THƠ VÀ THẾ GIỚI THƠ NGUYỄN QUANG THIỀU
Lê Hoài Lương
1.Thơ là gì ?
Trong bài “Trong căn phòng của một người bại liệt” thay lời tựa cho tập thơ dài và trường ca “Dưới trăng và một bậc cửa” (NXB Hội Nhà Văn, 2020), nhà thơ Nguyễn Quang Thiều kể câu chuyện về người bà của mình, 4 năm ốm nằm liệt giường, người bà “nông dân không biết chữ, bắt đầu tự ý thức về mình”. Ý thức không phải từ học vấn mà nó “sinh ra từ sự biến mất của rất nhiều các hoạt động sống trước đó” (vì bà nằm liệt giường suốt thời gian dài). Bà “rất muốn được nhìn thấy chính gương mặt mình”, và đứa cháu nội 8 tuổi đã cầm mảnh gương bằng bàn tay giơ lên cho bà soi. “Bà tôi nhìn vào gương giống như một con bồ câu soi mình trong chậu nước. Tôi thấy bà tôi thích thú và kinh hãi. Tôi chắc chắn một điều: bà tôi- một người bại liệt- với bà tôi- người trong gương- không hề quen biết nhau. Bà tôi không hề công nhận mình trong cái bản sao ở không gian phẳng của mặt gương. Bà tôi đã đúng.” Và người bà đã tìm kiếm sự tồn tại của mình bằng cách nói lan man “đủ thứ chuyện từ sáng đến khi đi ngủ”. Vô vàn những câu chuyện không đầu không cuối, cả những điều thật kinh dị, của người mất hẳn cảm giác về thể xác, “cảm giác mình đã trở thành vô hình”. “Cùng lúc đó, nhà cửa, đường sá, cánh đồng, dòng sông, trâu bò và những người thân quen, những thứ mà trước đó ngày ngày bà tôi tiếp xúc, trò chuyện và chứng kiến đang có nguy cơ biến mất (không gặp lại) vĩnh viễn. Trong trạng thái sợ hãi ấy, giọng nói bà tôi cất lên. Giọng nói được cất lên không với ý thức là để lưu giữ những điều kia, mà cất lên như sự kêu cứu trong phút giây tuyệt vọng nhất rằng toàn bộ con người mình sẽ bị hủy hoại. Chính vì trạng thái đó mà những gì bà tôi hỏi, bà tôi kể hiện lên trong một hình ảnh, một sức sống, một khát vọng cuồng dại giống như một cơn hỏa hoạn khổng lồ.”
Câu chuyện về người bà vẫn tiếp tục nhiều năm sau này, khi bà đã mất đi, khi nhà thơ đứng im lặng một mình trong căn phòng của bà trước đây, khi cả những phụ vật khác đã thay đổi, đã không còn nữa. Nhà thơ vẫn thấy bà hiện hữu, “không phải hiện thực của thể xác mà là hiện thực của tinh thần bà tôi. Hiện thực của thể xác là một hiện thực bất động của đời sống. Nó giống như cái chết được băng hóa. Còn hiện thực của tinh thần thì luôn chuyển động và sinh nở, và biến ảo”.
Những chuyện ám ảnh, trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến đời sống của người bà qua cách nói lan man trong sự hãi sợ bị biến mất, nhà thơ nhìn thấy bà mình “đã dựng lên một cách sống động nhất lịch sử của mình”. Và ông cho rằng “nó giống như hiện thực một bài thơ”. “Và qua chính giọng nói ấy của bà tôi, tôi đã lưu giữ trọn vẹn những gì đã qua đời sống này ở làng quê của tôi. Một đời sống mà chẳng bao giờ mất đi như ta tưởng. Một đời sống làm chúng ta hình dung đầy đủ hơn về vũ trụ. Một đời sống đã hóa giải dục vọng của chúng ta. Nó đôi lúc mang đến cho tôi một cảm giác nếu tôi chém vào không gian một nhát dao thì ở đó một cái cây trong suốt bị đổ gục, một ngón tay trong suốt bị đứt lìa… Và điều kỳ diệu hơn, là trong thế giới trong suốt, hay trong cõi hư vô làm ta có thể chết vì khiếp sợ lại hiện lên một phong cảnh đầy đủ nhất. Phong cảnh ấy, đối với tôi, nó là một cõi. Cái cõi ta vừa làm đầy nó vừa không chiếm lấy dù chỉ là một điểm nhỏ nhất, mà chỉ có trí tưởng tượng kỳ diệu mới có thể lờ mờ nhận ra”.
