục trước đây chỉ đơn thuần chỉ là “thay” chứ chưa có “đổi mới” đáng kể. Các nhà soạn sách chỉ thay hệ thống chương trình, thêm vào những nội dung cho hàn lâm hơn dẫn đến rườm rà và phức tạp hơn. Đã thế mỗi lần đổi mới lại thêm môn hoặc phân môn mới mặc dù luôn hô hào tích hợp để đơn giản hóa kiến thức. Ví dụ việc thay đổi dạng chữ. Đầu tiên đang là dạng chữ nghiêng nét tròn thanh đậm vốn rất đẹp đổi thành chữ đứng nét gấp mảnh (Dạy kiểu chữ này đã đào tạo được một thế hệ viết “thư pháp” đông đảo nhất trong lịch sử Việt Nam). Sau thấy xấu quá thì đổi lại để viết chữ đứng nét tròn và bây giờ là chữ đứng nét tròn có thanh đậm. Qua một thời gian dài dằng dặc hơn 40 năm thì chúng ta đã quay lại gần giống với kiểu chữ ban đầu. Giáo dục Việt Nam tiến hay lùi thì chỉ nhìn qua cách viết chữ cũng đủ biết, dẫu rằng chữ viết không phải là thứ quyết định nhưng phải điều chỉnh liên tục như vậy rõ ràng là có sự tùy tiện, sự lệch lạc của những nhà thiết kế, nhà soạn sách
Với ý chí thay đổi toàn diện, các nhà chuyên môn có xu hướng hàn lâm hóa các vấn đề đơn giản. Về hình thức thì thay đổi tên gọi sao cho sang hơn, trịnh trọng hơn: Giáo án đổi thành “Thiết kế bài dạy”, rồi thao tác 1, thao tác 2… nhưng nội hàm thì chẳng khác trước. Về nội dung kiến thức cũng không thay đổi nhiều, chỉ có nặng nề hơn. Môn Toán trở nên trừu tượng hơn khi hệ tiên đề hình học thay đổi, dạy toán cho học sinh lớp 1 phải trên quan điểm tập hợp chứ không thông qua phép đếm. Thực ra sự thay đổi này không làm tư duy của học sinh khá hơn mà giáo viên lại vất vả hơn. Môn Văn từ chỗ học trích giảng sang học tác phẩm nhưng cũng không đến đầu đến đũa. Một số bản dịch hay, vì cái sự đổi mới biến thành kém hay… Bản dịch “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt là một ví dụ rõ ràng nhất.
Chúng ta chưa tối giản kiến thức, đơn giản hóa nội dung, để chương trình nhẹ nhàng phù hợp với tâm lý lứa tuổi. Sách giáo khoa ít chú ý đến việc nội dung phải thiết thưc gắn với đời sống, chú trọng thực hành, trải nghiệm kỹ năng sống. Ngay bây giờ nếu yêu cầu một học sinh đã tốt nghiệp Trung học phổ thông dùng một sợi dây để xác định một miếng đất có là hình chữ nhật? Hay hãy xác định tâm của một mặt bàn hình tròn bằng thước vuông (có độ dài đủ lớn)?… thì chắc chắn sẽ có tới không dưới 50% tắc tỵ mặc dù đây chỉ là kiến thức lớp 9 (bậc THCS).
Đổi mới nội dung thì phải đổi mới phương pháp. Nội dung dù thay đổi kiểu nào mà phương pháp không thay đổi thì cũng không ra kết quả như mong muốn.
Do làm sách giáo khoa không kỹ nên phải điều chỉnh liên tục. Năm nào cũng điều chỉnh. Thậm chí có vấn đề năm trước đúng, năm sau sai, năm sau lại sai tiếp… Dưới trường dăm bữa nửa tháng lại có công văn hướng dẫn của Bộ, Sở cắt bài nọ thêm bài kia… nhất là những môn học cơ bản. Thử hỏi các vị soạn sách xong đã dạy thực nghiệm chưa? Đã thẩm định đo lường kết quả chưa? Đã công khai vấn đề, lấy được ý kiến thật của người giảng dạy trực tiếp và dư luận xã hội chưa? Vì chúng ta chưa làm tốt điều này nên đã biến học sinh thành đối tượng để thực nghiệm.
Tại sao phải nghe được ý kiến thật của người trực tiếp giảng dạy vì hiện nay tình trạng mất dân chủ trong giáo dục rất trầm trọng. Giáo viên không dám phản biện, không dám nói thật vì nếu nói ra lập tức bị hệ thống quản lý các cấp chặn ngay bằng mọi cách. (Thậm chí kỷ luật đuổi khỏi ngành). Bộ không nghe thấy tiếng nói của giáo viên thì luôn luôn bị thao túng bởi một đội ngũ chuyên viên kém tài kém đức coi giáo dục là thị trường béo bở.
Đội ngũ giáo viên là lực lượng quyết định chất lượng giáo dục. Mặc dù chúng ta hô hào giáo dục là quốc sách hàng đầu nhưng vị trí giáo viên lại bị coi là chiếu dưới trong hàng ngũ viên chức. Thời bao cấp giáo viên luôn cúi mặt vì câu: từ giáo viên trở lên… Sau đó có khá hơn trong thang bảng lương viên chức. Nhưng thực sự thu nhập của giáo viên vẫn thấp. Nhà nước ưu ái cho giáo viên 20-30% phụ cấp đứng lớp, được mấy tháng thì ngành nào cũng có cái phụ cấp ấy, mà còn vượt trội hơn. Được ưu ái phụ cấp thâm niên thì sắp sửa bị cắt. Một cô giáo Mầm non nông thôn lương tháng chỉ bằng ½ lương một osin trông trẻ cho một gia đình trên thành phố. Đời sống giáo viên vẫn khó khăn cộng thêm áp lực điểm số thi cử nên nạn dạy thêm tràn lan khó có cách để chấn chỉnh.
Về công tác quản lý các nhà trường, thực trạng thật đáng buồn. Đội ngũ cán bộ quản lý có quá ít người có chuyên môn cao. Không có năng lực, lại lười học tập nên việc quản lý nâng cao chất lượng và điều hành nặng về hình thức và hành chính. Khá phổ biến việc các Hiệu trưởng mới được đề bạt chỉ chăm chăm chặt cây này trồng cây khác, dẹp bồn hoa này, xây bồn hoa khác, trang trí lại các phòng họp… để chứng tỏ đổi mới so với người tiền nhiệm. Đó là việc của Chủ nhiệm HTX nông nghiệp chứ không phải là việc của Hiệu trưởng…
Thưa thầy Bộ trưởng!
Trên đây tôi trình bày một số điều rất thật của Giáo dục ở cơ sở với mong muốn trong nhiệm kỳ của Thầy dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ tướng, Bộ ta cùng Chính phủ sẽ có những quyết sách thật chính xác để từng bước lành mạnh hóa Giáo dục chấn hưng sự nghiệp trồng người.
“Quê hương là gì hở mẹ?”, đó là câu đầu tiên trong bài thơ “Bài học đầu cho con” của nhà thơ Đỗ Trung Quân. Phải cảm ơn nhà thơ đã sáng tác bài thơ tuyệt hay trong số những bài thơ hay về quê hương, đất nước. Quê hương thật giản dị, là chùm khế ngọt, con diều biếc, cầu tre nhỏ, giàn hoa bí... và mỗi người chỉ một!
Quê hương ấy, có thể là làng, nơi mỗi người sinh ra, cũng có thể đồng nghĩa với đất nước. Cảm ơn nhạc sỹ Giáp Văn Thạch, từ năm 1984 đã phổ nhạc thành ca khúc “Quê hương” làm cho bài thơ “Bài học đầu cho con” bay lên. Cảm ơn nhiều thế hệ ca sỹ đã hát ca khúc thành công, lan tỏa tình yêu quê hương trong hơn 35 năm qua.
Tôi nghe lại ca khúc “Quê hương” sau khi xem xong bộ phim phóng sự tài liệu “Ranh giới” của Đài Truyền hình Việt Nam. Không riêng tôi, rất đông người đã xem, dẫu ai đó có trái tim “sắt đá”, cũng đều bị sốc. Những thước phim về ranh giới sinh tử, giữa sự sống và cái chết ở Khu K1 - Bệnh viện Hùng Vương, điều trị sản phụ mắc Covid-19, thực sự ám ảnh.
“Ranh giới” khiến khán giả khó cầm nước mắt với những điều đang xảy ra với bệnh nhân và cả đội ngũ y bác sĩ. Các thầy thuốc đang từng giây, từng phút vượt khó, hy sinh quên mình vì sự sống của các thai phụ và thai nhi. Trong khi đất nước đang gồng mình chống chọi với đại dịch khủng khiếp Covid-19, “Ranh giới” cho người xem góc nhìn chân thực về sự khốc liệt. Bài học của “Ranh giới” là bài học thức tỉnh nhiều mặt. Trước hết, đó là tri ân sự hy sinh của đội ngũ y, bác sỹ ở tuyến đầu và lực lượng quân đội, công an... đang ngày đêm căng mình chống dịch; thứ đến là biết quý trọng bản thân và những gì đang có; và nữa là sự tử tế, yêu thương con người (vốn đã và đang thiếu thốn trong cuộc sống thực dụng hôm nay).
Sau những câu nói “Việc của em là thở thôi. Hãy cố thở cho mình và thở cho con”, “Em còn được ngồi, chị có được ngồi đâu. Bây giờ là 2 giờ sáng rồi”, “Ráng thở đi”... là niềm vui của y bác sỹ đang chống lại “tử thần” giành được sự sống cho bệnh nhân. Ngược lại là ánh mắt thất thần của họ khi một bệnh nhân tử vong... Tôi nhận ra một thông điệp khác. Tôi không cố ép suy nghĩ “vào khuôn”, nhưng những thầy thuốc đang chiến đấu với “tử thần” Sars-CoV-2, thực sự họ yêu thương các sản phụ, yêu những mầm sống trong cơ thể người mẹ bị nhiễm Sars-CoV-2. Đối với họ, đó là tình yêu đồng bào, yêu Tổ quốc mình.
***
Từ khi “làn sóng thứ nhất” Covid-19 xâm nhập vào Việt Nam, tôi theo dõi thường xuyên các sự kiện. Trước hết, do phận sự của người làm báo, viết mảng thời luận. Giai đoạn đó, không ai yên được khi hàng ngày thấy báo chí đưa tin các vụ việc về những kẻ hám lợi “cõng rắn cắn gà nhà”, đưa rước người vượt biên trái phép ở các tuyến biên giới trên bộ. Giai đoạn đó và cho đến bây giờ vẫn còn những kẻ trốn tránh khai bao y tế, lợi dụng “luồng xanh” để chở người trái phép... Thậm chí, chống người thi hành công vụ. Chính họ, có thể làm đổ vỡ cố gắng của cộng đồng trước hiểm họa Covid-19. Họ chưa được giác ngộ về “chung sức đồng lòng”.
Nguy hiểm không kém trên không gian mạng là tin giả (fake news). Theo tổng kết của nhà văn Trịnh Đình Nghi, fake news trong bốn giai đoạn chống dịch có hai nhóm. Nhóm một, tỏ ra tinh hoa, cấp tiến hăng say “chém”. Hàng ngày “lướt Fb”, tôi nhận ra, đúng là có loại này. Họ viết stt (dòng trạng thái) như đúng rồi, nhân danh “hiểu biết” phán phải thế nọ, thế kia từ khoanh vùng, truy vết, “Chiến lược Vaccine” đến “đi chợ hộ”. Vừa lập lờ, vừa công khai tấn công vào sự điều hành của Chính phủ. Họ lợi dụng nhiều hoàn cảnh, từ người về quê tự phát, từ thực hiện giãn cách, từ “giấy đi đường”, “vùng đỏ, vùng da cam, vùng xanh”... để “dạy dỗ”. Nhóm thứ hai là “bồ tát mạng” dạy “đạo đức” nhưng thực tế giả nhân, giả nghĩa. Tôi đồng ý với “tổng kết” của nhà văn Trịnh Đình Nghi.
Theo tôi, còn có nhóm thứ ba, đông hơn, là số người vô cảm. Tôi nhận diện ra họ qua các stt (dòng trạng thái), cmt (bình luận) như người “ngoài cuộc”, coi việc chống dịch là việc của ai, không liên quan đến mình? Họ không muốn hiểu về trách nhiệm và nghĩa vụ công dân, trách nhiệm xã hội với cộng đồng.
Để góp phần chống Covid-19, chúng ta từng chứng kiến nhiều bà mẹ dẫu nghèo vẫn vét từng đồng xu mình có được trao gửi các Trung tâm cách ly ở các địa phương. Nhiều em bé từng chân đất theo cha, theo anh vào rừng đào măng, đẵn chuối... về làm thực phẩm chế biến gửi vào cho bà con TP. Hồ Chí Minh những ngày giãn cách. Chắc chắn, đó là Bài học đầu cho con, là tình yêu đồng loại. Đó là khái niệm về Tổ quốc, cụ thể, gần gũi.
***
Là người quan sát thời cuộc, tôi để ý đến cả kinh nghiệm chống Covid-19 của quốc tế. Tôi ấn tượng với cách làm của Đan Mạch. Đầu tháng 3-2020, khi Covid-19 lây lan ra toàn thế giới, Đan Mạch xác định đây là “căn bệnh đe dọa xã hội nghiêm trọng”, nên là một trong những nước châu Âu đầu tiên ban lệnh phong tỏa, áp đặt các biện pháp hạn chế vào cùng ngày Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) tuyên bố Covid-19 là đại dịch toàn cầu.
Ngoài việc Đan Mạch là một trong những nước có tỷ lệ xét nghiệm nCoV trên đầu người cao nhất toàn cầu, công tác tiêm chủng Covid-19 được tiến hành vô cùng nhanh chóng, tôi để ý yếu tố chủ chốt giúp Đan Mạch ứng phó đại dịch, triển khai các chính sách một cách hiệu quả là lòng tin vào Chính phủ. Các “thuyết âm mưu” về Covid-19, hoặc tâm lý bất an vì cách xử lý khủng hoảng, fake news... không tồn tại ở quốc gia Bắc Âu này.
Khi đại dịch mới bùng phát, chỉ một ngày sau khi Thủ tướng Đan Mạch, bà Frederiksen, ban hành lệnh đóng cửa toàn bộ trường học, tất cả các trường đều không còn bóng người, dù 4 ngày sau quy định mới có hiệu lực. Người Đan Mạch rất tuân thủ các biện pháp giãn cách xã hội. Có nghĩa sự đồng thuận gần như tuyệt đối. Đây là một trong những nguyên nhân giúp Đan Mạch dỡ bỏ toàn bộ biện pháp phòng chống Covid-19 vào ngày 10-9, tuyên bố đại dịch “không còn là mối đe dọa nghiêm trọng với xã hội”.
Mọi sự việc trên đời này cần độ lùi của thời gian để đánh giá nhưng tôi dám chắc rằng, lịch sử loài người sẽ xem “cuộc chiến” chống Covid-19 làm cho thế giới xác xơ trong hai năm qua, không khác gì chiến tranh thế giới từng xảy ra. Đã từ lâu thế giới đã đặt ra những thách thức “phi truyền thống”. Đó chính là thiên tai, dịch bệnh...như Covid-19 mà loài người đang chứng kiến.
***
Phải thừa nhận rằng khác với tất cả các “thảm họa” do dịch bệnh gây ra trong lịch sử, những thông tin, tri thức khoa học của nhân loại nói chung về dịch bệnh do virus SARS-CoV-2 gây ra còn rất hạn chế. Dù là nhà tiên tri cũng không thể dự báo được đầy đủ, chính xác về diễn tiến của dịch bệnh. Điều ấy đồng nghĩa với việc rất khó có thể xây dựng một kế hoạch hoàn chỉnh “từ đầu chí cuối”, đáp ứng đầy đủ mọi yêu cầu khác nhau trong việc vừa tổ chức phòng chống dịch bệnh, vừa đưa cuộc sống dần đi vào trạng thái ổn định mới. Cuộc chiến chống Covid-19 hoàn toàn chưa có tiền lệ trong lịch sử. Nhìn rộng ra toàn cầu sẽ thấy, cả thế giới bị động, lúng túng chứ không riêng quốc gia nào.
Để thắng từng trận, tiến tới thắng toàn cuộc với “kẻ thù chung” là Sars-CoV-2, nhân loại phải có lòng tin, kiên trì và đoàn kết. Trong mỗi quốc gia cũng phải như vậy.
Nhà văn Ilya Ehrenburg (Nga) có câu nói nổi tiếng: “Dòng suối đổ vào sông, sông đổ vào dải trường giang Volga, con sông Volga đi ra bể. Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc”. Đó chính là khái niệm về Tổ quốc. Vì tình yêu ấy, biết bao thế hệ người Việt đã dâng hiến cả cuộc đời mình. Đó là động lực tạo nên sức mạnh cho những thầy thuốc đang ngày đêm căng mình trên tuyến đầu chống dịch Covid-19 mà những gương mặt trong phim phóng sự tư liệu “Ranh giới” là đại diện.
Tổ quốc đối với họ là từng sản phụ vượt qua “cửa tử”, được nghe tiếng khóc của các các cháu chào đời, dẫu người mẹ tiếp tục phải điều trị Covid-19. Đó là tiếng khóc của hy vọng, của an bình và phồn sinh đất nước, trong những ngày tháng cam go, thử thách.
Bài viết về ông Hai Khuyên, người tu sĩ đạt đạo tối giản thân tâm.
Tối giản tâm thân giữa mùa dịch
Cuộc đời thanh thản mà muông thú cũng thân thiện, hoa cỏ cũng đón chào. Những câu chuyện về đạo hạnh của một con người sống lặng lẽ được truyền lại.
Người thầy dạy thuốc cho tôi nói “Hãy viết về ông Hai, một người có một không hai”. Ông khác ở cuộc đời này là gì? “Ông ấy sống qua ba chế độ, qua bao nhiêu cuộc chiến, bao cuộc bệnh tật đói no, đều không xài tiền”.
Một người thầy tôn kính khác của tôi lại kể về thời thầy còn trẻ đi tầm đạo nghe đồn ông Hai Khuyên rất minh triết cũng có tìm đến thăm ông. “Hỏi gì ông trả lời cũng thông suốt, ai chê ông sai ông không hề giận hờn hay đôi co, ai khen ông nói đúng ông cũng không hề mừng vui săn đón”.
Một người bạn vong niên rất đáng tin cậy cũng từng nghe đồn rồi tìm đến ông Hai. “Chỉ cần nhìn thấy bác Hai thôi là mình đã muốn ở hiền rồi”.
Cốc ông Hai nằm sâu sau những mảnh vườn. Một cuộc sống rút sâu trong hậu cứ.
Chú Tư, người đã hiến miếng đất này để ông Hai cất cái cốc lá tu hành ngồi rỉ rả kể chuyện ông Hai:
- Năm đó tôi hai mươi bảy tuổi, làm ăn khấm khá nên mua được ba công đất. Tôi nới với ba tôi thôi mình rước bác hai về đây tu. Ông già đi tu khắp nơi. Ông đâu có đất nên tới chỗ nào cất cái cốc nhỏ nhỏ rồi tu. Xung quanh có đất đai gì ông cũng trồng trọt. Trồng vậy đó ai ăn thì ăn, con gì ăn thì ăn. Đói thì ông đi kiếm rau dại về luộc cho qua bữa. Ông không bao giờ kể cho mọi người nghe mình no đói vui buồn thế nào. Cha con tôi thì hay để ý hỏi han nên biết, nên hay đem gạo cho ông nấu cơm. Cho gạo đều đều nhưng lâu lâu giở hủ gạo lại thấy hủ trống không, nồi thì không cơm mà chỉ toàn rau luộc. Hỏi ra mới biết có mấy người giăng câu gặp trời mưa gió nên ghé cốc đục mưa. Họ than mưa gió không có tiền mua gạo cho bầy con ở nhà. Vậy là bác Hai vét hết gạo chia cho họ. Đói thì ăn rau luộc.
- Giữa bao nhiêu người tu như vậy, sao một người trẻ tuổi, người dưng nước lã, mới tích cóp được ba công đất chú lại nghĩ tới chuyện cắt đất cất nhà cho ông Hai tu hành.
- Bác Hai tu mà không phải cầu cạnh mình kiếp sau giàu, kiếp sau sướng. Tu để không bị vướng vô vòng giành giật mạng sống kẻ khác để vun bồi mạng sống của mình. Cô nghĩ coi, một thân một mình không lận lưng bất cứ đồng bạc nào hộ thân, mấy chục năm ở đây hoặc ở nơi thâm sơn cùng cốc như hòn Sơn bác Hai sống như thế nào? Người hiền như vậy mình không bảo vệ họ thì trên đời này còn đâu nữa người hiền.
- Vì sao ông Hai không xài tiền? Những đồng tiền lương thiện cũng đâu có hại ai.
- Còn tích lũy tiền bạc hộ thân là còn sợ mình đói khổ. Khi còn sợ đói khổ thì đầu óc mình còn mê muội, tích lũy bao nhiêu cũng thấy thiếu, thậm chí tích lũy cho kiếp này còn tích lũy cho kiếp sau. Khi bác Hai muốn mình thong dong tâm trí để nhận rõ trắng đen nên không để tâm gìn giữ bất cứ món gì kể cả mạng sống của mình.
Ông Hai tối giản cuộc đời mình để thong dong. Tầm đạo cả đời và ngộ đạo từ một lần bị ngược đãi.
Lúc đó, ở quê nhà khó tu vì người ngưỡng mộ ông quá nhiều, họ đồn đãi nhau rồi kéo nhau đến chỗ ông rất ồn ào dù ông chưa hoàn toàn đắc đạo. Ông thấy không ổn nên bỏ xứ ra tận hòn Sơn để tu tâm luyện trí một mình. Chốn thâm sơn cùng cốc, ông lặng thầm trồng trọt và vui thú với rau cỏ núi non. Trước cốc, ông trồng một cây mít, lâu lắm cây mới ra được một trái. Cả vườn chỉ có một cây mít có một trái đầu tiên. Có người tìm tới xin ông trái mít. Hẳn nhiên ông từ chối. Khi ông vào nhà trở ra thì trái mít không còn mà cây mít cũng đã bị bứng tận gốc từ lúc nào.
Ông không nhìn thấy trong câu chuyện là một người vãng lai độc ác ăn trái nhổ cả gốc. Ông nhìn thấy nơi đó là một bài học thử thách sự buông bỏ của người tu. Tiếc một trái mít chẳng qua là tiếc một miếng ăn để duy trì cuộc sống mà bản thân ông cho là phù du tạm bợ.
“Không có cái gì là của mình kể cả xác thân này”. Tôi cũng đã nghe nhiều người nói câu này nhưng tôi không tin bởi họ còn sợ nhiều thứ. Có người sợ mình chết phải đầu thai thành người không biết tu. Có người sợ bệnh tật. Có người sợ con cháu mình không biết tu sẽ khổ nên ép nó tu. Có người sợ dân chúng không biết tu sẽ khổ nên ép dân chúng tu. Và tất cả đều sợ chết.
Những cái sợ tưởng rất lương thiện đó đã khiến cho con người hiền nhất cũng phải tối tăm mày mặt để hóa giải nỗi sợ nhưng thật ra là làm nỗi sợ bành trướng lớn lao hơn. Càng hóa giải con người càng bị kiệt sức, sa vào bệnh tật và bệnh tật sẽ tước đoạt mọi dũng khí và rồi cái sợ lúc này điều khiển tâm trí con người.
Ông Hai nhận ra ánh sáng của sự sống nó nằm ở chỗ để không sợ gì cả thì phải không sở hữu gì cả, cả thân xác do mình mang kể cả những uy tín do mình bỏ tiền bỏ bỏ công sức mua lấy vun bồi. Khi mình không sở hữu gì hết nên mình không sợ mất gì hết, ai lấy cũng được, ai nặng nhẹ cũng chẳng buồn. Ông cứ cặm cụi làm việc. Thành quả làm ra ai ăn hết không buồn, ai chừa lại cũng không vui. Người ta không thấy ông bị suy dinh dưỡng vì những bữa rau. Người ta không thấy ông bị khờ đi vì một mình cắm cúi trong chốn hẻo lánh thiếu hơi người. Thậm chí hỏi bất cứ điều gì về cuộc sống về đạo lý ông đều trả lời thông suốt hợp tình như một người từng đọc nhiều sách thánh hiền. Ông có biết chữ nào đâu mà đọc sách.
Tri thức ông có được từ đâu?
Những đứa trẻ thần đồng, tri thức có được từ đâu? Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm tri thức có được từ đâu bởi người ta không nói ông được thông minh nhờ những bật thầy nào cả? Vốn dĩ mọi thứ có sẵn trong mưa gió nắng nôi, có sẵn trong sự sống sự chết mà mỗi con người đã trải qua. Những con người cô độc họ không trò chuyện bởi ngôn ngữ loài người quy ước mà trò chuyện bởi ngôn do tạo hóa quy ước. Bài học vô ngôn tạo hóa rải đầy khắp nơi từ chốn cao sang lẫn chốn thấp hèn, từ con người nhiều lý luận cho tới những con kiến, con sâu, con vi rút chỉ biết sống lặng thầm.
Nhìn cuộc đời ông Hai tôi nhớ về muôn dặm không mây. Trần Huyền Trang muốn có bài học giải thoát của đức Như Lai phải trải qua bao nhiêu đồi núi với những hiểm nguy trùng trùng điệp điệp. Một ông Hai cũng muôn dặm không mây nhưng ông không kể lại. Khi nhìn thấy hàng chục ngàn con chim yến đổ về sinh sống cạnh ông người ta nói nó là loài chim đến từ hòn Sơn, chỉ có chúng nó chứng kiến hành trình đơn độc, khổ hạnh mà ông không một lần kể lại. Cuộc đời thanh thản mà muôn thú cũng thân thiện, hoa cỏ cũng đón chào. Những câu chuyện về đạo hạnh của một con người sống lặng lẽ được truyền lại. Để rồi chẳng có một đồng một cắc nào để lại làm của hương hỏa cho đời sau nhưng ngày giỗ của ông trăm hoa đua nở, hàng mấy trăm người cứ quây quần cúng bái như đám giỗ người thầy tổ của mình.
Dịch bệnh nhìn đâu cũng thấy những ẩn ức, nhìn đâu cũng thấy những thân phận. Chiến đấu với dịch bệnh nhiều khi không đáng sợ bằng chiến đấu với những đòi hỏi của những thói quen. Trốn làm sao khi dòng sống cứ cuộn trào cứ không ngừng đòi hỏi. Ngồi nghĩ về tối giản của đời người để con vật sống trong lòng mỗi người chịu lắng lòng tối giản. Tối giản một cách tuyệt đối để người người đều như ông hai Khuyên thì cuộc đời này là không tưởng. Bởi tạo hóa thích phong phú mà người sinh ra chính cuộc tham sân si để đẩy con người mải miết với những cuộc khám phá không ngừng. Nhưng khi lực bất tòng tâm, như cây bồ đề mọc trên vách đá gặp mùa hạn hán thì nó cũng đã phải dừng lại cuộc sinh sản của mình, trút bỏ hết những chồi xanh lộc biết thu gọn sức sống nén chặt giữa thân cây rồi ngủ vùi mà chờ đợi.
Chúng ta giữa mùa đại dịch tối tăm này, phải dừng lại nhìn một tấm gương tối giản tuyệt đối để tối giản thân tâm, tối giản luôn cả nỗi sợ của mình, bình tâm thu hẹp dần sự sống như cội bồ đề giữa mùa hạn lớn. Bình tâm là đề kháng và đề kháng là chiến thắng sau cùng giữa mùa đại dịch. #tanvanvodieuthanh