thư từ bài vở xin gửi về : hothanhngancm@gmail.com HỒ THANH NGÂN Hội viên hội văn học nghệ thuật Cà Mau Hội viên hội văn học nghệ thuật Phú Yên Hiện sống và viết tại Cà Mau Tác phẩm đã xuất bản : Sông Đốc Ngày Nắng Muộn - Nxb Thanh Niên (2016) Phương Nam Lộng gió - Nxb Hội Nhà Văn (2018) Trường Ca Nhớ Phú Yên - Nxb Hội Nhà Văn (2019 ) Chiều Ở Phía Ngược Gió - Nxb Hội Nhà Văn (2020)
Thứ Tư, 19 tháng 11, 2025
VĂN HỌC TRONG THỜI BIẾN ĐỘNG: VỊ THẾ, TÁC ĐỘNG VÀ NHỮNG LỰA CHỌN TINH THẦN - TRẦN QUỐC TUẤN( TUẤN TRẦN)-
VĂN HỌC TRONG THỜI BIẾN ĐỘNG: VỊ THẾ, TÁC ĐỘNG VÀ NHỮNG LỰA CHỌN TINH THẦN
Nhìn từ thực tiễn bối cảnh đương đại, không khó để nhận ra sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ, sự biến đổi của cơ cấu xã hội và những dịch chuyển trong mô hình kinh tế – văn hóa đã làm đảo lộn nhiều trật tự vốn được mặc nhiên ổn định:
Văn học, từng giữ vai trò trung tâm tinh thần trong nhiều giai đoạn lịch sử, rõ ràng không còn ở vị trí đặc quyền ấy nữa. Khái niệm “giảm sút” là có thật nếu nhớ lại thời tiếng nói nhà văn được lắng nghe trọng thị, thời tác phẩm văn học còn có sức tạo nên những cuộc đối thoại rộng lớn vượt khỏi địa hạt văn chương và kịch nghệ – thời kỳ chống Pháp, chống Mỹ, rồi Đổi mới.
Hiện nay, sách vẫn ra nhiều và số lượng tác giả mới liên tục tăng, khiến người ta có cảm tưởng viết văn là việc dễ dàng, thậm chí nhẹ dạ có thể nghĩ rằng hoạt động văn học không nên được “quan trọng hóa”. Nhận thức này, xét ở một góc độ, là đúng: văn học chỉ là một trong vô số lĩnh vực của đời sống. Nhưng chính sự thật "rớt giá" của văn học nước nhà so với tương quan giai đoạn trước đó có tác động tích cực để giúp điều chỉnh nhận thức/ ảo tưởng vị thế từng đạt được phải được duy trì vĩnh viễn... Không thời hoàng kim nào bất biến, nhất là khi nhiều thời hoàng kim trong văn học dân tộc được xây dựng trên những nền tảng vốn đã chông chênh ngay từ đầu.
Tuy vậy, việc thừa nhận sự giảm sút không đồng nghĩa nuối tiếc hay bi quan. Văn học buộc phải trở về trạng thái phát triển “bình thường”: chịu sự chi phối của thị trường, của bước phát triển mới bởi công nghệ, của những thay đổi trong kết cấu kinh tế – xã hội. Không thích ứng được thì đánh mất vị thế là điều tất yếu.
Nhưng văn học vẫn có khả năng tìm lại vị trí đã mất trong một môi trường đa nguyên văn hóa, đa nguyên tinh thần, miễn là nó nhận ra đâu là vùng có thể tạo ra giá trị đích thực. Một nguyên nhân quan trọng, ít khi được nhìn thẳng, là thái độ của thể chế chính trị đối với văn học – khi văn học được trao những “nhiệm vụ” cụ thể, được kỳ vọng phải đáp ứng những mục tiêu "ngoại văn học" thì chính kỳ vọng ấy làm nghèo đi sinh khí sáng tạo. Những lời tri hô về “việc chưa có tác phẩm lớn xứng với kỳ vọng của nhân dân” nghe có vẻ cao cả nhưng thực ra sến rỗng, bởi chúng chỉ nhìn nguyên nhân từ một phía và bỏ qua chính những điều kiện kìm hãm khả năng xuất hiện tác phẩm lớn.