Tôi đã cố gắng tóm lược bài viết cực hay của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều như một cách nêu các quan niệm của ông về thơ. Ở đó, nguồn cội của thơ- tức thơ được sinh ra như thế nào; hiện thực của bài thơ là “ảnh chiếu” khác- cái tinh thần, cái vọng âm sau bề mặt vật chất, chữ nghĩa; và chất liệu đời sống của thơ- cái mãi hiện tồn sống động chứ không thuần ký ức hay những phơi bày, cái có thể gắn kết con người bất chấp những khác biệt về văn hóa, địa lý.
Tất nhiên, đây là những quan niệm về thơ của Nguyễn Quang Thiều, và tôi thấy, nó nhất quán suốt hành trình thơ ông. Sẽ có vô vàn chủ kiến hoặc cảm nhận khác về thơ xưa nay, ở mọi nền thơ, không cần tranh biện. Tôi lược giải nơi phần đầu bài viết này như một cách tiếp cận thơ Nguyễn Quang Thiều của mình.
2.Thế giới thơ Nguyễn Quang Thiều:
Có lần gặp nhau tôi nêu nhận xét vui với ông rằng “Thế giới (thơ) của Nguyễn Quang Thiều là thế giới và Làng Chùa”. Ông gật đầu như một giao tiếp trong chuyện phiếm, đông người. Nhưng thực ra tôi có suy nghĩ nghiêm túc của mình, câu nói trên. Vấn đề không phải theo ý, có lần ông trả lời phỏng vấn rằng, trong các sáng tác của mình, hơn một nửa là viết về Làng Chùa, cái làng quê ông sinh ra và lớn lên, thuộc xã Sơn Công, Ứng Hòa, Hà Tây (cũ). Mà là, với thơ ông, cả thế giới có thể tương hợp để khu trú trong một Làng Chùa và ngược lại, mỗi chiếc lá, con trâu, con chim, bóng người trên đê, ánh trăng… nơi làng nhỏ quê ông có thể mênh mang cộng thông với thế giới, vũ trụ.
Ngồi chơi, kể về Làng Chùa của mình, Nguyễn Quang Thiều đọc thuộc lòng một đoạn trong hương ước làng: “Làng ta không phải là làng có trạng nguyên, bảng nhãn, nhưng là làng hiếu học từ ngàn xưa. Làng ta lấy đức làm gốc và lấy thơ để truyền đức. Vào những ngày lễ hội làng, người làng khác mổ trâu mổ bò, chơi cờ chơi bạc, nhưng làng ta thì đốt trầm để làm thơ. Mừng thay, mừng thay, mừng thay! Đất này sinh ra các thi sĩ!” Cổng Làng Chùa có khắc 4 chữ tự xa xưa: “Vọng tự nhập xuất”, tức, nhìn chữ để biết việc ra vào. Ông tin rằng tinh thần của hương ước và 4 chữ cổng làng đã biến ông thành nhà thơ.
Ai cũng có ngôi làng của mình. Nhiều người đã viết về nó. Tả thực và hay thời Bàng Bá Lân với Cổng làng, Trưa hè, Trăng quê, chẳng hạn. Có câu lung linh nhập vào ca dao như “Hỡi cô tát nước bên đàng/ Sao cô lại múc trăng vàng đổ đi”… Tất nhiên ở các sáng tác sau này khác nhiều, nhưng phần đông cái cổng làng, con trâu, cánh đồng, mẹ tôi một nắng hai sương với đòn gánh cong cong gì đó vẫn thiên về tả thực.
Chất liệu từ Làng Chùa của Nguyễn Quang Thiều cũng làng quê bắc bộ không thiếu các hình ảnh quen thuộc trên nhưng các hình tượng thơ đã hoàn toàn ảo hóa. Như người bà ông soi gương. Như tiếng nói, lời kể của bà vẫn còn đâu đó trong căn phòng dù thân xác bà, mọi thứ căn phòng cũ không còn nữa. Và nhất là câu chuyện lan man từ sáng đến lúc đi ngủ của bà, hiện lên, vọng lại, đọng lại mang một hình hài khác, một chiều kích thời gian, không gian khác. Đó là thế giới của tâm hồn. Nó có quy luật riêng để hòa trộn ký ức và tâm linh, thời gian và hiện hữu, người sống và người chết, những khởi sinh vô tận từ hồng hoang đến các viễn ảnh xa xăm. Như dòng sông quê hương, có thể phồm phàm năng lượng như dòng Thu Bồn qua thơ các nhà thơ xứ Quảng, sông Hồng thành trường ca “Phồn sinh” ngoại hạng về câu chữ của Nguyễn Linh Khiếu…, nhưng sông Đáy của Nguyễn Quang Thiều khác, rất khác:
-Cha ơi, cha đưa con về đâu?
-Cha đưa các con về sông Đáy.
Dòng họ thuyền đêm qua về đông đủ
Những thuyền chết về bến mây
Những thuyền sống đậu bến nước
Những thuyền chưa đẻ thì đang mọc lá
Đó là một sông Đáy không bình thường, bến sông tề tựu đủ dòng họ thuyền, thuyền người chết, thuyền người sống, thuyền chưa đẻ: dòng sông của thế giới thơ Nguyễn Quang Thiều. Cùng đọc hết đoạn thơ tiếp theo câu chuyện cha và con và sông Đáy: “-Cha ơi, có con thuyền thiếu chèo!/ -Cha chặt cánh tay cha làm chèo/ -Cha ơi, có con thuyền thiếu buồm/ -Cha cắt phổi cha làm buồm/ -Cha ơi, có con thuyền thiếu dây/ -Cha dứt tóc cha bện dây// Các con ơi, ngày mai của ta ơi/ Cha đưa các con về sông Đáy/ Con bống bạc đã nổi lên/ Ôi con bống tuổi thơ cha khóc đợi/ Nơi con bống vàng quẫy đuôi/ Ôi con bống nửa đời cha nín đợi/ Nơi con bống đen lùa vây khỏi ổ/ Con bống suốt đời cha dứt tóc ngóng trông// -Cha ơi, chúng con sẽ ngủ đâu?/ -Các con ngủ trong ngôi nhà hai mái của ông nội/ Ngọn lửa thiêng triệu triệu năm/ Sẽ tự mình thức dậy/ Nấu một nồi cơm nếp hoa vàng/ Đơm lặng lẽ vào mo cau cổ tích/ Và mang ra bến sông/ Và thả vào bến sông/ Đó là lúc con bống đen/ Nổi lên giữa dòng sông Đáy/ Đôi mắt sáng hai vầng Nhật- Nguyệt/ Đẻ cho ban mai một dải trứng hồng” (Con bống đen đẻ trứng).
Như vậy là, ngoài sông Đáy hằng hữu, sông của ngàn triệu năm qua, ngôi nhà của nội hay nồi cơm nếp cái hoa vàng, cái mo cau, những con thuyền, cái bến sông cũng hòa vào cổ tích với những con bống ngàn triệu năm. Con bống bạc- tuổi thơ cha, con bống vàng- nửa đời cha, con bống đen- suốt đời cha, khóc đợi rồi nín đợi rồi ngóng trông, các hình tượng thơ đều kỳ ảo trong một không gian, thời gian kỳ ảo. Và dĩ nhiên, người cha với những người con cũng thuộc thế giới này. Thế giới có ở khắp cõi người trên thế gian khi con người có ý thức, biết ước mơ, biết hy vọng đời con (thế hệ tương lai) sẽ bắt gặp một ban mai dải trứng hồng thiện lương và hạnh phúc. Có cái gần nhất, thiêng liêng trong mỗi người: tình cha con, và cũng vang động một khát khao nhân loại trong đoạn thơ này!
