Chủ Nhật, 16 tháng 11, 2025

"MÊNH MÔNG TRƯỚC BIỂN" NIỀM KHÁT VỌNG VỀ MỘT CHÂN TRỜI MỚI - TIỂU NGUYỆT

Kính mời Quý anh chị và các bạn đọc bài viết: “MÊNH MÔNG TRƯỚC BIỂN” NIỀM KHÁT VỌNG VỀ MỘT CHÂN TRỜI MỚI Nhà thơ Nguyễn Tường Văn tên thật là Nguyễn Văn Tường, sinh năm 1949 (trên giấy tờ 1950) tại Tuy Hòa, Phú Yên. Là Cử nhân Văn khoa Viện Đại Học Đà Lạt, tốt nghiệp Biên tập viên khóa 1 Trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội. Ông có thơ đăng trên nhiều Tạp chí trong nước trước và sau năm 1975. Ông dạy học ở các trường Trung học Bồ Đề Tuy Hòa, Bồ Đề Hiếu Xương; sau làm Biên tập viên Chương trình Văn hóa Văn nghệ Đài phát thanh Phú Yên. Tôi may mắn là học sinh của nhà thơ thời Trung Học từ lớp 9 đến lớp 11(trước 1975), được nghe thầy giảng về những bài thơ, hướng dẫn Thuyết trình về những Tác phẩm Văn học mà lúc ấy tôi thấy lạ lẫm lắm. Những bài thơ ấy luôn theo cùng tôi lận đận bên đời, nhưng cũng nhờ yêu thích chúng mà tôi lấy đó làm niềm vui vượt qua những gian khó. Đó là: “Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm, “Mầu Tím Hoa Sim” của Hữu Loan, “Nhà Tôi” của Yên Thao, “Hoa lục bình” của Đam San, “Hoa trắng thôi cài trên áo tím” của Kiên Giang, “Tống biệt hành” của Thâm Tâm v.v… Những tác phẩm thuyết trình tôi nhớ như in, nào “Cách một dòng sông” của Trần Hữu Lục, “Người Việt kỳ diệu” của nhà văn Vũ Hạnh, bút danh là APazzi khi viết tác phẩm này (NXB Cảo Thơm - 1968), “Cho cây rừng còn xanh lá” của Nguyễn Ngọc Lan, “Trước khi mặt trời mọc” của Trần Duy Phiên (1972)… mà tổ nữ chúng tôi đảm nhận. Nhờ được nhà thơ hướng dẫn tôi càng đam mê đọc sách, tìm tòi những bài thơ không có trong sách giáo khoa học hỏi nên có lẽ kiến thức Văn học của tôi có phần tiến bộ hơn. Ngày ấy, nhà thơ Nguyễn Tường Văn phụ trách sinh hoạt học đường, phong trào văn nghệ trường tôi rất sôi nổi. Thầy tổ chức cho chúng tôi tập tốp ca, đơn ca, hoạt cảnh, kịch, trình diễn trong những đêm trại Trung Thu, Tết nguyên đán; có lần được trình diễn ở rạp Đại Nam thi cùng các trường bạn. Tôi thường nghe thầy kể chuyện, ngâm thơ giọng thầy rất cảm xúc và tôi cũng tập ngâm thơ từ đó. Tôi bắt chước thầy ngâm giọng “sa mạc”, cả ngày cứ ngâm nga mấy câu thầy ngâm cho lớp chúng tôi nghe “Trống trường thành lung lay bóng nguyệt. Khói cam tuyền mờ mịt thức mây. Chín tầng gươm báu trao tay. Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh” í i í i… Đó cũng là những kỷ niệm đẹp của thầy trò chúng tôi. Tháng 6 năm 2020, tôi được một nhà văn lớp đàn anh gởi tặng tập thơ “Mênh Mông Trước Biển” tác giả là Nguyễn Tường Văn với lời gởi tặng thật trân quý. Tôi vui mừng vì tác giả là người thầy cũ mà tôi rất quý mến nên hăm hở đọc và nghĩ sẽ viết một vài cảm nhận về tập thơ, như lời tri ân, cũng là có chút kỷ niệm giữa hai thầy trò. “Mênh Mông Trước Biển” của Nguyễn Tường Văn là một tập thơ, NXB Hội Nhà Văn - 2013. Sách dày 197 trang, tranh bìa của họa sĩ Thanh Hồ, trình bày Uông Thái Biểu. “Mênh Mông Trước Biển” gồm 100 bài thơ, là 100 bông hoa tượng trưng cho “niềm khát vọng về một chân trời mới” của Tác giả. Đứng trước biển đôi khi ta thấy mình thật nhỏ bé trước sự bao la trời nước, khiến ta muốn hòa vào biển, cảm thấu sự bao dung và ta chỉ là một giọt nước giữa muôn trùng sóng nước; sẽ thấy lòng mênh mông như nhà thơ đã bày tỏ: “Ở biển này anh bao lần nằm nghe sóng vỗ Sao hôm nay quá đỗi diệu kỳ Sóng biển rạt rào hay tình yêu nồng cháy Giữa bình minh thuần khiết đắm say”. (Mênh Mông Trước Biển - Trang 33). Và nhà thơ đã ví mẹ là biển cả, bởi lòng mẹ bao la như biển mênh mông. Những lúc con ốm đau hay vấp ngã, mẹ luôn bao dung như biển rạt rào. May mắn cho những ai còn mẹ, được yêu thương, chăm sóc, vỗ về. Nhạc sĩ Y Vân đã ví “lòng mẹ bao la như biển thái bình rạt rào” và xúc động biết bao “biển dang rộng vòng tay lùa sóng nước vào lòng”, phải chăng nhà thơ muốn nói “vòng tay mẹ ấp ủ, che chở, vỗ về đàn con ngàn đời như biển sóng”. “Biển dang rộng vòng tay lùa sóng nước vào lòng Như mẹ ngàn năm dãi dầu chắt chiu dành phần cho con khôn lớn Như mẹ ngàn đời vỗ về con âu yếm Bằng tình thương biển cả em ơi!”. (Mênh Mông Trước Biển - trang 33) Đứng trước biển nhà thơ miên man theo con sóng nhấp nhô về những trang sử hào hùng của các vua Hùng dựng nước, về những chiến công hiển hách của các bậc tiền nhân. Lòng nhà thơ xôn xao theo từng cơn sóng vỗ, nghe tiếng hát dịu êm của sóng bạc đầu. Một khúc tình ca rộn ràng như bừng lên ở cuối chân trời xa tít, nơi trời nước gặp nhau chan hòa một niềm tin đầy ước vọng xôn xao. “Anh nghe âm vang điệu Kiều trong tiếng sóng Lòng bỗng dạt dào khúc hát thuở Hùng Vương Chính vì hôm nay - Cha phải đổ máu xương Chính vì hôm nay - Mẹ suốt đời tất bật Vì hôm nay Trán lão tướng Lý Thường Kiệt hằn nhiều nếp nhăn về sơn hà Nam Quốc”. (Mênh Mông Trước Biển - Trang 33, 34). Và tâm hồn nhà thơ chợt trào dâng bao cảm xúc, hòa vào cơn sóng lao xao một tình yêu quê hương tha thiết, muốn ôm cả cái hạnh phúc vừa trổi dậy trong ông. “Hạnh phúc ta ôm vô cùng nóng bỏng Môi bâng khuâng trái ngọt đầu mùa…”. (Mênh Mông Trước Biển - Trang 36). Một lần nhà thơ về chốn xưa thăm lại hàng cau, bờ tre, giếng nước; có cái gì đó làm ông nghẹn lòng, rưng rức. Hình ảnh người mẹ thân yêu xôn xao trong ông, mẹ trong sân, ngoài ngõ, bên luống rau, bên mái bếp lam chiều. Và tiếng lòng ông như bật khóc nhớ về tuổi thơ được mẹ may áo mới đón xuân; căn nhà xưa còn đấy mà mẹ giờ đã theo hương khói khuất xa. “Về đây nhớ chỗ mẹ nằm Nén nhang này những ngày rằm thường dâng Tuổi thơ áo tết bâng khuâng Mỗi năm rạo rực đến lần mặc thôi Mẹ giờ tận cõi xa xôi Thoảng trong hương khói bồi hồi ngày xuân”. (Ngày xuân chạnh nhớ - Trang 151) Mênh mông trước biển tác giả còn: “Nghe trong nhựa đất tràn trề mầm non Tấc lòng chung thủy sắc son Nhà em vẫn đỏ lối mòn anh qua”. (Men Đất - Trang 70) Phải chăng nhà thơ nghe trong men đất mùi thơm hương đồng gió nội, bờ tre, hàng giậu, mía lau. Tôi đồng cảm với nhà thơ bởi tôi đã từng như vậy và tôi nghĩ, đó là chất dinh dưỡng để tâm hồn ta có những rung cảm dạt dào. Và nhà thơ đã thấy thấp thoáng bóng hình người “em gái” xa xưa mà ông đã một thời thương nhớ; làm sao quên được khi mà người ấy đã nằm sâu trong góc khuất trái tim mình?. “Anh về qua mấy hàng cây Líu lo chim hót vui ngày đang lên Bờ tre ruộng mía không tên Yêu nhau ta dễ gì quên chốn này”. (Men Đất - Trang 71) Yêu nhau ta dễ gì quên chốn này. Đó là lời khẳng định từ trái tim nhà thơ, những tưởng là “thoảng qua” nhưng không phải vậy; đó là chất keo gắn kết sự thủy chung, son sắc giữa “trước và sau”, “quá khứ và tương lai” dù thời gian có phôi pha, dâu bể. Nhìn trăng treo ở mái trời tây, nhà thơ sợ hương đêm sẽ tan biến, sợ men đất bớt đi sự nồng nàn khi bình minh về, khiến ông bàng hoàng tiếc nuối. “Trăng non treo mái trời tây Đêm hồn nhiên ủ men ngây ngất lòng”. (Men Đất - Trang 71) “Mênh mông trước biển” nhà thơ Nguyễn Tường Văn còn nhìn thấy “nhịp cầu xuân” nối liền ông với người chị gái thân yêu. “Chị theo chồng về bãi sông đầy nắng. Con tép trái cà mùa lụt cuốn ra khơi”. Ông thương chị một đời tần tảo bên bãi sông bên lở bên bồi, chèo chống cùng gió mưa khi nước lũ tràn về? Và chị đã chèo chống cuộc đời mình đầy vơi theo con nước ròng nước thấp, cho con cái đủ đầy, cho gia đình chị được bình an. Thương chị, nhà thơ gởi niềm mơ ước: “Chiếc cầu mới nối đôi bờ sông xa Như cánh tay tiên giữa trầm luân bể khổ Bến sông xưa nhịp cầu xuân cứu độ Trở lại quê nhà sao mắt cứ rưng rưng”. (Nhịp cầu xuân - Trang 102). “Trở lại quê nhà sao mắt cứ rưng rưng”. Ai đã từng đi xa mới thấy được sự nhớ thương quê nhà da diết, mới nhận rõ lòng mình bồi hồi, rung cảm như thế nào mỗi khi trở về thăm lại. Quê nhà dẫu lắm tang thương, dâu biển, luôn là nơi lưu giữ bao kỷ niệm yêu thương mà suốt cuộc đời này ta không bao giờ quên. Với tôi, quê nhà là có thực, là đời sống gắn bó gần gũi cho đến hơi thở cuối cùng. Với nhà thơ Nguyễn Tường văn, “Hòa An! Hòa An! Hơn hai mươi năm con gọi tên người. Như chính tên thật của mình giờ đây ghi vào lý lịch”. Và tôi nghĩ, với anh, với chị, với tất cả chúng ta ai cũng có một quê nhà để yêu thương, lưu giữ; như nhà thơ Đỗ Trung Quân đã nói “Quê hương nếu ai không nhớ. Sẽ không lớn nổi thành người”. “Con lớn lên giữa vòng tay ấm nồng của mẹ Ấp iu đất này qua bao thế hệ Mía Ân Niên còn ngọt giọng bài chòi Chợ Quán Phú Ân rộn rã chào mời Bánh tráng Đông Bình dẻo thơm mùi gạo Ruộng Đông Phước hai mùa vang tiếng hát Ngỏ lời ái ngại xa xưa: - Muốn về Vĩnh Phú ăn dưa Sợ e Vĩnh Phú đãi đưa nhiều lời”. (Quê mẹ - Trang 97). Tôi bắt gặp bài thơ “Chiều Cố Quận” tác giả đã viết tặng các học sinh được chuyển vào trường công lập của lớp tôi (niên khóa 1972 - 1973 Trường Trung học Bồ Đề Hiếu Xương). Và buổi chiều hôm ấy như hiển hiện trước mắt tôi, cái dáng thầy gầy gầy, mắt đỏ hoe, xúc động. Tôi đọc thuộc lòng bài thơ trong sự xúc động mênh mang, từng câu, từng chữ, trang sách như nhòe đi trước mắt tôi. Tròn 40 năm sau bài thơ đăng lại trong tập này tác giả đã sửa vài câu, tôi cảm thấy buồn như mình bị trầy xước ở tâm hồn vậy. Tôi nghĩ sẽ đọc như cũ nếu như có dịp nào đó gặp lại thầy xưa, bạn cũ. “Mai em về tay xưa tìm lụa nắng Áo thu bay theo khói mộng bên trời Chiều rụng xuống đôi vai gầy trĩu nặng Bao nhiêu năm còn lại những mù khơi. Mai em về hắt hiu đường quận lỵ Ga nhỏ buồn còi nặng tiếng chia xa Trường xưa đấy, ồ, trong ta giấu (rất) kỹ Em đi rồi ve trỗi điệu bi ca. Mai em về phượng buồn lay lắt nhớ (Mai em về mây trắng bay rất nhớ) Trời sang thu sao mãi rét trong tim Hàng cây em im lìm một thuở (Hàng cây đó em nương mình một thuở) Sân cát vàng rõ (in) đậm dấu chân chim Mai em về đèn còn chong phố nhỏ Ta lang thang soi bóng buổi chia ly Tuổi đôi mươi cuối trời - quán trọ (Đã ba tám vẫn chưa tìm quán trọ) Mai em về, ừ! Em hãy về đi”. (Chiều Cố Quận - Trang 60, 61) Những câu thơ cũ tôi ghi lại trong dấu ngoặc phía dưới và tôi sẽ nói vì sao tôi nói thấy mình bị trầy xước ở tâm hồn? (Mai em về mây trắng bay rất nhớ) - nhìn mây trắng bay nhớ về ngày tháng cũ, ở đấy có đầy đủ lũ học trò chúng tôi, giờ theo mây trôi về xa cuối trời. (Hàng cây đó em nương mình một thuở), làm tôi nhớ đến cây bàng bên cái hồ nước nhỏ ở trước phòng học số năm, nơi lũ học trò nữ chúng tôi giờ ra chơi hay ngồi tụ tập, tán gẫu. Và còn nữa (Đã ba tám vẫn chưa tìm quán trọ), chúng tôi có thể đếm được tuổi của thầy lúc ấy là hai mươi bốn tuổi, một dấu ấn để chúng tôi nhớ mãi về người thầy dạy văn thân quý của mình. Hôm ấy tôi xúc động biết bao khi nhìn thấy thầy mình khóc, ông khóc vì sắp chia tay bảy bạn chúng tôi được chuyển sang Trường Trung học Tỉnh Hạt. Đó cũng là một phần để tôi trở lại trường dù đã chuyển sang trường mới học được mười ngày. Một kỷ niệm thân thương luôn theo bên đời tôi dầu lắm dâu bể đổi dời. Còn nữa những bài thơ “Tự trào”, “Nhân Gian”, “Ngẫu Nhiên”, “Năm Mới về theo” v.v… được nhà thơ chia sẻ rất chí tình, nhưng trang viết hạn hẹp không thể bày tỏ hết ở đây; mong rằng một ngày nào đó sẽ chia sẻ thêm về những bài thơ tâm huyết này của nhà thơ Nguyễn Tường văn. “Mênh Mông Trước Biển” không chỉ là những vần thơ trong sáng chân tình về cuộc đời của Tác giả, mà còn là niềm khát vọng về một chân trời mới còn khuất xa phía trước. Hy vọng chúng ta sẽ được nhìn thấy “một chân trời mới đầy nắng ấm và yêu thương”. “Theo nhau dòng chảy ra khơi Biển bao la vẫy bầu trời mênh mông”. Nhớ lại bài thơ “Nam quốc Sơn Hà” của Lý Thường Kiệt, lòng tôi xôn xao; phải chăng nhà thơ muốn bày tỏ sự khao khát về một đất nước độc lập, tự do, không có sự oán thù ngăn cách? Một đất nước chủ quyền, chan hòa chữ “tình” giữa người với người, giữa người với vạn vật và nụ cười luôn nở trên môi mỗi chúng ta? Đa phần những bài thơ trong tập thơ “Trước Biển Mênh Mông” Nguyễn Tường văn sáng tác trước năm 1975; cho nên đó cũng là niềm khao khát chung cho những người trí thức trước thời cuộc. Tiểu Nguyệt Bên dòng sông Tắc Tháng 06. 2025

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

BÀI MỚI ĐẮNG

Truyện ngắn: BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN _ NGUYỄN HẢI ĐĂNG

Bên cánh gà chánh điện phần 1 BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN Xe dừng lại với tiếng xột xoạt trên mặt đường, như bao chuyến xe đã ghé qua từ thuở ...