Nhìn vào thực tiễn, văn học tự đánh mất sinh khí không chỉ vì sự thu hẹp của vị thế xã hội mà còn vì những minh họa thô vụng khiến nó chìm lấp dưới lớp giải trí hào nhoáng của thời đại mới. Văn học thiếu tư tưởng lớn, thiếu khát vọng lớn; thiếu chí/chính khí nên người viết phải đầu tư nhiều cho các mánh khóe, tinh luyện hệ thống mánh khóe như một “thủ thuật sinh tồn”. Điều này đáng cảm thông nhưng khó mà ngưỡng mộ. Thái độ hả hê khi “đá xéo” được một vài vấn đề “nhạy cảm” mới chỉ là cách làm xiếc tinh thần chứ chưa đủ để tạo nên tư thế văn học ngang hàng với thế giới. Giữa đả phá chính trực và hành vi kích động "bôi xấu” nông cạn là một khoảng cách xa – và phần đông vẫn chưa vượt qua được khoảng cách ấy.
Những "hiện tượng", "sự vụ" văn học (Ngựa Trời, Mở Miệng, Ba Câu, Haiku, Lò Mổ, Thơ "Mê Trễ", Trăm Ngàn...) vẫn cho thấy sức tác động của văn chương vào đời sống. Nhưng muốn đo lường tương đối được mức độ cần đặt vào khung thời gian dài, vượt khỏi cảm tính của “hiệu ứng truyền thông”. Đồng thời, nhận xét về sự suy giảm vai trò văn học chỉ đúng với một bộ phận vốn tự cho mình là trung tâm văn học. Thế giới văn học phức tạp hơn nhiều: có cái suy, cái thịnh, cái bên lề nhưng mới mẻ; có những thực hành nghệ thuật “làm xiếc” giữa chính thống và phi chính thống; và có những dịch chuyển vai trò không ngừng tạo nên sự năng động phát triển. Có một đội ngũ tác giả không nhận diện truyền thông bề mặt, chọn vị trí lưu động bền bỉ dưới "chiều sâu", tác phẩm, đường văn của họ đáng ghi nhận... Nhìn theo hướng này, bi quan về vận mệnh văn học là điều không cần thiết.
Văn học tác động vào xã hội theo nhiều cách: không chỉ cái mới mẻ tiến bộ mới tạo ra thay đổi, mà chính cái cũ kỹ, xơ cứng – khi phơi bày sự cũ rích của mình – cũng góp phần thúc đẩy độc giả tìm đến những thế giới tinh thần mới. Văn học, dù ở thời điểm nào, cũng luôn là một tấm gương trong đó xã hội soi thấy cả ánh sáng lẫn bóng tối của chính mình.
Về phương diện nội tại, văn học Việt Nam đang phân hóa rõ rệt theo các xu hướng thẩm mỹ khác nhau. Sự đa dạng này là tất yếu trong bối cảnh xã hội đa nguyên. Sức mạnh của văn học không nằm ở sự đồng nhất mà ở năng lực mở ra những khác biệt thẩm mỹ, những xung đột quan niệm, những va chạm cần thiết để đổi mới. Khi sự đa dạng bị loại bỏ, văn học chỉ còn là một thực thể vô hồn.
Trong vài năm qua, đời sống văn học chứng kiến sự phân hóa mạnh mẽ trong quan niệm, trong thực hành nghệ thuật và đặc biệt trong cách đánh giá các hiện tượng văn chương. Các giải thưởng chính thống bị “thương mại hóa” hoặc thậm chí “tầm thường hóa” giá trị. Điều đáng chú ý hơn cả là chưa xuất hiện sự kiện văn học đích thực – những gì được xem là sự kiện thường lại nằm ngoài văn học. Đã đến lúc cần để mọi thứ diễn ra tự nhiên, tránh lạm dụng từ “sự kiện", "hiện tượng", "vụ" (Vụ Nhã Thuyên) như một cách thổi phồng giả tạo, và đón nhận sự thẩm định chậm rãi nhưng chắc chắn của thời gian.
Song song với những nhận diện trên cũng cần nhận thức lại về vai trò “cốt lõi” của văn học đối với văn hóa dân tộc - đó là một khái niệm có độ "vênh" nhất định, bởi nó dễ kích hoạt ảo tưởng về “trung tâm” quyền lực. Văn học có thể quan trọng nhưng không nhất thiết là “cốt lõi”: nhiều dân tộc không có nền văn học phát triển vẫn sở hữu nền văn hóa rực rỡ. Điều quan trọng hơn nằm ở những nỗ lực âm thầm, bền bỉ của những người sáng tạo đang tìm kiếm các giá trị văn hóa mới ở bên ngoài các khuôn mẫu cứng nhắc.
Đối với thực trạng dạy và học văn trong nhà trường – thường được xem như biểu hiện văn hóa – tình hình phức tạp hơn nhiều. Thái độ coi trọng văn chương vẫn tồn tại nhưng bị biến dạng; thành ra có khi niềm tự hào trở thành ảo giác. Việc học sinh thờ ơ với môn văn không thể chỉ quy lỗi cho người học, mà phải xét đến triết lý giáo dục, chương trình, phương pháp dạy học và môi trường sư phạm. Dạy văn không thể là việc truyền thụ kiến thức đóng cứng về văn học, mà phải là việc bồi dưỡng năng lực cảm thụ và sáng tạo thẩm mỹ, khuyến khích học sinh tự do bộc lộ ý kiến có trách nhiệm, phát triển năng lực đọc – viết sáng tạo. Muốn làm được điều đó, giáo viên phải được đào tạo lại một cách căn bản, bởi chương trình – dù hoàn hảo đến đâu – cũng không thể vận hành nếu thiếu người thực thi có năng lực và có tinh thần tự do tư tưởng. Và thiết nghĩ, không cần cải cách sách vở, giấy tờ, chỉ cần đào tạo con người - người thầy, trọng trách này gánh trên vai các trường SP.
Cuối cùng, bàn về các hội thảo, sự kiện, trại sáng tác, các hình thức "khích lệ"- "kích động" sáng tạo cần thận trọng... Những định hướng sai nhầm dễ biến thành sự kiểm soát, phong bế, làm thui chột những mầm sáng tạo non trẻ cần được chăm sóc, nuôi dưỡng một cách tự nhiên. Điều quan trọng nhất là tạo dựng niềm tin vào lương tri nhà văn và vào sự lựa chọn sáng suốt của cộng đồng. Việc chọn hộ nhân dân món ăn tinh thần chưa bao giờ đem lại kết quả tốt đẹp. Hãy để văn chương được là chính nó – tự do, khai phóng, và chịu trách nhiệm trước thời gian. Một xã hội văn minh không ai chọn lối đi chui vào hang hố; một đời sống văn học lành mạnh sẽ tự biết loại bỏ những gì giả dối và nuôi dưỡng những gì có giá trị...
(Tuấn Trần)
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
BÀI MỚI ĐẮNG
Truyện ngắn: BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN _ NGUYỄN HẢI ĐĂNG
Bên cánh gà chánh điện phần 1 BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN Xe dừng lại với tiếng xột xoạt trên mặt đường, như bao chuyến xe đã ghé qua từ thuở ...
-
Chuyện của chị Linh giò chả (Truyện ngắn Đặng Xuân Xuyến) * Hôm trước, lâu rồi, chả hiểu duyên cớ gì, chị Linh giò chả tự dưng “bắt ...
-
NHỮNG NGƯỜI PHỤ NỮ Tôi lên Cà Mau, hè này coi thi học sinh t.h.p.t tốt nghiệp. Làm giáo viên thì phải coi thi làm nhiệm vụ bắt ...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét