Thứ Sáu, 28 tháng 8, 2020

THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG THƠ VIỆT NAM SAU 1975 - PHẠM QUỐC CA

 THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG THƠ VIỆT NAM SAU 1975

Một trong những phương diện quan trọng của thi pháp học là nghiên cứu thời gian nghệ thuật. Bên cạnh việc miêu tả thời gian phải lý giải được nhà văn đã bộc lộ cách nhìn, cách cảm như thế nào về cuộc đời và chỉ ra quan niệm nghệ thuật về thế giới độc đáo của từng nhà văn. Do hoàn cảnh xã hội, tư tưởng thẩm mỹ, mỗi thời đại văn học còn có những quan niệm chung có tính chất đặc trưng.
Về thời gian nghệ thuật trong văn học hiện đại, Trần Đình Sử đã có những nhận xét xác đáng: “Văn học thế kỷ XX đã phong phú lên với nhiều hình thức thời gian nghệ thuật mới gắn liền với tư duy liên tưởng chiều sâu văn hoá và ý thức về quá trình lịch sử sôi động của thế kỷ chúng ta trên lĩnh vực cách mạng xã hội và khoa học kỹ thuật. Chẳng hạn sự xáo trộn các bình diện thời gian, tăng cường vai trò của thời gian hồi tưởng và thời gian tâm lý, sự mở rộng khái niệm thời gian lịch sử”( Văn học và thời gian, Nxb Văn học , H.2001).
Sau 1975 do hoàn cảnh sống và ý thức thẩm mỹ, các nhà thơ Việt Nam đã có sự đổi mới quan niệm nghệ thuật về thời gian. Nổi bật lên trong thơ là các loại thời gian nghệ thuật như sau.
Thời gian lịch sử
Đây là kiểu thời gian nghệ thuật rất đặc trưng trong thơ Cách mạng. Trong thơ sau 1975 thời gian lịch sử mang nét mới là thường gắn liền với thời gian đời tư. Tố Hữu trong bài thơ “Một nhành xuân” đã trình bày thời gian lịch sử rất gần với thời gian của đời mình: “Năm 20 của thế kỷ XX /Tôi sinh ra. Nhưng chưa được làm người/Nước đã mất, cha đã làm nô lệ /Ôi nhưng ngày xưa mưa xứ Huế / Mưa sao buồn vậy quê hương ơi”. Sự cảm nhận thời gian lịch sử gắn với thời gian đời tư làm cho các trường ca xuất hiện sau 1975 nghiêng về phía trữ tình.“Những người đi tới biển” của Thanh Thảo , “Đường tới thành phố” của Hữu Thỉnh là những thí dụ tiêu biểu.
Thời gian lịch sử ở thì quá khứ được tái hiện không chỉ đầy ắp sự kiện hào hùng “Lừng lững thác đèn chiến dịch” (Hữu Thỉnh) mà còn gắn với những hy sinh, mất mát không thể tính đếm hết của nhân dân. Gắn với thời gian quá khứ là hình ảnh những người mẹ “Mấy cuộc chiến tranh / Mẹ gánh cùng một lúc”. Những người chị “đợi chờ quay mặt vào đêm/ Một mình một mâm cơm /Ngồi bên nào cũng lệch / Chị chôn tuổi thanh xuân trong má lúm đồng tiền”(Đường tới thành phố-Hữu Thỉnh).
Quá khứ kháng chiến gian khổ, được thể hiện một cách thấm thía bằng trải nghiệm cá nhân: “Những năm/Chiếc áo dính chặt vào thân bạc màu ngắn nhanh rồi rách/Những năm / Một chiếc áo có thể sống lâu hơn một cuộc đời”(Những người đi tới biển- Thanh Thảo).
Quá khứ lịch sử đã kết đọng thành văn hoá để con người hôm nay sống có ý nghĩa hơn : “Tôi xin nhắc tháng ngày gian khổ ấy /Đã thành sao lặng lẽ sáng trong tôi” (Ý Nhi). Quá khứ do vậy có ý nghĩa thanh lọc sâu sắc, tạo nên phần trong sáng, khoẻ khoắn của cái tôi trữ tình.
Nếu quá khứ thường gắn với hy sinh mất mát thì tương lai thắng lợi được biểu trưng bằng những mùa hoa quả. Tư duy nghệ thuật như vậy mang đậm dấu ấn làng quê: “Chị vẫn tin chữ hợp cuối trang Kiều /Hoa nở hai lần hoa có hậu/Chị vẫn tin cỏ mùa thu xanh đều cho cuốc kêu tháng sáu / Vẫn tin có ngày hái quả cho anh” (Hữu Thỉnh).
Ở thì hiện tại thời gian trong thơ cách mạng thường được cảm nhận bằng cảm quan sử thi. Mười năm sau chiến tranh, con người vẫn sống trong dư âm của lối sống cộng đồng “cả đất nước có chung một tâm hồn, có chung một gương mặt”. Về căn bản thời gian trong thơ vẫn được cảm nhận là thời gian lịch sử dân tộc, thời gian được vẫy gọi bởi tương lai: “Ta sống thật đây gian khổ đêm ngày/ Mà cứ tưởng bay trong mơ ước / Bữa cơm ít cá nhiều rau/ Mà ngăn sông làm điện khoan biển làm dầu / Chân dép lốp /Mà lên tàu vũ trụ”(Tố Hữu).
Ở giai đoạn 1975 -1985 có một độ chênh khá lớn giữa hiện thực đời sống khắc nghiệt sau chiến tranh và nền thơ tiếp tục âm hưởng sử thi. Hiện tại đã trở về trạng thái bình thường, hàng ngày nhưng thơ thì vẫn say sưa với cảm hứng sử thi. Cuộc sống trì trệ trong đói nghèo, lạc hậu nhưng thời gian sử thi trong thơ vẫn đi những bước của người khổng lồ chỉ có trong thần thoại: “Thời gian không đợi / Cả trời đất vào xuân cùng ta đồng khởi / Cho những mùa gặt lớn mai sau…” (Tố Hữu). Song song với thực trạng đó trong thơ đã diễn ra một sự chuyển biến: tính chất sử thi nhạt dần, xuất hiện sự đối thoại với sử thi và từng bước sống lại thơ trữ tình cá nhân. Cá nhân đã trở thành điểm nhìn có tính chất chi phối quan niệm nghệ thuật về con người và thế giới. Thời gian đời tư, phi sử thi dần chiếm được sự quan tâm của các nhà thơ và bạn đọc.
Thời gian hiện tại
Nếu như trong thơ trước 1975 thời gian lịch sử chiếm vị trí chủ đạo, thể hiện quan điểm triết học về sự phát triển thì trong thơ giai đoạn Đổi mới thời gian là thời gian của đời người, thời gian thấm đẫm tâm trạng cá nhân. Con người không còn cảm giác bình yên trong quan niệm về thời gian vĩnh hằng gắn với sự trường tồn của non sông đất nước.
Với lối sống đô thị hiện đại thời gian đã được cảm nhận theo một cách khác, đậm tính cá nhân. Con người có ý thức sâu sắc về từng giây phút hiện sinh: “Có lẽ anh chỉ là một đồng hồ sinh học của anh. Bằng đồng hồ ấy anh đo được những tốc độ chóng mặt nhất và những khoảng ngưng lặng sâu thẳm nhất” (Khối vuông Rubic – Thanh Thảo).
Trong cuộc sống cá nhân, thời gian là một vấn đề triết học sâu thẳm mà con người phải đối diện. Thời gian đã trở thành nỗi ám ảnh trong thơ của nhiều thi sĩ Thơ mới (1932- 1945). Xuân Diệu đã cảm nhận buốt nhói cảm giác hiện sinh : “Còn trời đất nhưng chẳng còn ta mãi /Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời” (Vội vàng). Trong thơ sau 1975 ta gặp lại môtip về sự ám ảnh của thời gian, với tính chất là một thứ quỹ- quỹ thời gian của một đời người: “Thời gian sao mà xuẩn ngốc /Mới thôi đã một đời người” (Hoàng Phủ Ngọc Tường).
Đó là thứ thời gian một đi không trở lại của kiếp người, khách quan, vô tình đến khắc nghiệt: “Ta là ai?.../ Ta chưa kịp trả lời / Thì sông đã cuốn ta vào bóng tối / Cậu bé chơi tùng dinh chợt già trăm tuổi / Câu hỏi bé thơ miệng huyệt trả lời”( Hỏi? Đáp? -Chế Lan Viên).
Ý thức về thời gian đã làm cho nhiều bài thơ có sức ám ảnh (Trong đêm- Chu Thăng, Bài thơ thời gian – Lê Quốc Hán, Một mình – Trương Ngọc Lan…). Trước sự trôi đi vô tình của thời gian như nước xiết, trước 1945 Xuân Diệu đã đề xuất lối sống “Vội vàng” tận hưởng hương sắc cuộc đời, sống mãnh liệt từng giây phút hiện sinh: “Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối / Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm”.
Vào những năm tám mươi, Chế Lan Viên đã thể hiện một cái nhìn minh triết về thời gian, về cái chết. Ông chống lại sự trôi chảy về phía hư vô của thời gian bằng lao động sáng tạo: “Gió thổi mây bay bất trắc / Lúc nào mà không tử biệt sinh ly /Lúc nào cũng có thể thành Hàn Mặc Tử, Bích Khuê /Phải tranh thủ làm thơ giữa hai chớp mắt”.
“ Từ thế chi ca” là một trong những bài thơ hay về chủ đề cái chết trong thơ. Nổi bật lên là một thái độ minh triết đậm sắc thái phương Đông trước lẽ sinh tử của đời người: “Anh không ở lại yêu hoa mãi được / Thiêu xong anh về trời khác cũng đầy hoa / Chỉ tiếc không có tình yêu ở đó /… Anh tồn tại mãi /Không bằng tuổi tên /Mà như tro bụi / Như ngọn cỏ tàn đến tiết lại trồi lên”.
Không phải nhà thơ nào cũng có được thái độ như thế trước thời gian, trước cái chết. Phổ biến trong thơ là tâm trạng trăn trở, day dứt, xót xa trước việc thời gian đang rời bỏ từng giây, cuộc đời như chớp mắt, như chiêm bao: “Tuổi già xồng xộc đến/ Giấc ngủ bò như sên /Vắt tay nhàu cả trán /Tóc bạc trắng cả đêm”(Trong đêm – Chu Thăng).
Nhìn chung trong thơ giai đoạn Đổi mới thời gian đồng nghĩa với tàn phai nhanh chóng: “Tóc xanh vừa lỗi lời thề / Thoắt thành mây trắng cuối hè bay ngang / Ngu ngơ chạm phải ao làng / Sen chưa kịp hái đã tàn trên tay” (Thời gian - Lê Quốc Hán). Thời gian không còn mang nghĩa “bồi đắp”, “lớn lên” như trong thơ Cách mạng:“Nhiều đấy ư em? Mấy tuổi rồi?/ - Hai mươi! Ừ nhỉ tháng năm trôi / Sóng bồi thêm bãi thuyền thêm bến/ Gió lộng đường khơi, rộng đất trời”(Mẹ Tơm – Tố Hữu).
Qua một số so sánh chúng tôi thấy thời gian đời tư trong thơ hôm nay gần như đối lập với thời gian trong thơ Cách mạng và có sự gần gũi về cảm quan với Thơ mới (1932-1945).
Thời gian hoài niệm
Đây là kiểu thời gian nghệ thuật có trong thơ của mọi thời. Cơ sở của nó là một nét tâm lí chung nằm trong bản tính người. Nhân loại dường như có chung một đặc điểm là đi giật lùi tới tương lai. Quá khứ giống như “thiên đường đã mất” mặc dù sự thật không hẳn như vậy. Đáng suy nghĩ là quan niệm thời gian của Nho giáo. Xã hội lý tưởng đối với Nho giáo là xã hội cổ đại thời Nghiêu Thuấn. Quan niệm đó để lại dấu ấn trong ngôn ngữ Hán. Người Trung Hoa xưa gọi các thế hệ đã qua là “tiền nhân” (người đi trước). Quan niệm cho rằng cuộc sống loài người ngày càng tha hóa là chung cho cả phương Đông và Phương Tây.
Hoài niệm trong thơ Trung đại thường là hoài niệm về “tiền nhân”, “tiền triều” với tư cách là những gương mẫu về cuộc sống thịnh trị, về đạo đức. Hoài niệm trong Thơ mới là hoài niệm về một thời con người còn sống hòa hợp với thiên nhiên:“Ai có nhớ một thời hương phảng phất /Hạc theo trăng, tiên ở lẫn với người” (Xuân Diệu), hoặc là quá khứ bi tráng, “huy hoàng của Á Châu”, của những triều đại đã xa trong lịch sử dân tộc, đối lập với hiện thực tầm thường, tù hãm. Thời gian hoài niệm trong thơ trước 1975 hoặc là quá khứ mang truyền thống yêu nước và cách mạng, hoặc là quá khứ đau thương của cuộc đời cũ. Thời gian hoài niệm trong thơ sau 1975 với phương thức trữ tình cá nhân thường gắn với tuổi thơ và làng quê là những nơi mà con người dù nghèo cực được sống trong không gian đầy bóng mát của thiên nhiên, sự ấm áp của tình người và sự êm ái của niềm vui cộng cảm văn hoá truyền thống. Ở đây ta gặp lại tình huống tâm lý đã xảy ra với các nhà Thơ mới. Đô thị hiện đại vừa có sức hấp dẫn các nhà thơ Việt Nam vốn có căn cốt nông dân vừa làm họ chán ghét bởi lối sống thị dân, bởi sự căng thẳng trong lối sống cạnh tranh, phiền phức… Nguyễn Bính là người đã diễn tả rất hay tính lưỡng phân trong tâm trạng con người thời Thơ mới. Thơ ông đi về giữa hai bờ nông thôn và thành thị và dường như tất cả tình cảm của ông đều dành cho làng quê đang bị thành thị “xâm lăng” về văn hoá.
Các nhà thơ đương đại sống với thời gian hoài niệm như một nhu cầu tinh thần: tìm lại bình yêu cho tâm hồn. Ghi dấu ấn đậm nét nhất về thời gian hoài niệm là thơ Nguyễn Duy những năm tám mươi. Có thể tìm thấy trong thơ anh những nét điển hình tâm trạng của con người làng quê đang chuyển thành con người đô thị hiện đại. Một mặt, anh muốn sống với hiện tại và tham gia giải quyết những vấn đề lớn lao trong đổi mới tư duy, về hiện đại hóa đất nước (tiêu biểu là tiếng nói trữ tình công dân trong bài thơ dài “Đánh thức tiềm lực”).Trong thơ anh có những câu khá vô tình về làng quê: “Tôi trót sinh ra nơi làng quê nghèo / Quen cái thói hay nói về gian khổ…”
Mặt khác, con người mang “dấu ruộng”, “dấu vườn” trong thơ anh không nguôi nhớ về tuổi thơ và làng quê nghèo : “Tuổi thơ tôi bát ngát cánh đồng / Cỏ và lúa, và hoa hoang cỏ dại /Vỏ ốc trắng những luống cày phơi ải / Buốt nhức bàn chân phì phọp thở trong bùn”(Tuổi thơ).
Hoài niệm trong thơ anh làm xúc động người đọc bởi sự chân thực. Đó là tuổi thơ “Áo nâu, chân đất / Bữa cháo, bữa khoai / Đi cày và đi học / Bụng cồn cào, con chữ chạy xiêu xiêu” (Gửi về Lam Sơn). Với tính chân thực trong việc xây dựng hình tượng người mẹ (Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa), người bà (Đò Lèn) Nguyễn Duy đã có đóng góp tích cực vào xu hướng “giải cổ tích”, “giải huyền thoại” trong cái nhìn cuộc sống và con người: “Mẹ ta không có yếm đào/ Nón mê thay nón quai thao đội đầu/Ríu ran tay bí tay bầu /Váy nhuộm bùn, áo nhuộm nâu bốn mùa”.
Gắn với thời gian hoài niệm còn có nhiều bài thơ xúc động về người thân trong gia đình (Khóc giữa chiêm bao – Vương Trọng, Chị – Võ Văn Trực, Mẹ và quả – Nguyễn Khoa Điềm, Nhớ cha – Vũ Đình Minh, Qua hàng trầu vỏ – Nguyễn Thị Mai…). Không tô vẽ theo cảm hứng tụng ca lãng mạn, số phận của họ là số phận đích thực của nhân dân trong cuộc sống đời thường.
Trong hoài niệm về làng quê ở một số tác giả như Nguyễn Duy, Nguyễn Quang Thiều, Phạm Công Trứ… chúng ta như thấy một cố gắng “nối mạch” với hồn quê, với văn hóa dân gian để làm điểm tựa tinh thần, làm đối trọng với mặt trái của cuộc sống đô thị hiện đại có nguy cơ làm mai một nhân tính.
Một khi thế giới và con người được cảm nhận bằng cái tôi cá nhân thì tương lai đồng nghĩa với “tuổi già xồng xộc đến” (Chu Thăng), và sẽ đưa người ta đến “xứ không màu” (Chế LanViên). Kinh nghiệm của thế kỷ XX cho thấy tương lai không chỉ tươi sáng mà còn đầy hiểm họa. Kho vũ khí hạt nhân, sự mất cân bằng sinh thái, các loại bệnh tật vô phương cứu chữa… đang đặt tương lai loài người trước những dấu hỏi. Có lẽ vì thế mà thơ sau 1975 ít đề cập đến thì tương lai chăng?.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

BÀI MỚI ĐẮNG

Truyện ngắn: BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN _ NGUYỄN HẢI ĐĂNG

Bên cánh gà chánh điện phần 1 BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN Xe dừng lại với tiếng xột xoạt trên mặt đường, như bao chuyến xe đã ghé qua từ thuở ...