Cũng sông, nhưng là con sông ở mọi nơi, mùa nước lũ dâng lên ngập tràn một thị xã nào đó chẳng hạn, là bối cảnh cho nội dung trường ca Nhân chứng của một cái chết. Không gian thị xã này có cảnh vật, con người, sự kiện, nói chung là đời sống của nó. Đó là bầy chim trên các vòm cây, đứa bé trong công viên, những bàn tiệc, người nghệ sĩ và sân khấu, những ngôi nhà, cô gái dưới gốc cây sét đánh, những kỷ niệm, tiếng mèo, những cuốn sách, người đàn bà sinh đứa hài nhi, những nhà thơ, cặp vợ chồng… Nước bắt đầu từ công viên, như mọi công viên trên thế gian này, ở đó có người cha dắt con gái mình đi chơi: “Chúng tôi đi mãi đi mãi nhưng không sao hết được. Đó là chiều đu quay không quay. Và những ngựa, hổ, báo, tê giác buồn thiu không nhếch mép. Đó là chiều gió lớn đi qua thị xã. Tóc con tôi bời bời trong khi ánh mắt con tôi không chớp. Những tóc tơ con tôi réo vang tiếng lá rừng nguyên thủy. Tôi đứng nhìn con gái tôi từ phía sau. Tôi nghĩ về những buổi chiều như vậy trên thế gian này./…/ Đó là buổi chiều những người cha không dám cất tiếng gọi con mình./…/ Nước đã ngập những lối đi trong công viên. Ngựa, hổ, báo, tê giác kêu hoảng loạn. Những linh hồn cây tụ về thành rừng bên kia sông và ra sức vẫy gọi/ Lúc đó tôi nghe vang lên lời con cá tiên tri “Ngày của chúng ta đã đến.””
Không cần bàn về cái ngưng đọng của thời gian, về sự cảnh báo, bởi sự sống đã chứa đựng bao cảnh báo, huống chi bối cảnh ở đây là những cơn mưa bất tận và nước dâng lên vô hồi: “Chúng ta bỏ những ngôi nhà và đứng dọc hai bờ. Một con cá vàng nổi lên hỏi chúng ta cần gì không? Câu hỏi ấy làm chúng ta khóc cho tới sáng. Phải chăng chúng ta cần một đôi mắt không biết chớp của bầy cá. Hay chúng ta cần một đôi vây lớn của tâm hồn.”
Và nhà thơ đưa chúng ta đi, không phải qua hiểm họa tự nhiên mà đi qua cái cô độc, nỗi sợ hãi từ chính tâm hồn mình. Chúng ta thấy những con cá có thể nói lời tiên tri, những cái cây còn có nhận thức “Từ thuở còn là hạt, tôi đã thấy ô cửa sáng đèn kia”. Mỗi ô sáng đèn, mỗi ngọn nến, cây đèn là một con người sống, một linh hồn, “trong mỗi xẻng đất của chúng ta đào lên từ nghĩa địa đều có một cây đèn tỏa sáng”. Những ngôi nhà cũng vậy: “Chỉ sớm mai tầng dưới ngôi nhà sẽ biến mất. Chỉ còn lại tầng trên lơ lửng giữa bầu trời và thị xã, giống như một cái đầu đang nghĩ, và kéo dài cả thế kỷ sau”. Cô gái đứng bất động trong mưa dưới cây khô trơ trụi vì bị sét đánh. Con mèo đi mãi trên các nóc nhà, “cả mái nhà xưa chỉ còn bóng lưng trời”. Người nghệ sĩ trong vai người tàn tật bước xuống cái huyệt mộ của mình trên sân khấu khi nước dâng lên trong nhà hát, khi công chúng đã hoảng sợ bỏ về, nhưng một mình anh vẫn diễn trọn vai mình với niềm đớn đau, kiêu hãnh. Một ngôi nhà trong thị xã nước đang dần ngập, người đàn ông và người đàn bà trên giường của họ không biết rằng ngôi nhà sắp sụp đổ. Hồn hoa bỏ xác hoa trong bình ra đi. “Những thư tình của họ tìm cách xé rách phong bì. Chúng đập cánh bay lên cửa sổ và đậu lại. Chúng nhìn người đàn ông, người đàn bà của chúng hồi lâu rồi khóc bay đi. Đôi bồ câu trắng thêu trên áo cưới của họ ra đi chậm hơn. Chúng phải mang theo vỏ gối vì thói quen chung thủy.// Trên tường những tấm ảnh thuở đôi mươi của những đàn ông, đàn bà dày vò. Những tấm ảnh ra đi hay ở lại. Chúng suy nghĩ và tóc trên đầu bạc trắng. Chúng đã già hơn những người chủ của mình.” Và không thể khác, ở cái thị xã đang dâng nước ấy có những nhà thơ. Đó là những người “sinh ra trên xứ sở này như sứ mệnh và sự đày đọa. Họ mang theo suốt đời cây thánh giá của ngôn từ. Họ lang thang trên mọi con đường. Vừa đi họ vừa than khóc, vừa ca hát. Tâm hồn họ vừa nặng như tảng đá vừa nhẹ tựa làn hương. Họ đi trên đường như một vị thánh và như kẻ loạn luân. Những lời tụng ca trải đầy đường đi dưới gót chân họ. Và đất đá cùng những lời nguyền rủa kết tội đổ trên đầu họ. Nhưng họ không để ý đến điều gì, chỉ vừa đi vừa than khóc vừa ca hát và khuất dần vào cái chết.” V.v…
Tất cả, người và vật, đồ vật, người sống và người chết đều hí hóp thở, đều trôi qua, mục ruỗng, đều câm lặng trước bí ẩn bậc nhất: sự sống và cái chết. Cả những ngôi mộ nhiều tuổi tác cũng chỉ “lặng im và suy nghĩ triền miên”. Không có câu trả lời nào cả. Chỉ ngôi sao xa từ thuở ấu thơ đến đêm nước dâng này vẫn bền bỉ sáng như một tín niệm.
Dòng sông, cái thị xã, công viên, những hồi ức tuổi thơ, những bông hoa, những lá thư tình, sân khấu nghệ thuật, những con mèo, con chim, con chuột, những nhà thơ, cuốn sách… đều thật cụ thể, đều có ở đâu đó trên thế gian này. Nhưng cũng không có ở bất kỳ đâu, bởi nó có đời sống khác, linh hồn khác. Và đó là thế giới thơ Nguyễn Quang Thiều.
3.Thơ của những vọng âm:
Chúng ta sẽ không bàn đến các công cụ của nghệ thuật thơ như các biện pháp tu từ, những ẩn dụ, nhân cách hóa, những gián cách, đồng hiện…, không bàn đến các thứ chủ nghĩa tượng trưng, siêu thực, hiện thực huyền ảo, hậu hiện đại… Nó máy móc và thô thiển, vì đơn giản, tôi nghĩ Nguyễn Quang Thiều không hề có ý thức sử dụng bất cứ kỹ thuật, phương thức nào. Thơ và thế giới thơ ông riêng/ khác như ví dụ về bài học soi gương và tiếng nói của người bà thuở ông 8 tuổi kể trên. Một thế giới đã qua nhưng không bao giờ mất đi, một thế giới hiện tồn với liên tục chuyển động của thời gian và một thế giới sẽ tới, rồi những thế giới của linh giác, linh cảm, những viễn ảnh viễn tượng… tất cả òa ập vào nhau vừa quy luật vừa tình cờ. Sự kết nối chất liệu từ các thế giới này, không phải bằng các trường phái, kỹ thuật mà là tư duy nghệ thuật mới, của riêng ông. Và câu thơ, bài thơ đã sinh ra, một cách bí ẩn.
Nhân vật những nhà thơ ở trường ca kể trên Nguyễn Quang Thiều chỉ viết chung về sứ mệnh và thân phận đám đông này của thế gian. Bài thơ dài Cây ánh sáng là câu chuyện về một thi sĩ cổ điển nhất, với tâm hồn giằng xé giữa bóng tối ảo vọng và ánh sáng minh triết, giữa sự bất lực và thăng hoa, sự cô độc tận cùng và chan hòa lễ hội ánh sáng. Là côn trùng, là sói, là đại bàng, là lạc đà, là tất thảy, là cả tên nô nệ khốn cùng với những con đĩa rỉa róc xương máu hay cây ánh sáng mặc khải từ ân sủng Chúa Trời. Thi sĩ cũng là 2 con người trong một con người: “Một kẻ ngập tràn ánh sáng và miệng chứa đầy ngôn ngữ minh tuệ/ Một kẻ ngồi trên chiếc ghế hành hình ngập bóng tối tự trừng phạt mình, chỉ trái tim không ngơi nghỉ dội vang”. Là nhọc nhằn khổ lụy, đôi khi làm cái việc vô nghĩa như con “lạc đà chất trên lưng không phải vàng bạc châu báu hay những túi nước ngọt mà là những bao tải cát để đi qua sa mạc cát/…/Nhưng lạc đà không chối bỏ những bao tải cát trên lưng và không rời bỏ những con đường sa mạc cát”, có thể rồi cuối cùng bị sa mạc nuốt chửng vào “cái dạ dày lãng quên”… Tất cả chỉ với mục đích cuối cùng, “thành một chiếc lá nhỏ không bao giờ tàn úa trên cành của tán lá ban mai kỳ vĩ trong vũ trụ ngập tràn”.
Hành trình và sứ mệnh một thi sĩ như vậy, và với thế giới thơ của mình, Nguyễn Quang Thiều đã tạo ra một trường thơ riêng khó có thể bóc tách với những thao tác thông thường. Hãy cứ để “Cây đèn của ký ức ốm đau cạn dầu và sợi bấc/ Bò đến sát tai tôi nức nở nguyện cầu”, cứ để “Trong bóng tối những bông hoa như người thiếu máu/ Với đôi mắt mệt mỏi nhìn thẳng vào chúng ta”, cứ để “Bay về một con quạ/ Hoàng hôn, đậu im lìm/ Và những cái tai sợ hãi/ Biến mất trên cánh đồng”… (Hồi tưởng), hay: “Con cóc già lơ đễnh và tinh quái/ Nó vuốt trăng trên mặt nhìn tôi/ Bàn tay nó mềm và lạnh/ Sự khởi đầu bao giờ cũng giống sự vuốt ve” (Dưới trăng và một bậc cửa), hay “-Xin chào Người!/ và hoàng hôn rực rỡ/ Có nỗi đau chưa nguôi trong tự do của vải/ Đó là sự tự vẫn của may sẵn/ Những chiếc kim vừa nguyền rủa vừa khâu dọc mí mắt” (Nhịp điệu châu thổ mới), v.v… Những câu thơ như thế sẽ có cách riêng rất hiệu quả vọng lại trong chúng ta. Ngay cả đoạn thơ có vẻ như tả thực “Đó là tháng bà tôi đòi cắt tóc/ Cha tôi mang tóc bà tôi chôn xuống cánh đồng/ Cỏ mộ tóc tốt tươi trong bóng tối/ Tôi trốn bà ra khóc tóc bà tôi” (Hồi tưởng) cũng chỉ thấy cái hay từ vọng âm của nó. Tất cả đều là vọng âm.
Văn chương nghệ thuật, với bất kỳ hình thức thể hiện nào, nếu thành công, cũng trang trọng lan tỏa và đọng lại những vọng âm, chứ không phải sự phơi bày. Thơ Nguyễn Quang Thiều là thơ của những vọng âm. Trên nền ngôn ngữ rất tường minh, không cao kỳ, đánh đố, không nhòe mờ siêu thực, không sặc sỡ làm dáng, ông diễn đạt giản dị nhất có thể cho những câu thơ đầy ám ảnh của mình.
Có thể tôi không hiểu hết hoặc hiểu đúng những hình tượng nhòe mờ, những vấn đề sâu xa triết luận về tồn sinh trong thơ Nguyễn Quang Thiều, nhưng không thật quan trọng điều này. Những câu chữ rất sáng tỏ của ông cứ phập phồng cựa quẫy một thắt thỏm âu lo về cái thế giới ta bất lực nắm bắt, cứ cuốn hút và xúc động, ám ảnh.
Xin kết thúc bài viết bằng nỗi niềm hạnh phúc tìm thấy của “chàng thi sĩ” sau bao khổ nạn và tuyệt vọng:
''Trên những cánh đồng ngũ cốc đã bắt đầu lóng lánh và tỏa hương nồng nàn
Và ao hồ, sông suối và biển cả trước họ như tất cả làm bằng vàng rực rỡ
Những chiếc bánh trong lò được lấy ra, rượu vang đỏ được rót vào những chiếc ly hạnh phúc
Trên cánh đồng bất tận của thế gian một lễ hội ánh sáng bắt đầu
Và chàng bước ra khỏi chiếc ghế hành hình bóng tối, chàng và người anh em song sinh đã nhập thành một, chàng đi đến đồng cỏ rộng lớn không bến bờ.''
(Cây ánh sáng)
25/6/2020
( ảnh dưới : Chân dung nhà văn Lê Hoài Lương - nguồn internet )

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét