TÁC PHẨM THAM GIA TRẠI SÁNG TÁC
VĂN HỌC NGHỆ THUẬT PHÚ YÊN - 2014
Theo kế hoạch sáng tác năm 2014 đã được Uỷ
ban nhân dân tỉnh Phú Yên phê duyệt, Hội Văn học Nghệ thuật Phú Yên đã tiến
hành mở Trại sáng tác Văn học Nghệ thuật ngay tại tỉnh nhà, thời gian từ
18/9/2014 đến 24/9/2014.Tham gia Trại sáng này có 38 anh chị em văn nghệ sĩ,
bao gồm các chuyên ngành: Văn học – Âm nhạc – Nhiếp ảnh và Hội hoạ.
Sáng 18/9 sau phần khai mạc Trại viết (Có
sự tham dự của Ban tuyên giáo tỉnh uỷ, cùng các vị lãnh đạo các cơ quan ban
ngành và phóng viên đài, báo chí) – Nhạc sĩ, nghệ ưu tú Nguyễn Ngọc Quang, Chủ
tịch Hội Văn học Nghệ thuật Phú Yên đã trình bày công trình nghiên cứu của mình
dày 80 trang A 4 về âm nhạc và văn hoá dân gian các dân tộc thiểu số miền Tây
tỉnh Phú Yên. Đây là một công trình nghiên cứu âm nhạc dân gian rất công phu,
có kèm theo nhiều hình ảnh và video nhạc
minh hoạ rất sinh động.
Sau khi nghe nhạc sĩ Nguyễn Ngọc Quang báo
cáo khái quát về công trình nghiên cứu của mình, anh chị em văn nghệ sĩ đã phần
nào lĩnh hội được những nét đặc sắc cơ bản về phong tục tập quán và văn hoá dân
gian các dân tộc thiểu số tỉnh Phú Yên, để rồi từ sẽ có những cảm hứng sáng tạo
mới về mảng đề tài này.
Trại sáng tác kỳ này được tiến hành với chủ
đề: Chung tay xây dựng nông thôn mới.
Chúng ta đã biết tỉnh Phú Yên, ngoài các
huyện ở duyên hải, đồng bằng, còn có ba huyện miền núi phía Tây là: Sông Hinh ,
Sơn Hoà và Đồng Xuân.
Trưởng Ban tổ chức Trại sáng tác VHNT phú
Yên năm 2014 này là nhà văn Huỳnh Thạch Thảo, Phó chủ tịch Hội.
Ngày 19/9/2014 Đoàn văn nghệ sĩ của Trại
sáng tác khởi hành lên huyện miền núi Sông Hinh để thâm nhập thực tế. Đêm ấy
Đoàn tham gia giao lưu hội cồng chiêng với dân làng Buôn Lê Diêm và chung tay
nhảy múa quanh đống lửa bập bùng. Thật là sôi động và ấm áp nghĩa tình.
Sáng hôm sau tham quan thắng cảnh hồ Trung
Tâm ở thị trấn Sông Hinh, rồi tạt qua Sơn Định, Sơn Hoà thăm Nhà thờ Bác Hồ.
Chiều 20/9 Đoàn đã trở lại thành phố Tuy Hoà với nhiều cảm xúc chứa chan và dự
cảm mới cho những tác phẩm VHNT ra đời…
Đêm 21/9 Trại sáng tác tổ chức Giao lưu và
giới thiệu tác phẩm đã phát hành trong hai năm 2013 – 2014. Tại buổi giao lưu
này Triệu Lam Châu đã được mời đọc bài viết của mình trước công chúng, với tựa
đề là: Chất phiêu bồng lãng du trong thơ Nguyễn Tường Văn.
Chiều ngày 24/9/2014 bế mạc Trại sáng tác
VHNT Phú Yên. Tại lễ tổng kêt này Triệu Lam Châu cũng lại vinh dự được mời
trình bày bài thơ mới của mình vừa sáng tác phục vụ chủ đề Chung tay xây dựng
nông thôn mới. Bài thơ đã được tán thưởng nồng nhiệt của bạn bè văn nghệ sĩ hôm
ấy.
Triệu Lam Châu xin trân trọng gửi tới bạn
bè gần xa hai tác phẩm mới của mình, đó là bài thơ Mình anh bên hồ đêm nay và
bài phê bình thơ Chât phiêu bồng lãng du trong thơ Nguyễn Tường Văn:
MÌNH
ANH BÊN HỒ ĐÊM NAY…
Một
mình anh bên hồ Trung Tâm đêm nay
Chỉ có
ánh sao trời như mắt em long lanh thuở ấy
Gió núi
mơ hồ nhẹ thoảng về vẫn nồng nàn là vậy
Buôn Lê
Diêm nghiêng ngả chiếc thuyền Giàng…
Không
gian mênh mang, cả ánh sao ngời cũng mênh mang
Cứ từng
đôi bơi về phía cuối trời xa lắc
Chỉ
mình anh lẻ đôi bên hồ đêm nay lặng phắc
Em ở xa
thẳm muôn trùng có thấy nóng tai không?
Thuở ấy
ta quen nhau trong Đại hội mừng công
Em là
cô thành niên xung phong mở đường giữa miền đất đỏ
Những
ngả đường cao nguyên phập phồng, mềm như hơi thở
Chở
tình ai tới các buôn làng
Rừng
núi hoang vu đan bao mạch đường mòn
Mỗi dịp
lũ về, suối cắt ngang lối bước
Cả cao
nguyên hồng lên từng gương mặt
Mỗi
buôn làng mong ngóng lối thông thương…
Thế rồi
bao mùa dãi nắng, dầm sương
Mỗi sớm
mai theo tiếng hót chim rừng thức dậy
Mỗi mùa
cà phê như nụ môi em nồng đỏ ấy
Em lại
nối dài thêm những nẻo đường hồng…
Thuở ấy
anh là chàng trai rong ruổi khắp công trường
Của
lũng núi sẽ thành hồ thuỷ điện
Một
vùng hoang vu, mái rừng như sóng biển
Nhưng
lòng chúng mình đâu có thấy hoang vu?
Bởi vì
theo con đường em mới mở, là những đoàn xe
Chở sắt
thép, xi măng tới công trường náo động
Hình
như có lửa tình em nung ngời thêm độ nóng
Mà bao
mối hàn đêm như bật sáng ánh mai lên!
Giữa
bộn bề công trường mênh mông, anh cứ thấy nụ cười hiền
Thơm
như nụ hoa ngàn mùa hương về ngây ngất
Điện sẽ
sáng bừng như nụ cười em soi rõ từng trang sách
Soi
phập phồng những bức thư tình ta sẽ gửi cho nhau…
Ôi thời
gian vèo bay như hạt mưa rơi mau
Như
chiều nắng cà phê, bỗng nhiên mờ sương khói
Như
tiếng chiêng bỗng chốc lặng im bên ngọn lửa nồng vời vợi
Nghe
lòng ai thổn thức phía canh dài…
Mách
bảo lòng anh, chỉ có ánh sao mai
Bên hồ
Trung Tâm này bồng bềnh sương núi
Đường
ta đã đến trọn buôn làng, điện đã sáng rừng ngời ngợi
Ngỡ
tình ta ngấp nghé ánh môi thơm
Vậy mà
chúng mình cứ như sao mai sao hôm
Anh bên
này, nụ cười em bên ấy
Em là
Vầng trăng tiên của lòng anh, lộng lẫy
Đi suốt
đời… chưa với tới trăng em…
Chiều
23 tháng 9 năm 2014
Triệu Lam Châu
CHẤT PHIÊU BỒNG LÃNG DU TRONG THƠ NGUYỄN
TƯỜNG VĂN
Đầu năm 1980 tôi được Tổng cục Địa chất
điều động vào làm công tác giảng dạy tại Trường trung học chuyên nghiệp Địa
chất 2 (Nay là Trường Cao đẳng Công nghiệp) thị xã Tuy Hoà. Vậy là
có dịp đến đọc sách ở thư viện Hải Phú. Tại đây tôi được làm quen với
anh Dương Thái Nhơn, cán bộ thư viện, người khởi xướng Đêm thơ Nguyên tiêu Tuy
Hoà năm 1981 xa xưa. Cũng nhờ anh Nhơn mà tôi được gia nhập Hội những người yêu
đọc sách. Sau khi gia nhập Hội này, tôi mới được làm quen với nhà thơ Nguyễn
Tường Văn – một con người giàu nhuệ khí, yêu thơ văn say đắm và có giọng đọc
thơ sang sảng, giàu ấn tượng, chinh phục người nghe.
Thế rồi tình cờ trên Tạp chí Văn nghệ Phú
Khánh hồi ấy, tôi đọc được bài thơ Nghĩ về mẹ của anh. Một bài thơ tràn trề
tình cảm của một người con đối với mẹ già - làm cho độc giả là tôi khi đó cảm
tình ngay với hồn thơ anh:
Khi con về đường
xóm nhỏ lên đèn
Mẹ tựa cửa mong
những lần con vắng
Trời vào đông sao
chiều nay gió lặng
Giúp con về bên mẹ
đêm nay…
Vậy là con đi công tác xa và trở về nhà với
mẹ trong một buổi chiều đông. Trời thì buốt lạnh – mà lòng con lại ấm áp vô
ngần bởi được sưởi ấm tình mẹ nồng nàn bấy năm qua.
Tiếp sau đấy là những năm tháng dài dặc
hàng ba chục năm ròng chúng tôi sinh hoạt với nhau trong Hội văn học nghệ thuật
thị xã Tuy Hoà, Hội văn nghệ Phú Khánh, rồi Hội văn nghệ Phú Yên sau này. Tôi
chỉ được đọc thơ anh ở những bài thơ lẻ. Chính vì vậy tôi chưa lẩy ra được chất
thơ chủ yếu trong hồn anh là gì, dẫu ngoài đời chúng tôi đã là bạn của nhau từ
năm 1980 xa xăm.
Và một buổi chiều thu tháng 9 năm 2013 này,
sau khi anh phản hồi rằng, anh thích bài hát Mùa trăng núi Nhạn của Triệu Lam
Châu trên mạng – anh nhắn thêm tin “Mời
Châu đến nhà mình chơi, sẽ có quà cho bạn”. Tôi tò mò quá,
và sáng hôm sau tôi liền đến nhà anh ngay.
À, hoá ra là anh vừa phát hành
tập thơ Mênh mông trước biển*, dày gần hai
trăm trang. Tôi đã đọc kỹ tập thơ này và mới lẩy ra được Chất phiêu bồng lãng
du trong thơ Nguyễn Tường Văn đó. Dĩ nhiên trong tập thơ này có nhiều bài nói
về nhiều chủ đề khác nhau. Song theo cảm nhận của Triệu Lam Châu, khi thơ anh
chạm vào vỉa phiêu bồng lãng du vốn sẵn có trong lòng mình – thì câu chữ như có
hồn nhập vào một cách say đắm sảng khoái và phóng khoáng hẳn lên ngay. Thế rồi
tôi trộm nghĩ: Có lẽ mình là dân địa chất, quen với chất phiêu bồng lãng du đây
đó khắp từ bắc chí nam để tìm quặng mỏ - mà dễ đồng cảm với thơ Nguyễn Tường
Văn ở khía cạnh này chăng?
Thì đây, mời bạn đọc cùng tôi đi vào vỉa
tầng đặc sắc này của thơ anh:
Giã biệt quê nhà Hề viễn xứ
Cuối trời mây
trắng toả rừng thu
Tóc mẹ già búi
tròn nỗi nhớ
Sông chiều trôi
mãi kiếp lãng du…
Ngẫm sâu bài thơ bốn câu này ta thấy: Tấm
lòng hừng hực của chủ thể bài thơ này, như muốn tràn ra làm ướt cả trang thơ
đây rồi. Một câu thốt ra tự lòng mình thật sảng khoái Giã biệt quê nhà Hề viễn xứ -
một sự lâng lâng háo hức dẫn anh lên đường - Bởi vì một Vầng bí ẩn rất đỗi diệu
kỳ đầy quyến rũ đang chờ phía trước… Cuối
trời mây trắng toả rừng thu… Câu đầu đang ở mạch chở hồn anh bay vút đi nơi
xa, lại có thêm một chữ HỀ, thật sảng khoái, thật đắc ý, như thể một câu hát
đệm KHOAN KHOAN HÒ KHOAN trong bài Quảng Bình quê ta ơi (Của nhạc sĩ Hoàng Vân)
– để đưa hồn bay vút cao đến tận trời, nơi long lanh nhất và toàn bích nhất của
sự tưởng tượng.
Dẫu khi ngoái nhìn lại quê nhà, người lãng
tử có một chút se lòng… Tóc mẹ già búi
tròn nỗi nhớ… Nhưng chất lãng du cứ lại cuốn anh đi, đi mãi. Đó là tư chất
của đời anh mất rồi, làm sao mà cưỡng lại được cơ chứ … Sông chiều trôi mãi kiếp lãng du…
Sẽ có bạn đọc phân vân rằng: Thực tế địa
bàn hoạt động của nhà thơ – phóng viên Nguyễn Tường Văn, không rộng lắm: Tuy
Hoà – Đà Lạt – Nam Bộ - Hà nội… Một địa bàn nhỏ hẹp như Việt Nam mình như vậy, thì chất lãng du
của thơ Nguyễn Tường Văn sẽ như thế nào đây, có bị bó hẹp theo ranh giới địa lý
không?
Triệu Lam Châu nghĩ rằng: Chất lãng du ở
bên trong tâm hồn mới quan
trọng và quyết định chất lượng thơ,
chứ đâu phải cứ đi nhiều là thơ lãng du
sẽ hay đâu. Tất nhiên nếu địa bàn hoạt động của Nguyễn Tường Văn rộng ra
cả ngoài biên giới quốc gia, với tâm hồn
nhạy cảm như anh – thì hẳn thơ anh sẽ có thêm những chất lượng mới.
Một trong những nét điển hình của tâm hồn
người lãng tử là thích khám phá những điều mới lạ. Cái lạ như hớp hồn anh, làm
cho anh bần thần, ngơ ngẩn…mà chiêm nghiệm … và hạnh phúc. Điều này thể hiện rõ
nhất trong bài Ngơ ngẩn Thăng Long. Người lãng tử trong bài thơ này, hẳn đã lâu
từ bao năm nay Lãng du bằng tâm tưởng đến Thăng Long rồi – nên giờ đây khi trực
tiếp đặt chân đến mảnh đất của hồn mình – anh ta vồ vập…Qua miền Quan Họ trói hồn anh. Và cứ thế mà cứ mặc sức tưởng tượng,
càng tưởng tượng càng cảm thấy hạnh phúc dâng trào. Bởi vì theo mạch tưởng
tượng thần diệu ấy – là cả một lớp lớp hào quang của quê nhà và của lịch sử như
hẹn nhau dồn dập tụ về:
Ta nơi tháp Nhạn
về tháp Bút
Hồ Gươm soi bóng
ngỡ sông Ba
Dời đô, trăn trở
lòng Công Uẩn
Nguyễn Huệ quân
reo đêm Đống Đa
Nếu không đến Thăng Long trước bằng tưởng
tượng say đắm bấy năm ròng trong khao khát vô ngần của sự gặp mặt – thì khó
lòng mà có những vần thơ, tưởng như nhẹ như không - mà chứa chan sức nặng của
lịch sử ông cha thấm đẫm ánh tự hào như vậy:
Một chiều rảo bước
qua Giảng Võ
Chừng như cung
kiếm áo hoàng bào
Tiền nhân đuổi
giặc vương đâu đó
Trên vòm cây, con
phố lao xao
Ta có cảm tưởng bài thơ như bột phát ra từ
một tấm lòng đã được ủ chín những vỉa tầng lấp lánh ấy từ lâu – nên bài thơ
tuôn chảy, lôi cuốn lòng người như một bài hát say nồng. Như thể qua một ánh
mắt ngỡ như mơ hồ - mà đã phải lòng ngay rồi đó. Một giọng gái ngọt sông Hồng,
một chút rét nàng Bân – vốn là những nét lạ so với miền Nam Trung bộ quê anh –
và hình như đã thành một phần hồn của chàng lãng tử rồi:
Mai về phương Nam
đường xa lắc
Dư âm giọng gái
ngọt sông Hồng
Chút rét nàng Bân
nơi xứ Bắc
Nghe lòng ngơ ngẩn
chốn Thăng Long
Tôi cứ đinh ninh rằng cái ngơ ngẩn rất nặng
ký về phương diện thi ca ấy của lãng tử thi sĩ Nguyễn Tường Văn – là điểm nút
của sự giao hoà giữa hiện thực cuộc sống và cảm xúc thơ nhiệt thành say đắm
nhất. Và đó chính là sự thăng hoa tột cùng của lượng đời chan chứa trong lòng
anh vậy. Tôi gọi đó là sự thành công trong thơ anh!
Nguyễn Tường Văn là một con người từng
trải, lãng du phiêu bạt nhiều nơi cả trong thực tế và trong tưởng tượng với sự
chiêm nghiệm sâu xa về thế sự, lịch sử cha ông và cuộc đời – bằng sự run rẩy
tinh tế của người nghệ sĩ – nên thơ anh dễ dàng đi đến trái tim người đọc bấy
năm ròng.
Tâm hồn anh trải dài và đắm mình vào hiện
thực từ những ngày trước giải phóng năm 1975 đến nay. Mảng thơ trước năm 1975
của anh, đã có nhiều người bàn luận và đánh giá. Tôi chỉ muốn nói thêm một điều
rằng: Thơ anh ở giai đoạn ấy để lại ấn tượng nhất là hai tác phẩm điển hình
Tình ca cho tự do và Viết từ trung tâm nhập ngũ.
Anh lãng du cùng cuộc đời, cùng với thơ –
với một tâm thế của một người yêu quê hương đất nước nồng nàn và thấm đẫm một
niềm tự hào về lịch sử hào quang của dân tộc.
Nhà văn Nga nổi tiếng Rứt Khêu đã từng nói
đại ý: Càng đi xa, càng nhìn thấy rõ ngọn núi. Đó là một câu nói giản dị mà
giàu hình tượng, hay cà nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Điều này chính Triệu Lam Châu
đã từng trải nghiệm suốt mấy chục năm ròng sống xa quê. Do đó tôi thấy điều ấy
vận rất đúng vào vào thơ Nguyễn Tường Văn. Mỗi lần đi xa trở về quê, anh đều có
những bài thơ dạt dào cảm xúc với một cái nhìn mới mẻ:
Hôm nay anh trở về
qua đường làng cũ
Tiếng hát nào hoà
sóng biển xôn xao…
Đi xa trở về với một túi khôn muôn nẻo dần
đầy lên trong lòng, anh bồi hồi nhìn cảnh cũ với một ánh nhìn mới tinh khôi:
Ở biển này anh bao
lần ngồi nghe sóng vỗ
Sao hôm nay quá
đỗi diệu kỳ
Sóng biển rạt rào
hay tình yêu nồng cháy
Giữa bình minh
thuần khiết đắm say
Và anh nghe ở bề sâu của tâm hồn mình đầy
rung động về lịch sử và văn hoá rực ngời của nước nhà:
Anh nghe âm vang
điệu Kiều trong tiếng sóng
Lòng bỗng dạt dào
khúc hát thuở Hùng Vương
Chính vì hôm nay –
Cha phải đổ máu xương
Chính vì hôm nay –
Mẹ suốt đời tất bật…
Nhiều khi tôi cứ nghĩ lẩn thẩn rằng: Nếu
nhà thơ Nguyễn Tường Văn không có - Chuỗi
đời dài anh sống lãng du – thì liệu anh có được những bài say đắm như Gửi
thành phố quê nhà và đặc biệt nhất là tác phẩm Quê mẹ không? Chắc chắn là
không, tôi xin khẳng định như vậy.
Một kiểu thơ phiêu bồng lãng du rất điển
hình, có một điều gì đó vừa như phong sương vừa liêu trai mà lại hiện thực đậm
đà chất nghệ sĩ:
Chuỗi đời dài anh
sống lãng du
Đâu nhớ nổi một
tên làng tên đất
Mãi nghêu ngao
“người từ trăm năm về nghe tình động”
Điệu u hoài “nhìn
những mùa thu đi”
Mắt xa vời trông
“mùa đông Pa ri”
Tổ quốc quê hương
ngỡ chừng rất lạ…
Từ những nguồn năng lượng lãng du ấy trong
tâm hồn, anh trở về quê mà nhìn hiện thực thấy ánh lên những sắc màu mới của
tình quê hương xứ sở.
Hôm nay lòng anh
như biển cả
Theo triều lên tim
rào rạt tháng ngày
Muốn dâng trọn
ngọn sóng kia tiếp nối đợt sóng này
Thêm sức nước nâng
thuyền về nặng cá…
Tôi đặc biệt thích bài thơ Quê mẹ của
Nguyễn Tường Văn. Có thể đây là một bài thơ thành công điển hình nhất của anh
sau giải phóng năm 1975. Một bài ca sáng láng ca ngợi quê hương Hoà An với
những kỷ niệm máu thịt của tác giả thời thơ ấu còn chìm đắm dưới gót giày của
quân xâm lược – và ngày hôm nay có bình minh tươi sáng đang đến làm rạng rỡ
lòng người và cuộc đời.
Hoà An! Hoà An!
Hai mươi năm con
lại gọi tên Người
Như chính tên thật
của mình giờ đây ghi vào lý lịch
Mỗi truông làng
còn khắc ghi kỳ tích
Từ luỹ tre vang vọng rì rào
Thuở cha lên đường
nắng ngập ánh vàng sao…
Đọc đoạn thơ trên ta thấy một niềm thiêng
liêng sâu lắng, một sự nghẹn ngào chan chứa trong lòng khó nói lên lời. Đúng là
tâm thế của một người con đi xa trở về quê cũ, hết sức bùi ngùi lắng đọng sâu
xa. Không đắm mình sâu xa vào những sự vật tưởng như bình dị mà thần diệu của
quê nhà, làm sao mà nghe được trong tiếng vọng rì rào của ngàn lá tre làng - mà thấy được hình ảnh ngày xưa cha lên đường
nắng ngập ánh vàng sao…
Thế
rồi theo tiếng vọng thần diệu rì rào của luỹ tre làng kia, mà thấy lại kỷ niệm
rực ngời của một thời tuổi thơ yếu dấu ấy:
Mía Ân Niên còn
ngọt giọng bài chòi
Chợ Quán – Phú Ân
rộn rã chào mời
Bánh tráng Đông
Bình dẻo thơm mùi gạo
Ruộng Đông Phước
hai mùa vang tiếng hát
Ngỏ lời ái ngại xa
xưa:
- Muốn về Vĩnh Phú
ăn dưa
Sọ e Vĩnh Phú đãi
đưa nhiều lời…
Khi đọc những vần thơ say đắm như vậy của
Nguyễn Tường Văn, Triệu Lam Châu cứ muốn thốt lên rằng: Chao ôi, tôi ghen với
các bạn đấy. Các bạn là công dân của Hoà An, Tuy Hoà, công dân của những Vần
thơ quốc vương Hoà An đó nhé. Tự hào biết chừng nào. Tôi cũng là công dân của
Hoà An đây – nhưng là Hoà An của Cao Bằng biên cương xa ngái ấy.
Thế rồi những vần thơ như chắt ra từ gan
ruột mình, làm lay động người đọc:
Ơi Hoà An, nơi cắt
rốn chôn nhau
Hai mốt năm mẹ rứt
ruột vay nuôi con từng lon gạo
Ngày giáp hạt vây
quanh nồi cháo
Áo vá chằm không
che nổi rét vào đông
Những đêm trời đổ
mưa giông
Chiếc chõng tre
luôn đổi chiều tránh dột
Nhà mẹ đấy giặc
càn vẫn đốt
Khóm cau gầy xơ
xác đứng bơ vơ…
Đúng thế, nhắc đến mẹ già là nhắc đến Vầng
sáng thiêng liêng nhất của lòng mình. Và càng thấm thía những ngày xưa cơ cực
bao nhiêu – thì ngày nay anh càng thấy sáng láng bấy nhiêu khi quê hương hết
bóng giặc thù và đang vươn mình lên trong hạnh phúc.
Hoà An! Hoà An!
Người thức dậy sau
bao năm dài chờ đợi
Như chuyện ngày
xưa công chúa ngủ trong rừng
Theo mùa xuân
hoàng tử về lay gọi
Nỗi vui trào lên
mắt mẹ rưng rưng…
Tôi đồ rằng: Nếu tâm hồn Nguyễn Tường Văn
không từng một lần phiêu du vào những tác phẩm cổ tích của phương tây – thì làm
sao anh có những vần thơ tự nhiên và nhuyễn như vậy khi nói đến hình tượng nàng
công chúa ngủ trong rừng…trong văn cảnh đang phản ánh về một miền quê lam lũ phương đông Hoà An – Phú Yên của Việt Nam
xa thẳm này.
Và chất phiêu bồng lãng du của một công dân
chân chính yêu quê hương đất nước đã cho anh một vần thơ phóng khoáng lay động
lòng người:
Hoà An! Hoà An!
Con xin làm loài
chim bay về cất cao tiếng hót
Giữa bầu trời quê
mẹ buổi bình minh…
Thời nhà thơ Nguyễn Tường Văn còn trai trẻ
- thì hành trình phiêu du của anh nhắm đến những miền đất lạ của hiện thực và
tưởng tượng – để tích luỹ năng luợng của sự hiểu biết – để truyền lửa lòng cho
bao thế hệ trẻ vùng lên đánh giặc thù:
Bút ta cầm là gươm
là giáo
Mực ta dùng – máu
của nhân dân
Bút vung lên tan
quân cường bạo
Mực xuống đường
đất cũng bâng khuâng…
Nhà thơ Nguyễn Tường Văn phiêu bồng lãng
du, không phải chỉ là một cuộc du ngoạn bình thường cho cá nhân mình – mà còn
là một sự dấn thân vào hiện thực cuộc sống, tích luỹ vốn sống, chiêm nghiệm về
những gì xảy trong đời sống của nhân dân – từ đó làm nảy sinh những vần thơ
giàu cảm xúc, cống hiến cho cuộc đời này. Đó là một nhà thơ giàu bản lĩnh và
giàu ý thức công dân. Thơ anh là một loại thơ độc đáo có ích cho đời.
Và mấy chục năm sau, khi đã lớn tuổi rồi –
thì anh lại làm một cuộc hành trình trở về với dĩ vãng. Cuộc hành trình này
không sôi trào hừng hực như thời còn trẻ
trung, mà nó đằm sâu trong trải nghiệm và suy ngẫm sâu xa.
Những bài thơ tiêu biểu cho cuộc phiêu du
trở về với dĩ vãng là: Với sông Mường – Thăm bạn – Nhớ chị - Trở về với thanh
tân…
Biết bạn chờ ta
nơi dòng nước
Bốn mươi năm chưa
trở lại sông Mường
Phương xa bạn gọi
chân chùn bước
Vẳng nghe như sóng
dội Tiền Đường
Bạn đọc thấy rồi đó. Lời thơ rất giản dị mà
chứa chan cả một trữ lượng tình cảm dồi dào nén chặt những bốn muơi năm rồi, chưa gặp lại nhau. Một niềm khao
khát vô bờ. Có thể nói tình bạn là một phần rất không thể thiếu được trong tâm
hồn của Nguyễn Tường Văn. Tôi mạo muội lý giải điều này như sau: Những người
lãng tử gặp nhau ở chí hướng phiêu bồng thời trẻ trung, hẳn là có rất nhiều kỷ
niệm máu thịt – Do đó khi đã lớn tuổi rồi (mà người lớn tuổi lại chỉ sống bằng
tình cảm hoài niệm là chủ yếu) nên nhà thơ có một nhu cầu rất mãnh liệt về tình
bạn bè, nhất là những người bạn cùng chí hướng thuở thanh xuân xa xăm…
Ai về phương ấy
vin khúc hát
Lều cũ rêu phong
có đợi chờ
Một thuở vắt ngang
tầm đại bác
“Đì đoàng”… đạn nổ
vẫn đọc thơ…
Tôi cho rằng khổ thơ trên đây đã thể hiện
một tình bạn vào loại độc đáo nhất của thi ca Việt Nam thời hiện đại…“Đì đoàng”… đạn nổ vẫn đọc thơ…Một câu
thơ hay đến bất ngờ. Tôi, Triệu Lam Châu, cũng là dân làm thơ – nên tôi đồng
cảm tuyệt đối với vần thơ này của Nguyễn Tường Văn. Phần lớn những người làm
thơ chân chính, họ coi việc làm thơ là lý tưởng lồng lộng như ngọn núi Chô Mô
Lung Ma của đời mình, là lý do họ sống trên cõi đời này. Cho nên họ sẵn sàng xả
thân vì thơ như vậy đó. Và như người ta thường nói THƠ ĐÃ CHỌN HỌ ĐỂ PHẢN ÁNH
CUỘC ĐỜI NÀY VẬY.
Nương theo mạch phiêu bồng lãng du trở về dĩ
vãng của hồn thơ Nguyễn Tường Văn, ta bắt gặp những vỉa thơ đầy thú vị và cảm
động về tình bạn độc đáo của họ một thời trẻ trung. Bài Thăm bạn – một lần nữa
nhà thơ cho chúng ta thấy một sự đói tình bạn triền miên đến mức nào, mà anh
phải:
Nói dối vợ, tao đi
công tác
Báo dối cơ quan vợ
ốm nhà
Hun hút hai ngày
tìm thăm bạn
Núi đồi tiếp biển
tận trời xa…
Tôi có cảm tưởng rằng: Nếu Nguyễn Tường Văn
thiếu mất tình bạn trong lòng mình – thì hẳn anh sẽ … Đau đớn lòng ta chết nửa con người… (Theo ý nhà thơ Giang Nam )
chăng? Máu nghệ sĩ và chất lãng du đã ngấm vào anh từ tiền kiếp rồi – chính vì
thế anh sống đúng theo những gì mà tạo hoá đã mã hoá vào số phận của anh mà
thôi - Mà đó cũng là một hình thái của hạnh phúc đấy – hạnh phúc tinh thần –
hạnh phúc sáng tạo của một người nghệ sĩ chân chính.
Trong cuộc hành trình trở về với dĩ vãng
của hồn thơ Nguyễn Tường Văn, tôi thấy sâu đậm nhất là chùm thơ viết về cảnh
sắc và tình người lắng sâu của Đà Lạt mê hồn. Ôi Đà Lạt, Đà Lạt mộng mơ đối với
bao du khách mới đến tham quan. Và người ta choáng ngợp trước vẻ đẹp kiêu sa ảo
huyền lãng đãng mờ sương thần tiên của xứ sở này. Song đối với Nguyễn Tường Văn
những nét huyền diệu ấy của thành phố và con người xứ này từ ngày xưa – nay đã
hoá thành những vỉa vàng sâu nặng của tình người. Đọc lên là thấy rưng rưng,
bởi vì tác giả đã nạp dòng điện của tình cảm lòng mình vào những câu thơ đầy
lửa ấy rồi:
Em rong ruổi trên
đường đời phiêu bạt
Đêm chuyển mùa
nghe mưa đổ rừng thông
Cầm đồng bạc chị
cho thời lưu lạc
Em rưng rưng một
thuở nao lòng…
Vâng, hồi trẻ Vầng lãng du lôi cuốn anh đi
hăm hở tới bao chân trời xa đến nghẹn lòng… Và giờ đây khi mái tóc trắng như
sương, anh lại trở về mà sưởi ấm lại nguồn xưa, mà nghe lại tiếng nói cười rộn
rã ánh lên như kim cương, kim cương của một trời kỷ niệm không bao giờ phai
trên cõi đời này:
Căn nhà gỗ, ôi,
sao ấm áp
Tiếng nói cười rộn
rã bên nhau
Tuổi sáu mươi quay
về thành phố cũ
Tóc huyền chị xưa,
giờ mây trăng ngang đầu…
Đúng vậy… người lớn tuổi chỉ sống chủ yếu
bằng tinh thần thôi. Nghe tiếng nói cười ấm áp ấy và vầng tóc trắng như mây ấy
của chị - mà nước mắt cứ tự nhiên tuôn ra dàn dụa rồi. Đó cũng là những khoảnh
khắc hạnh phúc của cuộc đời – Hạnh phúc của sự đoàn viên với kỷ niệm mờ xa…mà
cháy bùng lên như núi lửa phun trào…
Trở về với Đà Lạt, nơi nhà thơ từng học
hành gắn bó thời trẻ trung – anh
thấy như trở về với thanh tân. Đây là một
tứ thơ rất hay. Và anh trả nợ thành phố này theo cách rất riêng của một nghệ
sĩ, một nhà thơ giàu ân nghĩa:
Anh trở lại thành
phố này làm thơ trả nợ
Nợ những bạn bè
sinh viên cùng bá vai hát về
“Một ngày mai khi
hoà bình” trước lúc nhận phần ăn nơi quán cơm xã hội
Nợ quán cóc chị
Sáu đô-mi-nô một đờ-mi đen ngày chủ nhật trời mưa
Nợ em nụ hôn và
cành dã quỳ bên lề đường về Dinh Một
Nợ những chiều
ngắm hồ Xuân Hương khi hoàng hôn xuống
Nợ bao lần chơi
trò ú tim đuổi nhau trên đồi cù…
Khi đọc những vần thơ có vẻ sang sảng tự
hào về món nợ của mình như vậy của anh, tôi mỉm cười buột miệng: Trời ơi, nợ
nặng như thế thì làm sao mà trả nổi đây,
hỡi nhà thơ Nguyễn Tường Văn thân mến của tôi?
Có thể là do anh thành thực kể “tội” nợ của
mình như vậy – mà làm cho Một Đấng tối cao vô hình nào đó của sự mơ hồ bảng
lảng rất đỗi xa xăm, mủi lòng – mà phán rằng: Chính vần thơ thú tội của ngươi
có vẻ như lắm lời kia, đã xoá hết nợ cho ngươi rồi đó – để ngươi có thể bình
tâm mà đi chơi trò ú tim đuổi nhau trên
đồi cù…như thời thanh xuân ấy.
Trên đây là sự giãi bày cảm xúc của tấm
lòng một bạn đọc là Triệu Lam Châu mạo muội nêu lên vậy thôi. Song một điều
chắc chắn rằng: Thơ Nguyễn Tường Văn được chưng cất lên từ những vỉa vàng ròng
của cuộc đời anh – do đó nó có lửa và có sức neo đậu lại trong lòng người.
Tuy Hoà – Đà Lạt – Đất nước Việt Nam -
Vầng phiêu bồng lãng du của tạo hoá đã cho chúng ta, những bạn đọc yêu thơ chân
chính – một hồn thơ Nguyễn Tường Văn giàu nghĩa tình đối với lịch sử, nhân dân
và Tổ Quốc – như vậy thật đáng quý.
Chúng ta chân thành chúc nhà thơ luôn mạnh
khoẻ và gặt hái nhiều thành công mới trong công việc làm thơ đầy nặng nhọc mà
cũng rất đỗi vinh quang giữa cuộc đời này.
Tuy Hoà
9/2014
Triệu Lam Châu
Đường trời:
trieulamchau@gmail.com
Số nối:
0983 825502
* Mênh
mông trước biển – Thơ Nguyễn Tường Văn – Nhà xuất bản Hội nhà văn – 2013.


Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét