Thứ Hai, 31 tháng 8, 2020

LỜI MÁCH BẢO CỦA THƠ - BẢO NINH

 LỜI MÁCH BẢO CỦA THƠ

Bảo Ninh
Sau những ngày hầu như khuya nào cũng chong đèn đọc Dưới trăng và một bậc cửa, đêm qua, đã dòng cuối, tôi đọc lại, giở trang bất kỳ.
‘’Đã phủ ngập trên mênh mông mặt hồ, tiếng chim đơn độc
và rền rĩ
Những quả đồi cựa mình và lặng lẽ bước đi
Những đám mây tha phương đã trở về, đứng bên kia đầu dốc
Ngước nhìn lên trong đêm mờ sao, và tôi nhận thấy…’’
Tôi tự thấy ngỡ ngàng. Đã từ lâu, không chỉ với sự đời mà cả với văn học, trong tôi, nhiệt tình đã nguội ngắt. Cái cảm giác xốn xang, mừng vui lẫn bàng hoàng khi được đọc một tác phẩm văn học khiến lòng mình rung động, như mọi người, tôi đã từng có nhưng những lần gần nhất cách nay cũng bao nhiêu năm rồi. Thời xa vắng. Tướng về hưu. Những người thợ xẻ. Những bài học nông thôn. Bước qua lời nguyền. Mình và Họ… Mả đấy là văn xuôi, các truyện ngắn và tiểu thuyết. Đây là thơ, lại không phải thông lệ văn vần, và có lẽ cũng không phải Hậu hiện đại, dạng thức thơ đang dần một thịnh hành.
Trước, tôi đã tìm đến một số tác phẩm được các nhà nghiên cứu định danh là thế, là Hậu hiện đại, mà chắc là do sự đọc và hiểu cố hữu của mình làm cho vướng vấp nên dù rất cố tôi vẫn như bị bật dội ra, không vào nổi. Nhưng, với Dưới trăng và một bậc cửa, chẳng những không hề bị chữ nghĩa của nó làm khó, tôi còn “ tâm đầu ý hợp ” ngay từ trang đầu, qua hàng đêm, từng dòng. Bởi vậy, từ sự cảm thụ nhập tâm như thế của bản thân, tôi tự cho rằng tập thơ tuyệt vời đột ngột và khác lạ này không phải là Hậu hiện đại, hoặc phải thì “ hậu hiện đại ” này hoàn toàn khác những “ hậu hiện đại ” kia.
Thơ của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều đẹp và bình dị, ngôn từ đậm đà, mộc mạc, không gian thơ thân thuộc, gần gũi. Anh thực sự là một thi sĩ của làng quê, sông hồ và đồng nội… Lời bình này tôi được nghe từ nhiều năm trước trong một cuộc luận bàn bột phát và rất trái chiều nhau, nảy lửa, về Sự mất ngủ của lửa. Ngoại đạo, song khi đó tôi đã thầm, chỉ dám thầm thôi, đồng tình với nhận định ấy. Đúng thế, thơ Nguyễn Quang Thiều, từ Sự mất ngủ của lửa ngày đó, đến Những người đàn bà gánh nước sông, rồi Nhịp điệu châu thổ mới, và giờ đây, Dưới trăng và một bậc cửa, đẹp và bình dị. Qua suốt chiều dài của gần hai trăm trang thơ và trường ca, dọc ngang, độc giả không bị vấp một chữ một từ hóc búa nào, không va phải câu nào đoạn nào ý tứ bịt bùng đánh đố ; trái lại, cũng không gặp phải những câu thơ màu mè điệu nghệ, cầu kỳ mà dễ dãi, bóng bẩy mà trơn tuột, rất hay gặp trong không chỉ văn chương thời nay.
Vậy nhưng, tôi cảm thơ Thiều không phải bởi vì thế.
Tôi không biết diễn đạt thế nào. Từ ngữ và câu cú văn xuôi quen viết mỗi ngày không thể hiện được tâm trạng những đêm vừa qua đọc Dưới trăng và một bậc cửa. Có lẽ chỉ thơ mới ứng, và tôi muốn mượn từ tập thơ câu thơ này :
‘’Chợt nhận ra ngôi nhà của mình, nhận ra thơ ấu của mình
Nhận ra cơn mơ của mình đang đi trên con đường đơn độc’’
Nhập tâm vào tập thơ, con người tôi như lạc khỏi bản thể và khỏi thực tại, trở nên siêu thực đến độ có lẽ cũng đã gần như tác giả, nhận ra được thơ ấu của mình, cơn mơ của mình, đang đi. Tuy nhiên, trạng thái nhập tâm của tôi vào tập thơ lại là một trạng thái nhập tâm tỉnh thức ; tâm thức sáng tỏ, vừa đọc vừa ngẫm nghĩ, những ý nghĩ miên man theo dòng thơ, và những ý nghĩ bất chợt, xuất thần, vượt hẳn ra ngoài ý nghĩa của câu thơ. Và thậm chí cả những ý nghĩ triết lý, vốn là sự rất hiếm khi tôi thấy ở mình.
Với tôi, Dưới trăng và một bậc cửa, là một miền đất được nhà thơ “ lập ra ”, dành cho tôi. Miền đất này vừa bình dị và mộc mạc những cảnh sắc của đời sống thực tại thân thuộc, làng quê, sông hồ, đồng nội, với người Nông Dân Già, với bà nội tôi, em gái tôi, lại vừa là một miền đất của những quả đồi có thể cựa mình bước đi, của những đám mây tha phương trở về dừng bước nơi đầu dốc, của những cây cầu được bắc vào trong xa xôi, của khu vườn đang mang thai, của những ngôi nhà đang chạy trốn, của những ngôi nhà đang sụp lạy, của vở kịch đã mấy trăm năm rồi vẫn diễn, của những người chết trở về mượn đời sống chúng ta… Và cái miền châu thổ “ hiện thực huyền ảo ” Dưới trăng và một bậc cửa này như là được dành riêng cho tôi là bởi vì trong nó hàm chứa những ý tưởng mà bao lâu nay tôi vẫn chập chờn nằm mộng thấy và vẫn thầm mong là rồi ra mình sẽ nghĩ thấu được tới, sẽ chạm bút được vào.
Cũng như nhiều người viết văn xuôi khác, hàng ngày, sáng chiều tôi thường vất vả cặm cụi viết một cái gì đấy, và về khuya, nếu thời gian và không gian cho phép thì lẳng lặng một mình một “ đêm thơ ” riêng mình. Không chỉ là sở thích, đây là một nhu cầu thiết thân. Thơ, thầm đọc trong đêm, làm khuây đi cái ban ngày thường nhật, và hơn thế, đưa đến cho buổi sáng ngày hôm sau một sức viết, một đà viết, và có khi là cả một hướng viết mà nhờ thế sẽ vượt qua được những bế tắc đang kìm chân bản thảo.
Tác động khai mở của thơ có thể là lập tức lúc tôi đang tập thơ trên tay, nhưng thường khi là sau đấy, trong giấc ngủ. Thơ ngấm vào giấc ngủ giúp tôi trong đêm thấy ra được một từ, hoặc một câu, hoặc cả một đoạn dài văn chương đặc biệt ưng ý, thậm chí mách cho tôi một cốt truyện mà tôi biết chắc là hay vô cùng, để rồi lúc sáng ra, tỉnh dậy, không sao nhớ lại nổi, khôn xiết xót xa tiếc nuối.
Cố nhiên, với tôi, những bài thơ có thể ảnh hưởng trực tiếp lên “ văn xuôi ” của mình như thế không mấy. Bởi vậy tôi không đọc rộng ra mà bấy lâu chỉ cứ hàng đêm những bài thơ đó, nhà thơ đó. Và trong số ít đó, nhiều nhất là thơ Thiều. Thơ Thiều của những năm 1990, của mấy năm gần đây, và bây giờ đây, tập thơ này.
Trong Dưới trăng và một bậc cửa có những trường đoạn tôi nhớ là đã đọc từ nhiều năm trước, mà bây giờ trong tổng thể của tập thơ, những trường đoạn ấy tôi thấy khác hẳn, vượt bậc lên, tầm cao hơn. Là bởi vì, có thể ví như, những năm trước đây tôi chỉ mới thấy từng quãng của dòng sông, còn bây giờ là suốt dọc triền sông, toàn cảnh.
Đời người, đời thơ, những ai có thể mở ra được cả một miền đất, cả một triền sông như nhà thơ này, tập thơ này ?
Đêm qua, đã trang cuối cùng, tôi ngược dòng tập thơ đọc lại, nhưng không từ đầu, mà trang bất kỳ.
‘’Đã phủ ngập trên mênh mông mặt hồ, tiếng chim đơn độc
và rền rĩ
Những quả đồi cựa mình và lặng lẽ bước đi
Những đám mây tha phương đã trở về, đứng bên kia đầu dốc
Ngước nhìn lên trong đêm mờ sao, và tôi nhận thấy
Linh hồn của những người chết trên mảnh đất này
Bay lượn nặng nề cùng linh hồn những chiếc thuyền thúng
Và linh hồn những con chó chạy ra mép nước sủa vang
đón linh hồn những ông chủ
Linh hồn một bà già hấp hối đòi gặp linh hồn con cháu
Ngước nhìn lên và tôi thấy linh hồn ông nội tôi
Đang dựng lại đình làng và linh hồn bà nội
Đang đội đất đắp đê dài đến tận chân trời’’
Không hiểu là bởi vì đâu, phải chăng là do trong sự đọc của mình thường trực một cái nhìn văn xuôi, nên tôi, gần như là bằng trực giác vậy, thật mắt nhìn thấy, hiển hiện, trong trang thơ tuyệt ảo này của Bài ca những con chim đêm phần hồn của một cuốn tiểu thuyết mà phần chữ còn chưa được viết ra.
Mà không chỉ một trang này, hầu như trang nào của tập thơ cũng gợi cho tôi tứ của một thiên truyện. Thế nên, với tôi, Dưới trăng và một bậc cửa là một tập thơ mang dung lượng của vô kể những ý tưởng tiểu thuyết. Thậm chí thực sự hẳn ra là một thiên tiểu thuyết. Chẳng hạn, Cây ánh sáng, hay Hồi tưởng, hay Nhân chứng của một cái chết, mà đặc biệt là Khúc ba.
‘’… Nếu ngày ấy tôi lên thuyền tôi đã ở bến bờ khác… ‘’
Cô đọng tới tột mức trong hai trang thơ, Khúc ba là một tiểu thuyết bi kịch, trữ tỉnh và huyền ảo, mà đọc đi đọc lại lần nào tôi cũng bị lay động tận đáy lòng.
Cũng kết tinh lại chỉ trong hai trang thơ, Hồi tưởng tháng Chín ( trong Hồi tưởng) , với tôi, là một tiểu thuyết triết lý, hoặc có thể nói, một ngụ ngôn tiểu thuyết, hết sức cao thâm và hàm súc. Tôi cảm tưởng đây là một truyện ngụ ngôn về chính tôi, về những năm tháng viết văn đằng đẵng của tôi, về sự mò mẫm và về niềm vô vọng.
‘’Chúng ta cố ngước mắt kiếm tìm dấu vết
Và lạc ngay trước cửa ngõ nhà mình’’
Thú thực là tôi thấy buồn cho mình. Tôi đã từng có mặt trong thực cảnh của hai trang thơ đó : một buổi sáng ngập dưới sương mù… bộ hành tất cả đều như bỗng nhiên bị lòa, hoảng hốt hỏi nhau về con đường vẫn thường đi… duy nhất một người, người mù, là bình thản, thong thả bước đi giữa những hàng cây… Có mặt trong cảnh tượng đó và là một người viết văn, song chỉ thế thôi, tôi chỉ nhìn thấy, với một chút cảm giác là lạ chứ không nhận thấy, không nghĩ tiếp được, không manh nha nổi trong tâm trí một ý tưởng văn chương nào như là đáng lẽ ra
‘’Nhưng chúng ta không sao hình dung được
Con đường trong ngôn ngữ của trí tưởng tượng
giữa bóng tối’’
Nói chung là rất buồn, cảm nhận khi vừa đọc xong Dưới trăng và một bậc cửa, một nỗi buồn thẳm sâu, mênh mang khôn tả, xâm chiếm tâm hồn tôi. Nỗi buồn ấy tôi tưởng chừng có thể trực tiếp chạm tay vào trên từng trang sách, và có thể cả nhìn thấy nó, ngoài cửa sổ.
Cửa sổ căn phòng mà tôi hằng đêm chong đèn đọc sách cũng giống ô cửa sổ quên đóng và đèn quên tắt của nhà thơ trông ra một mặt hồ và ra xa hơn nữa tới một triền đồi. Thực cảnh là vậy, và bấy lâu qua cửa sổ tôi chỉ thấy được đúng như thể, hồ nước và những quả đồi, nhưng từ đêm qua, như là từ trong tập thơ nhìn ra, tôi nhìn thấy một hienj thực khác, một cõi khác của thế gian
‘’Ngước nhìn lên trong đêm mê sảng của một hồ nước và
như một chứng nhân
Của lịch sử lặng câm và tôi nhìn thấy…’’
Đấy là một cõi mê loạn mà khôn xiết sầu thương thống thiết hiển hiện trong những lời thơ u sầu mà uy nghi và trầm mặc, với giọng thơ, nhịp thơ buồn vô hạn.
‘’Linh hồn những ông vua vẫn mê đắm những linh hồn
tì thiếp
Linh hồn những ngựa bạch vẫn kéo theo linh hồn những cỗ xe
Và linh hồn những đao phủ bay song song linh hồn
những cái đầu bị chặt
Một đoàn dài linh hồn những người lính đang tìm về
linh hồn những ngôi nhà
Và bên này hồ nước linh hồn những người đàn bà góa bụa…’’
Và :
‘’Dưới gốc thông già, linh hồn cái đầu một nhà thơ đang
đọc một linh hồn sách
Và bay quanh ông vừa cười vừa khóc, linh hồn ba họ
Ngước nhìn lên và cố tìm linh hồn chén rượu độc
Chỉ thấy linh hồn một ông vua cắn mãi không đứt
lưỡi mình…’’
Biết là chẳng lẽ nào lại cứ miên man dẫn hết câu thơ này tới câu thơ khác của tập thơ, mà tôi không đừng được, không thể cưỡng được sức cuốn âm thầm mảnh liệt của những dòng thơ ấy, những dòng thơ tuyệt tác “ linh hồn của kiêu hãnh, khát vọng mang xúc cảm vĩ đại”
Đêm qua, đứng bên cửa sổ, theo mách bảo của nhà thơ, tôi ngước nhìn lên
“ Ngước nhìn lên ngôi sao mỗi lúc một sáng hơn
Mỗi lúc nghe một rõ hơn như chính từ bản thân mình
Giọng nói xa lạ và quen thuộc
Cả hồ nước mở ra một con mắt
Sáng dần lên một đóa hoa ”
Lời mách bảo của thơ như là lời mách bảo nghe thấy từ trong tiếng sấm vọng về từ bên kia hồ, như lời của trời đất, khiến tôi bàng hoàng, choáng ngợp.
( ảnh dưới : Chân dung nhà văn Bảo Ninh, phụ bản của hs Lê Thiết Cương và một khoảnh khắc với Bảo Ninh )


KHI TRẺ CÓ TÍNH ĂN TRỘM, ĂN CẮP - VŨ THỊ HƯƠNG MAI

 

Thứ Sáu, 28 tháng 8, 2020

ĐẶC ĐIỂM GIỌNG ĐIỆU THƠ VIỆT NAM ĐỔI MỚI - PHẠM QUỐC CA

 Đặc điểm giọng điệu thơ Việt Nam đổi mới

Giọng điệu là một hiện tượng nghệ thuật, là phương tiện biểu hiện quan trọng của chủ thể sáng tạo đồng thời còn là một biểu hiện của thi pháp trong những thời đại thi ca nhất định.
Những giọng điệu chung của thơ Cách mạng trước 1975 là tiếng nói hào sảng của thời đại cách mạng, là tiếng nói tha thiết yêu thương, là giọng ru êm ái, ngọt ngào... Những giọng điệu này phần nào đó vẫn được tiếp tục trong những năm sau 1975. Ví dụ giọng điệu tha thiết, tự hào về quê hương, đất nước:
Hương Giang ơi dòng sông êm
Qua tim ta vẫn ngày đêm tự tình.
Vẫn là duyên đấy quê anh
Gió mây tan lại trong lành mặt gương.
(Bài ca quê hương- Tố Hữu)
Nhưng lịch sử đã sang trang, thế giới tâm hồn và cái nhìn nghệ thuật của nhà thơ đối với cuộc sống cũng đã thay đổi. Những giọng điệu thơ phổ biến trước đây đã không còn phù hợp. Xuất hiện những giọng điệu mới trong thơ.
Sự biến đổi dễ thấy nhất của thơ hiện nay so với thơ trước 1975 là sự đa dạng về giọng điệu Thơ không còn khuôn vào một số giọng điệu chung như: trữ tình tha thiết, quyền uy hoặc chính luận, hào sảng như trước1975. Tư thế trữ tình của cái tôi hôm nay là tư thế một người bình thường tự nói với mình và tâm sự với mọi người về cảm xúc cá nhân, về những vấn đề nhân sinh, thế sự. Giọng thơ trở nên trầm lắng: “Giọng cao bao nhiêu năm giờ anh hát giọng trầm” (Chế Lan Viên). Mặt khác cuộc sống được cảm nhận nhiều chiều với những quan niệm thẩm mỹ khác nhau. Tất cả những điều ấy tạo nên sự đa dạng về giọng điệu.
Nổi bật lên trong thơ sau 1975 là giọng điệu cảm thương, đặc biệt là khi nói về những người thân trong gia đình. Số phận của những người bà, người cha, người mẹ, người chị… đầy những vất vả, hy sinh nhưng ở họ thật giàu phẩm chất nhân ái:
Nghĩ mà thương lắm chị dâu
Chiều mưa gạo hết, mẹ đau cuối giường.
Em ngồi đôi mắt nhoà sương
Nón tơi, cắp rá ngang vườn chị đi
Chiều ơi mưa mãi làm gì
Hoàng hôn đừng xuống trước khi chị về.
(Chị dâu- Vương Trọng)
Thơ trở nên giàu cảm thông hơn với những kiếp người không may mắn, những người vô gia cư, lang thang, không nơi nương tựa:
Tạnh ráo đã đành, lúc bão mưa
Gió hanh, gió chướng, gió chuyển mùa
Trẻ khi phong giật, già trở bệnh
Giỗ tết đặt đâu bát hương thờ
(Nửa đêm chợt thức- Nguyễn Thái Sơn)
Trầm tư triết lý cũng là một chất giọng chủ yếu của thơ sau 1975. Chất giọng này không đơn giản là xuất phát từ cảm hứng “nửa đời nhìn lại” của các tác giả lớn tuổi mà là từ sự từng trải của cả một thời đại. Có thể thấy trong đoạn thơ sau đây của Chế Lan Viên đặc điểm tinh thần của thời chúng ta đang sống:
Tôi cùng thế kỷ này già như nhau. Tôi chết trước
Thế kỷ chết rồi đẻ ra thế kỷ non hơn, XXI
Cầu cho đừng như thế kỷ này thơ ít mà nhiều bom
Cầu cho đừng khôn vặt như thế kỷ này
Để nuôi sống xác thân đem làm thịt linh hồn.
(Đoạn cuối thế kỷ)
Giọng thơ trở nên thâm trầm, vươn tới sự minh triết của con người đã trải qua nhiều biến động, nhiều ngộ nhận. Sự việc, hiện tượng được nhìn từ nhiều phía, biện chứng, khách quan hơn. Có những bài thơ đậm tính chất triết học:
Quá khứ
như chùm quả già vỏ cứng
rụng xuống thập kỷ 90
tung toé, vỡ tan
Có kẻ hoang mang:
- Mất cả rồi
Có kẻ
lặng lẽ cười:
- Còn hạt đó thôi !
(Quả vỡ - Đỗ Văn Tri)
Những tư tưởng triết lý trong thơ trước 1975 thường là được hình thành từ ý thức xã hội. Triết lý trong thơ hôm nay chắt lọc từ chính kinh nghiệm sống của nhà thơ. Triết lý mà thấm đẫm cảm xúc, đạt tới độ sâu sắc, trải đời:
Nhắc làm chi chuyện hoa niên
Bây giờ mình đã hết duyên về già
Cảm ơn anh lại chơi nhà
Nhưng quên nhau mới thực là tương tri.
(Hôm qua - Hoàng Như Mai)
Một trong những đặc điểm giọng điệu của thơ trước 1975 là trữ tình tha thiết. Nhiều nhà thơ không muốn ở mãi trong từ trường cảm xúc đó đã tìm đến giọng tự sự khách quan cho phù hợp với đặc điểm duy lý của con người hôm nay. Nhiều bài thơ chỉ đơn thuần dựng lên một mảng sự sống với ngôn ngữ kể:
Bình minh
Chim sơn ca cất cao tiếng hót
Cành lá biếc rung rinh
Người đi săn giương súng lên rình
Mà không hay biết
Chim sơn ca vẫn hót
Cho cả số phận mình.
(Chim sơn ca- Nguyễn Hoa)
Phía sau giọng điệu tự sự khách quan này là nỗi buồn đau trước sự vô ý thức của con người.
Do hệ quả của việc nhận thức lại những vấn đề chính trị, xã hội, đạo đức, lối sống… đã xuất hiện trong thơ giọng mỉa mai, đôi lúc bị đẩy đến cay đắng:"Vâng đã có một thời hùng vĩ lắm !"(Nhìn từ xa tổ quốc- Nguyễn Duy)
Bên cạnh đó là giọng đối thoại ý thức. Nó thể hiện sự hiểu biết, từng trải của con người đương đại, không muốn tin vào những triết lý giản đơn:
-“Một sự nhịn là chín sự lành”
Dạ thưa thầy, con đã nhịn đến quên mình
Sao sự lành hiếm thế !
(Dạ thưa thầy- Võ Thanh An)
Thơ trữ tình sau 1975 còn có chất giọng hài hước. Hài hước để quên đi cay đắng, để giã từ quá khứ một cách vui vẻ. Có khi đó là lời tự diễu cợt. Nó cho thấy nhà thơ đã hóa giải mọi ảo tưởng trong cuộc sống, thậm chí cả ảo tưởng về sứ mệnh lớn lao trong công việc làm thơ của mình:
Con ơi cha mắc bệnh thơ
Ú a ú ớ ù ờ kinh niên
(Nguyễn Duy)
Lại có khi vẻ ngoài của lời thơ là hài hước nhưng bên trong là nỗi niềm chan chứa yêu thương:
Mâm dọn ra chồng con như khách
Chỗ em ngồi mấy phía nồi niêu
Vừa xong bữa cả nhà đi sạch
Hoa hậu cùng mâm bát nhìn theo
(Hoa hậu của nhà- Vương Trọng)
Từ những điều trông thấy bất như ý về những giá trị tinh thần bị mai một trước sự lên ngôi của đồng tiền và lối sống duy lợi đã xuất hiện giọng thơ cay đắng:
- Vị trí nhà thơ như rác đổ thùng.
(Chế Lan Viên)
- Sách vở giờ đây như giẻ chùi nồi
(Lê Minh Quốc)
Thậm chí còn có cả giọng điệu khinh bạc:
Giữa phố xá đông vui thèm một tiếng người
(Nguyễn Đỗ)
Về giọng điệu chung có thể thấy hai xu hướng cùng tồn tại trái chiều nhau trong thơ đương đại. Một phía tìm về các thể thơ truyền thống, đặc biệt là lục bát để cố giữ giọng điệu mượt mà. Một phía khác lại tiếp tục xu hướng “nói hoá” được mở ra từ Thơ mới 1932-1945 và xu hướng này dường như đang thống trị trong thơ.
Xưa tôi hát mà bây giờ tôi tập nói
Chỉ nói thôi mới nói hết được đời
(Chế Lan Viên)
Câu thơ kể, nói, dãi bày trực tiếp chiếm ưu thế đã phá vỡ chất ru ngọt ngào, trang trọng tiến tới một giọng điệu lý trí, tỉnh táo để nói về cuộc sống rất văn xuôi hôm nay. Một số nhà nghiên cứu đã lý giải đúng đắn rằng sự mượt mà du dương của những lời thơ trong chiến tranh chứng tỏ một bản lĩnh, một sự sống mãnh liệt, bền bỉ, dẻo dai. Còn đời sống ồn ào sôi động, phức tạp ngày hôm nay lại quy định giọng thơ trục trặc, gân guốc. Thơ đương đại ít còn bị ràng buộc bởi cái nên thơ trong cách diễn đạt. Loại câu thơ nói thẳng ý được chấp nhận có lẽ là do tâm lý đi nhanh đến hiệu quả của đời sống hiện đại. Nhà thơ sẵn sàng bỏ qua liên kết vần. Các câu thơ thường chỉ liên kết với nhau về ý. Mục đích truyền cảm của thơ lãng mạn và thơ Cách mạng hướng tác giả đến việc viết những câu thơ du dương về nhạc điệu mà liên kết vần là cách có hiệu quả nhất để dễ nhớ, dễ thuộc. Giờ đây người ta dường như không còn nghe thơ mà chủ yếu đọc thơ trên sách, trên báo. Với một công chúng có học và ngày càng thu hẹp, bên cạnh xu hướng tiếp tục các hình thức câu thơ truyền thống, thơ tự do chỉ còn giữ ít nhiều nhịp điệu như một thứ nhạc ngầm của cảm xúc để nó còn là thơ mà không cần mê hoặc, dẫn dụ, làm say người ta bằng nhạc điệu. Thơ tự do không vần của Thanh Thảo là ví dụ:
Con chim quyên lỡ vận
Lang thang trên mặt đất
Tiếng kêu sao nghẹn ngào
Ta đã phí hoài quá nhiều sức lực
Gót chân mòn những bước không đâu
(Đêm trên cát)
Nhịp tâm hồn thế nào nhịp thơ thế ấy. Càng ngày người đọc tinh tường càng thấy loại thơ khuôn vào một nhịp đều đặn, cố định như soạn lời cho các làn điệu dân ca rất dễ gây phản cảm vì sự quen thuộc của nó.
Sự giảm dần giọng điệu trữ tình say mê, đằm thắm còn do đặc điểm lý trí tỉnh táo của con người hiện đại. “Có nhà thơ than rằng đời bây giờ tỉnh quá. Tôi ngược lại tôi thích: tỉnh táo, tỉnh khô, tỉnh bơ, tỉnh như sáo! Vì tôi biết cái tỉnh đó chỉ là phía nhìn được của đam mê” (Khối vuông Rubic- Thanh Thảo). “Di cảo thơ” của Chế Lan Viên là thơ của lý trí tỉnh táo, là cái nhìn vào bề sâu, bề xa của cuộc sống, là “lộn trái” sự vật, hiện tượng để nhìn vào bản chất của nó. Sự nói hoá, đầy nghịch âm của thơ hôm nay nhằm thể hiện các quan hệ phức tạp, đầy mâu thuẫn trong đời sống đang đổi thay từng ngày.

THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG THƠ VIỆT NAM SAU 1975 - PHẠM QUỐC CA

 THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG THƠ VIỆT NAM SAU 1975

Một trong những phương diện quan trọng của thi pháp học là nghiên cứu thời gian nghệ thuật. Bên cạnh việc miêu tả thời gian phải lý giải được nhà văn đã bộc lộ cách nhìn, cách cảm như thế nào về cuộc đời và chỉ ra quan niệm nghệ thuật về thế giới độc đáo của từng nhà văn. Do hoàn cảnh xã hội, tư tưởng thẩm mỹ, mỗi thời đại văn học còn có những quan niệm chung có tính chất đặc trưng.
Về thời gian nghệ thuật trong văn học hiện đại, Trần Đình Sử đã có những nhận xét xác đáng: “Văn học thế kỷ XX đã phong phú lên với nhiều hình thức thời gian nghệ thuật mới gắn liền với tư duy liên tưởng chiều sâu văn hoá và ý thức về quá trình lịch sử sôi động của thế kỷ chúng ta trên lĩnh vực cách mạng xã hội và khoa học kỹ thuật. Chẳng hạn sự xáo trộn các bình diện thời gian, tăng cường vai trò của thời gian hồi tưởng và thời gian tâm lý, sự mở rộng khái niệm thời gian lịch sử”( Văn học và thời gian, Nxb Văn học , H.2001).
Sau 1975 do hoàn cảnh sống và ý thức thẩm mỹ, các nhà thơ Việt Nam đã có sự đổi mới quan niệm nghệ thuật về thời gian. Nổi bật lên trong thơ là các loại thời gian nghệ thuật như sau.
Thời gian lịch sử
Đây là kiểu thời gian nghệ thuật rất đặc trưng trong thơ Cách mạng. Trong thơ sau 1975 thời gian lịch sử mang nét mới là thường gắn liền với thời gian đời tư. Tố Hữu trong bài thơ “Một nhành xuân” đã trình bày thời gian lịch sử rất gần với thời gian của đời mình: “Năm 20 của thế kỷ XX /Tôi sinh ra. Nhưng chưa được làm người/Nước đã mất, cha đã làm nô lệ /Ôi nhưng ngày xưa mưa xứ Huế / Mưa sao buồn vậy quê hương ơi”. Sự cảm nhận thời gian lịch sử gắn với thời gian đời tư làm cho các trường ca xuất hiện sau 1975 nghiêng về phía trữ tình.“Những người đi tới biển” của Thanh Thảo , “Đường tới thành phố” của Hữu Thỉnh là những thí dụ tiêu biểu.
Thời gian lịch sử ở thì quá khứ được tái hiện không chỉ đầy ắp sự kiện hào hùng “Lừng lững thác đèn chiến dịch” (Hữu Thỉnh) mà còn gắn với những hy sinh, mất mát không thể tính đếm hết của nhân dân. Gắn với thời gian quá khứ là hình ảnh những người mẹ “Mấy cuộc chiến tranh / Mẹ gánh cùng một lúc”. Những người chị “đợi chờ quay mặt vào đêm/ Một mình một mâm cơm /Ngồi bên nào cũng lệch / Chị chôn tuổi thanh xuân trong má lúm đồng tiền”(Đường tới thành phố-Hữu Thỉnh).
Quá khứ kháng chiến gian khổ, được thể hiện một cách thấm thía bằng trải nghiệm cá nhân: “Những năm/Chiếc áo dính chặt vào thân bạc màu ngắn nhanh rồi rách/Những năm / Một chiếc áo có thể sống lâu hơn một cuộc đời”(Những người đi tới biển- Thanh Thảo).
Quá khứ lịch sử đã kết đọng thành văn hoá để con người hôm nay sống có ý nghĩa hơn : “Tôi xin nhắc tháng ngày gian khổ ấy /Đã thành sao lặng lẽ sáng trong tôi” (Ý Nhi). Quá khứ do vậy có ý nghĩa thanh lọc sâu sắc, tạo nên phần trong sáng, khoẻ khoắn của cái tôi trữ tình.
Nếu quá khứ thường gắn với hy sinh mất mát thì tương lai thắng lợi được biểu trưng bằng những mùa hoa quả. Tư duy nghệ thuật như vậy mang đậm dấu ấn làng quê: “Chị vẫn tin chữ hợp cuối trang Kiều /Hoa nở hai lần hoa có hậu/Chị vẫn tin cỏ mùa thu xanh đều cho cuốc kêu tháng sáu / Vẫn tin có ngày hái quả cho anh” (Hữu Thỉnh).
Ở thì hiện tại thời gian trong thơ cách mạng thường được cảm nhận bằng cảm quan sử thi. Mười năm sau chiến tranh, con người vẫn sống trong dư âm của lối sống cộng đồng “cả đất nước có chung một tâm hồn, có chung một gương mặt”. Về căn bản thời gian trong thơ vẫn được cảm nhận là thời gian lịch sử dân tộc, thời gian được vẫy gọi bởi tương lai: “Ta sống thật đây gian khổ đêm ngày/ Mà cứ tưởng bay trong mơ ước / Bữa cơm ít cá nhiều rau/ Mà ngăn sông làm điện khoan biển làm dầu / Chân dép lốp /Mà lên tàu vũ trụ”(Tố Hữu).
Ở giai đoạn 1975 -1985 có một độ chênh khá lớn giữa hiện thực đời sống khắc nghiệt sau chiến tranh và nền thơ tiếp tục âm hưởng sử thi. Hiện tại đã trở về trạng thái bình thường, hàng ngày nhưng thơ thì vẫn say sưa với cảm hứng sử thi. Cuộc sống trì trệ trong đói nghèo, lạc hậu nhưng thời gian sử thi trong thơ vẫn đi những bước của người khổng lồ chỉ có trong thần thoại: “Thời gian không đợi / Cả trời đất vào xuân cùng ta đồng khởi / Cho những mùa gặt lớn mai sau…” (Tố Hữu). Song song với thực trạng đó trong thơ đã diễn ra một sự chuyển biến: tính chất sử thi nhạt dần, xuất hiện sự đối thoại với sử thi và từng bước sống lại thơ trữ tình cá nhân. Cá nhân đã trở thành điểm nhìn có tính chất chi phối quan niệm nghệ thuật về con người và thế giới. Thời gian đời tư, phi sử thi dần chiếm được sự quan tâm của các nhà thơ và bạn đọc.
Thời gian hiện tại
Nếu như trong thơ trước 1975 thời gian lịch sử chiếm vị trí chủ đạo, thể hiện quan điểm triết học về sự phát triển thì trong thơ giai đoạn Đổi mới thời gian là thời gian của đời người, thời gian thấm đẫm tâm trạng cá nhân. Con người không còn cảm giác bình yên trong quan niệm về thời gian vĩnh hằng gắn với sự trường tồn của non sông đất nước.
Với lối sống đô thị hiện đại thời gian đã được cảm nhận theo một cách khác, đậm tính cá nhân. Con người có ý thức sâu sắc về từng giây phút hiện sinh: “Có lẽ anh chỉ là một đồng hồ sinh học của anh. Bằng đồng hồ ấy anh đo được những tốc độ chóng mặt nhất và những khoảng ngưng lặng sâu thẳm nhất” (Khối vuông Rubic – Thanh Thảo).
Trong cuộc sống cá nhân, thời gian là một vấn đề triết học sâu thẳm mà con người phải đối diện. Thời gian đã trở thành nỗi ám ảnh trong thơ của nhiều thi sĩ Thơ mới (1932- 1945). Xuân Diệu đã cảm nhận buốt nhói cảm giác hiện sinh : “Còn trời đất nhưng chẳng còn ta mãi /Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời” (Vội vàng). Trong thơ sau 1975 ta gặp lại môtip về sự ám ảnh của thời gian, với tính chất là một thứ quỹ- quỹ thời gian của một đời người: “Thời gian sao mà xuẩn ngốc /Mới thôi đã một đời người” (Hoàng Phủ Ngọc Tường).
Đó là thứ thời gian một đi không trở lại của kiếp người, khách quan, vô tình đến khắc nghiệt: “Ta là ai?.../ Ta chưa kịp trả lời / Thì sông đã cuốn ta vào bóng tối / Cậu bé chơi tùng dinh chợt già trăm tuổi / Câu hỏi bé thơ miệng huyệt trả lời”( Hỏi? Đáp? -Chế Lan Viên).
Ý thức về thời gian đã làm cho nhiều bài thơ có sức ám ảnh (Trong đêm- Chu Thăng, Bài thơ thời gian – Lê Quốc Hán, Một mình – Trương Ngọc Lan…). Trước sự trôi đi vô tình của thời gian như nước xiết, trước 1945 Xuân Diệu đã đề xuất lối sống “Vội vàng” tận hưởng hương sắc cuộc đời, sống mãnh liệt từng giây phút hiện sinh: “Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối / Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm”.
Vào những năm tám mươi, Chế Lan Viên đã thể hiện một cái nhìn minh triết về thời gian, về cái chết. Ông chống lại sự trôi chảy về phía hư vô của thời gian bằng lao động sáng tạo: “Gió thổi mây bay bất trắc / Lúc nào mà không tử biệt sinh ly /Lúc nào cũng có thể thành Hàn Mặc Tử, Bích Khuê /Phải tranh thủ làm thơ giữa hai chớp mắt”.
“ Từ thế chi ca” là một trong những bài thơ hay về chủ đề cái chết trong thơ. Nổi bật lên là một thái độ minh triết đậm sắc thái phương Đông trước lẽ sinh tử của đời người: “Anh không ở lại yêu hoa mãi được / Thiêu xong anh về trời khác cũng đầy hoa / Chỉ tiếc không có tình yêu ở đó /… Anh tồn tại mãi /Không bằng tuổi tên /Mà như tro bụi / Như ngọn cỏ tàn đến tiết lại trồi lên”.
Không phải nhà thơ nào cũng có được thái độ như thế trước thời gian, trước cái chết. Phổ biến trong thơ là tâm trạng trăn trở, day dứt, xót xa trước việc thời gian đang rời bỏ từng giây, cuộc đời như chớp mắt, như chiêm bao: “Tuổi già xồng xộc đến/ Giấc ngủ bò như sên /Vắt tay nhàu cả trán /Tóc bạc trắng cả đêm”(Trong đêm – Chu Thăng).
Nhìn chung trong thơ giai đoạn Đổi mới thời gian đồng nghĩa với tàn phai nhanh chóng: “Tóc xanh vừa lỗi lời thề / Thoắt thành mây trắng cuối hè bay ngang / Ngu ngơ chạm phải ao làng / Sen chưa kịp hái đã tàn trên tay” (Thời gian - Lê Quốc Hán). Thời gian không còn mang nghĩa “bồi đắp”, “lớn lên” như trong thơ Cách mạng:“Nhiều đấy ư em? Mấy tuổi rồi?/ - Hai mươi! Ừ nhỉ tháng năm trôi / Sóng bồi thêm bãi thuyền thêm bến/ Gió lộng đường khơi, rộng đất trời”(Mẹ Tơm – Tố Hữu).
Qua một số so sánh chúng tôi thấy thời gian đời tư trong thơ hôm nay gần như đối lập với thời gian trong thơ Cách mạng và có sự gần gũi về cảm quan với Thơ mới (1932-1945).
Thời gian hoài niệm
Đây là kiểu thời gian nghệ thuật có trong thơ của mọi thời. Cơ sở của nó là một nét tâm lí chung nằm trong bản tính người. Nhân loại dường như có chung một đặc điểm là đi giật lùi tới tương lai. Quá khứ giống như “thiên đường đã mất” mặc dù sự thật không hẳn như vậy. Đáng suy nghĩ là quan niệm thời gian của Nho giáo. Xã hội lý tưởng đối với Nho giáo là xã hội cổ đại thời Nghiêu Thuấn. Quan niệm đó để lại dấu ấn trong ngôn ngữ Hán. Người Trung Hoa xưa gọi các thế hệ đã qua là “tiền nhân” (người đi trước). Quan niệm cho rằng cuộc sống loài người ngày càng tha hóa là chung cho cả phương Đông và Phương Tây.
Hoài niệm trong thơ Trung đại thường là hoài niệm về “tiền nhân”, “tiền triều” với tư cách là những gương mẫu về cuộc sống thịnh trị, về đạo đức. Hoài niệm trong Thơ mới là hoài niệm về một thời con người còn sống hòa hợp với thiên nhiên:“Ai có nhớ một thời hương phảng phất /Hạc theo trăng, tiên ở lẫn với người” (Xuân Diệu), hoặc là quá khứ bi tráng, “huy hoàng của Á Châu”, của những triều đại đã xa trong lịch sử dân tộc, đối lập với hiện thực tầm thường, tù hãm. Thời gian hoài niệm trong thơ trước 1975 hoặc là quá khứ mang truyền thống yêu nước và cách mạng, hoặc là quá khứ đau thương của cuộc đời cũ. Thời gian hoài niệm trong thơ sau 1975 với phương thức trữ tình cá nhân thường gắn với tuổi thơ và làng quê là những nơi mà con người dù nghèo cực được sống trong không gian đầy bóng mát của thiên nhiên, sự ấm áp của tình người và sự êm ái của niềm vui cộng cảm văn hoá truyền thống. Ở đây ta gặp lại tình huống tâm lý đã xảy ra với các nhà Thơ mới. Đô thị hiện đại vừa có sức hấp dẫn các nhà thơ Việt Nam vốn có căn cốt nông dân vừa làm họ chán ghét bởi lối sống thị dân, bởi sự căng thẳng trong lối sống cạnh tranh, phiền phức… Nguyễn Bính là người đã diễn tả rất hay tính lưỡng phân trong tâm trạng con người thời Thơ mới. Thơ ông đi về giữa hai bờ nông thôn và thành thị và dường như tất cả tình cảm của ông đều dành cho làng quê đang bị thành thị “xâm lăng” về văn hoá.
Các nhà thơ đương đại sống với thời gian hoài niệm như một nhu cầu tinh thần: tìm lại bình yêu cho tâm hồn. Ghi dấu ấn đậm nét nhất về thời gian hoài niệm là thơ Nguyễn Duy những năm tám mươi. Có thể tìm thấy trong thơ anh những nét điển hình tâm trạng của con người làng quê đang chuyển thành con người đô thị hiện đại. Một mặt, anh muốn sống với hiện tại và tham gia giải quyết những vấn đề lớn lao trong đổi mới tư duy, về hiện đại hóa đất nước (tiêu biểu là tiếng nói trữ tình công dân trong bài thơ dài “Đánh thức tiềm lực”).Trong thơ anh có những câu khá vô tình về làng quê: “Tôi trót sinh ra nơi làng quê nghèo / Quen cái thói hay nói về gian khổ…”
Mặt khác, con người mang “dấu ruộng”, “dấu vườn” trong thơ anh không nguôi nhớ về tuổi thơ và làng quê nghèo : “Tuổi thơ tôi bát ngát cánh đồng / Cỏ và lúa, và hoa hoang cỏ dại /Vỏ ốc trắng những luống cày phơi ải / Buốt nhức bàn chân phì phọp thở trong bùn”(Tuổi thơ).
Hoài niệm trong thơ anh làm xúc động người đọc bởi sự chân thực. Đó là tuổi thơ “Áo nâu, chân đất / Bữa cháo, bữa khoai / Đi cày và đi học / Bụng cồn cào, con chữ chạy xiêu xiêu” (Gửi về Lam Sơn). Với tính chân thực trong việc xây dựng hình tượng người mẹ (Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa), người bà (Đò Lèn) Nguyễn Duy đã có đóng góp tích cực vào xu hướng “giải cổ tích”, “giải huyền thoại” trong cái nhìn cuộc sống và con người: “Mẹ ta không có yếm đào/ Nón mê thay nón quai thao đội đầu/Ríu ran tay bí tay bầu /Váy nhuộm bùn, áo nhuộm nâu bốn mùa”.
Gắn với thời gian hoài niệm còn có nhiều bài thơ xúc động về người thân trong gia đình (Khóc giữa chiêm bao – Vương Trọng, Chị – Võ Văn Trực, Mẹ và quả – Nguyễn Khoa Điềm, Nhớ cha – Vũ Đình Minh, Qua hàng trầu vỏ – Nguyễn Thị Mai…). Không tô vẽ theo cảm hứng tụng ca lãng mạn, số phận của họ là số phận đích thực của nhân dân trong cuộc sống đời thường.
Trong hoài niệm về làng quê ở một số tác giả như Nguyễn Duy, Nguyễn Quang Thiều, Phạm Công Trứ… chúng ta như thấy một cố gắng “nối mạch” với hồn quê, với văn hóa dân gian để làm điểm tựa tinh thần, làm đối trọng với mặt trái của cuộc sống đô thị hiện đại có nguy cơ làm mai một nhân tính.
Một khi thế giới và con người được cảm nhận bằng cái tôi cá nhân thì tương lai đồng nghĩa với “tuổi già xồng xộc đến” (Chu Thăng), và sẽ đưa người ta đến “xứ không màu” (Chế LanViên). Kinh nghiệm của thế kỷ XX cho thấy tương lai không chỉ tươi sáng mà còn đầy hiểm họa. Kho vũ khí hạt nhân, sự mất cân bằng sinh thái, các loại bệnh tật vô phương cứu chữa… đang đặt tương lai loài người trước những dấu hỏi. Có lẽ vì thế mà thơ sau 1975 ít đề cập đến thì tương lai chăng?.

BÀI MỚI ĐẮNG

Truyện ngắn: BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN _ NGUYỄN HẢI ĐĂNG

Bên cánh gà chánh điện phần 1 BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN Xe dừng lại với tiếng xột xoạt trên mặt đường, như bao chuyến xe đã ghé qua từ thuở ...