thư từ bài vở xin gửi về : hothanhngancm@gmail.com HỒ THANH NGÂN Hội viên hội văn học nghệ thuật Cà Mau Hội viên hội văn học nghệ thuật Phú Yên Hiện sống và viết tại Cà Mau Tác phẩm đã xuất bản : Sông Đốc Ngày Nắng Muộn - Nxb Thanh Niên (2016) Phương Nam Lộng gió - Nxb Hội Nhà Văn (2018) Trường Ca Nhớ Phú Yên - Nxb Hội Nhà Văn (2019 ) Chiều Ở Phía Ngược Gió - Nxb Hội Nhà Văn (2020)
Thứ Tư, 19 tháng 11, 2025
TỪ SẮC CẢNH ĐẾN TÂM CẢNH: BÓNG SẼ LÀ CÁNH CHIM- NGUYỄN THÀNH HƯỞNG:
Dưới góc nhìn thiền định TSKH Nguyễn Thành Hưởng đã viết và dịch bài thơ "BÓNG" của tôi. Xin được cám ơn TSKH và mời bạn đọc tham khảo.
T Ừ S Ắ C C Ả N H Đ Ế N T Â M C Ả N H:
B Ó N G S Ẽ L À C Á N H C H I M
Trong thơ ca, “bóng người” là một đích thực hiện hữu, một sự tồn tại vượt qua sự ẩn dụ, nơi lặng im chật đầy thân phận. Shakespeare trong Hamlet từng khắc họa đời sống như chiếc bóng người đang bước đi (“a walking shadow”), những bước hư ảo và mong manh của kiếp nhân sinh. Ở phương Đông, Lý Bạch trong bài “Đối tửu” đã viết: “Cử bôi yêu minh nguyệt/ đối ảnh thành tam nhân” (Nâng chén mời trăng sáng, cùng bóng hóa ba người). Chính cái bóng của thi nhân trở thành bạn đồng hành, một người tri kỷ thầm lặng trong nỗi cô đơn bất tận. Nguyễn Bính cũng để lại dấu ấn sâu sắc trong bài “Những bóng người trên sân ga”, nơi ông ghi lại hình ảnh đầy nhân văn: “Có lần tôi thấy hai cô bé/ Sát má vào nhau khóc sụt sùi/ Hai bóng chung lưng thành một bóng/ Đường về nhà chị chắc xa xôi?”. Khoảnh khắc ấy, bóng người hòa làm một, gợi ra sự gắn bó trong tình thân, đồng thời cũng phảng phất hơi thở vô thường, rồi thì con tàu sẽ lăn bánh, bóng nhập một sẽ lại chia lìa.
Trong vô vàn bóng, bài thơ Bóng của Hoàng Vũ Thuật hiện lên như một kệ thiền hiện đại, giản dị mà sâu lắng, dẫn dắt người đọc vào những quán chiếu về thân tâm, về tình yêu, khổ đau, vô thường và giải thoát.
BÓNG
1.
Hãy để bóng đi theo người thực
Con người này chỉ có bóng này thôi
2.
Khi hai người yêu nhau
Họ chỉ còn một bóng
3.
Đừng giận dỗi
Xem chừng bóng vỡ làm đôi
4.
Nỗi đau buồn của người này
Là cái bóng của người kia
5.
Tuổi già bóng mãi trẻ
Người chết bóng sẽ là cánh chim…
Ngay từ câu thơ đầu tiên đã mở ra một cảm luận tự thể:
“Hãy để bóng đi theo người thực/Con người này chỉ có bóng này thôi”.
Thân người chỉ là giả hợp, nhờ nhân duyên mà có, bản chất
là không có “tự ngã” cố định. Bóng cũng vậy, nhờ nhân duyên mà có, sinh ra từ tương hợp giữa ánh sáng và sắc hình, cũng như “cái tôi” được sinh ra từ năm uẩn. Nó có đó mà cũng chẳng thật có. Đời sống cũng vậy, bóng chỉ hiện khi có điều kiện, như thân người hiện hữu khi đủ duyên. Thấy vậy, ta bỗng nhẹ lòng.
Bóng chính là biểu tượng của nhân duyên và vô ngã, nó không tồn tại độc lập, mà chỉ hiện ra nhờ ánh sáng và hình thể. Bóng nhắc ta rằng: thân tâm này cũng chỉ như cái bóng, nương nhiều điều kiện mà có, không có “tự ngã” riêng biệt. Bóng sinh từ ánh sáng và hình thể: không tự có, không tự tồn. Như năm uẩn (sắc-thọ-tưởng-hành-thức) kết hợp mà thành “tôi”, nương duyên mà hiện. Dhammapada từng nói: thiện và bất thiện theo ta như bóng chẳng rời, bóng là dấu vết của nghiệp và cũng là lời nhắc về vô ngã. Con người “thực” chính là dòng duyên khởi đang đi qua. Phật chỉ cho chúng sinh biết nhân quả nghiệp báo theo chúng sinh như bóng theo hình. Bất cứ ai, phàm đã gieo nghiệp thiện hay ác, dù nhỏ bằng sợi lông, cũng đều phải chịu thiện ác báo ứng, không thể khác được. Vậy thì “Hãy để bóng đi theo người thực/ Con người này chỉ có bóng này thôi”. Không thể khác được, mỗi chúng sinh có nghiệp quả riêng của chính mình.
Đến hai câu tiếp theo:
“Khi hai người yêu nhau/ Họ chỉ còn một bóng”.
Ở đây, thi nhân dường như chạm tới tinh thần “nhất như” trong Phật giáo: khi tình yêu đích thực được xây trên hiểu và thương, ranh giới giữa “tôi” và “anh” trở nên mờ nhạt. Một bóng đâu phải để mất mình, mà là cùng soi chung một nguồn sáng. Hình ảnh này gợi nhớ bài thơ “Những bóng người trên sân ga” của Nguyễn Bính với nhiều hình ảnh của “bóng”: Bóng của tình nhân khi “họ cầm tay họ, bóng xiêu xiêu”, bóng hai chàng trai khi “kẻ ở sân toa, kẻ dưới tàu/ bóng nhoà trong bóng tối từ lâu”, bóng vợ chồng “thèn thẹn đưa nhau, bóng chạy dài”, bóng mẹ già “lưng còng đổ bóng xuống sân ga”. Và những câu thơ về hai cô bé khi chia tay:
Có lần tôi thấy hai cô bé,
Sát má vào nhau khóc sụt sùi.
Hai bóng chung lưng thành một bóng - Đường về nhà chị chắc xa xôi?
Nguyễn Bính đã khắc họa cảm xúc đời thường đầy nhân văn với hình ảnh “hai bóng chung lưng thành một bóng” cùng nỗi chia ly của tình người trong cõi đời. Và như thế “bóng” vừa là nhân chứng của đời sống, vừa là ẩn dụ triết lý về vô thường và duyên khởi.
Tình yêu, nếu có hiểu và thương, sẽ làm mỏng đi ranh giới giữa “tôi” và “anh”. Trong truyện vợ chồng Nakula thưa hỏi Phật cách “đi chung hiện tại và cả mai sau”. Ngài dạy: cùng một niềm tin, một nếp hạnh, một tâm rộng và một tuệ thấy. Khi sống được như vậy, hai người trở nên hòa đồng, “một bóng” không phải để mất mình, mà là để cùng soi chung một nguồn sáng, một tự thân.
Tình yêu khi này không phải là sự hòa nhập để mất đi tự thân, mà là sự thấu hiểu sâu sắc đến mức hai không còn hai, “ngã - nhân - bỉ - thử” cùng tan biến. Một bóng lúc này là tính nhất như, tình cảm chân thực đưa con người vượt lên sự phân biệt. Nguyễn Bính và Hoàng Vũ Thuật đã gặp nhau, từ một chi tiết rất đời thường, qua thi ngữ đã trở thành biểu tượng “Khi hai người yêu nhau/ Họ chỉ còn một bóng” hay “hai bóng chung lưng thành một bóng”, bóng người hòa vào nhau trong nỗi buồn chia ly.
Thi ca không chỉ là nét chấm phá phác thảo cuộc đời, cuộc tình, cuộc người, mà còn là khúc ca về tình thân và sự gắn bó của kiếp người trong vô thường. Trong Kinh Vô Thường, Đức Phật dạy rằng mọi sự tụ hợp đều do duyên, hết duyên thì tan. Hai bóng thành một bóng là khoảnh khắc duyên hội tụ; rồi khi con tàu lăn bánh, bóng sẽ rẽ đôi. Đó chính là thực tướng vô thường mà thi nhân đã chạm tới.
Biết thế, nhưng thi nhân vẫn lo, nỗi lo nhân thế đời người. Câu thơ “Đừng giận dỗi/ Xem chừng bóng vỡ làm đôi” lại gợi một bài học thiền, khi sân nổi lên, cơn giận như mây che ánh sáng, khiến bóng rạn nứt. Kinh Akkosa Sutta kể chuyện Đức Phật bị mắng nhiếc, Ngài hỏi: “Một món quà, nếu không nhận, thì thuộc về ai?” , câu trả lời là “Thuộc về người tặng”. Giận dữ, nếu ta không nhận, thì nó không có đất sống. Tình yêu cũng vậy, nếu để sân hận che lấp, cái bóng “một” sẽ thành “hai”. Chỉ có nhẫn nhục và từ bi mới ôm giữ được bóng liền, tình trọn.
Giận là mây che, là bóng tối làm cho ta không còn nhìn thấy, nhận thấy bóng mình, quên luôn nghiệp quá khứ, lời răn cho tương lai và quên luôn hiện tại. Cổ đức dạy rằng sân hận, nếu ta không nhận, sẽ tự quay về nguồn của nó. Lại nhớ Khantivādi Jātaka trong tích chuyện bậc tu kham nhẫn nói rằng thân còn bị hành hạ mà tâm không vỡ. Tình yêu cũng vậy, một cơn giận thiếu chánh niệm đủ làm “một bóng” tách đôi. Câu thơ nhắc ta nếu nuôi dưỡng sân hận, duyên hòa hợp tan rã, cái “một bóng” trở thành chia lìa. Giữ tâm từ bi chính là giữ cho “bóng” nguyên vẹn.
Rồi đến:
“Nỗi đau buồn của người này/ Là cái bóng của người kia”.
Ở đây hiện rõ tinh thần “tương tức” mà thầy Thích Nhất Hạnh từng giảng: tôi có vì anh có, nỗi đau của tôi cũng là nỗi đau của anh. Nỗi đau của mình không riêng lẻ, mà là bóng của muôn người. Trong mối tương tức ấy, bóng tôi, bóng anh phủ vào nhau, cùng nguồn sáng, để rồi ta biết cảm thông, biết chữa lành cho nhau. Bóng không tách khỏi người, giống như con người không thể tách rời nhau trong vòng nhân duyên.
Khổ đau nào đứng riêng lẻ. Hai con người, hai thân phận, nhưng trong phút giây ấy, bóng họ chập lại thành một, như thể
tâm hồn họ cũng đồng nhất. Tình cảm con người khiến cái bóng không còn đơn lẻ, ngược lại, trong cô đơn nhất, con người vẫn còn bóng của mình, bóng và người trở thành sợi dây nối liền, soi rọi và phản chiếu lẫn nhau.
Bài thơ khép lại với câu thơ mở ra chiều sâu của sự đối sánh:
“Tuổi già bóng mãi trẻ
Người chết bóng sẽ là cánh chim”.
Thân thể có thể già, có thể chết, nhưng cái bóng “mãi trẻ”, bóng chính là phần tỉnh thức lặng im bất sinh bất diệt. Khi thân hoại mạng chung, bóng là “cánh chim”, bay về bầu trời tự tại của Niết-bàn, cứu cánh của giải thoát.
Trong vòng luân hồi của sinh - lão - bệnh - tử, ai rồi cũng già, nhưng tánh biết sáng trong không già; bóng “mãi trẻ” khi tâm ta an định. Đấy chính là sự tiếp nối, cũng như ngọn lửa truyền ngọn lửa, chẳng phải một cái ngã cố định tái sinh, mà là dòng chảy tương tức của nhân duyên, nghiệp quả. Dhammapada ví người đã tỉnh như hạc rời hồ, nhẹ thân mà vượt thoát. Bóng cuối bài thơ là trí tuệ chiếu rọi, rũ bỏ chấp ngã của danh sắc. Bóng trở thành cánh chim qua dòng mê đến bờ giác ngộ.
Ngài Tuệ Sỹ từng viết rằng: Cái đã đi, một cái gì đó vô nhân, vô ngã, đã đi qua trong tôi, trong người, trong đâu đó, hữu biên và vô biên, hữu hạn và vô hạn; cái đã đi ấy chưa hề được thực hiện, chưa hề được đi. Hết thảy hiện tượng thảy đều thanh tịnh, tự tánh xuất hiện trong hư không pháp tánh.
Đọc “Bóng”, ta nhận ra rằng bóng không chỉ là dư ảnh vật lý, mà là tấm gương soi chiếu tình yêu, khổ đau, vô thường và giải thoát. Với nhà thơ Hoàng Vũ Thuật, bóng vừa là bạn đồng hành, vừa là dấu vết nghiệp duyên.
“Ồ, hư không! Hư không hủy diệt”
(Tuệ Sỹ).
Trong tĩnh lặng, bóng cùng ta vỗ cánh về miền an nhiên.
NTH
F R O M T H E S C E N E O F F O R M T O T H ES C E N E O F M I N D :
T H E S H A D O W W I L L B E C O M E A B I R DI N F L I G H T
In poetry, the “human shadow” is a true mode of being-an existence that surpasses mere metaphor, a silent spacedense with the weight of human fate. Shakespeare, in Hamlet,portrayed life as a “walking shadow”, the fragile and spectralfootsteps of mortal existence. In the East, Li Bai wrote in“Drinking Alone Under the Moon”: “Lifting my cup, I invite thebright moon; with my shadow, we become three”. The poet’sown shadow becomes a companion, an intimate, wordlessconfidant within boundless solitude. A Vietnamese poet, NguyenBinh, too, left a profound imprint in Shadows on the StationPlatform, capturing an image of deep humanity: “Once I sawtwo little girls/ Cheek to cheek, quietly weeping/ Their twoshadows merged into one/ ‘Your home must be far away?’”. Inthat moment, two human shadows became one, evoking thetenderness of kinship while carrying the faint breath ofimpermanence, for soon the train will move, and the shadowsjoined will part once more.
Amid countless shadows, Hoang Vu Thuat’s poem Shadowrises like a modern Zen gāthā, simple yet profound, guiding thereader into contemplations of body and mind, of love, suffering,impermanence, and liberation.
SHADOW
1.
Let the shadow follow the real one
This person has only this shadow
2.
When two people are in love
they have but a single shadow
3.
Do not be angry
a shadow may split in two
4.
One person’s sorrow
is the other’s shadow
5.
Though we grow old, the shadow remains forever young
When one dies, the shadow becomes a bird in flight…
From the very first lines, the poem opens a reflection onthe self:
“Let the shadow follow the real oneThis person has only this shadow”.
The human body is but a temporary assemblage, arisingthrough conditions, with no fixed “self-essence.” The shadow isthe same—arising only through the meeting of light and form,just as the “I” is born from the five aggregates. It exists, and221
yet does not truly exist. Life itself is like this: the shadowappears only when the conditions are present, just as thehuman form manifests only when causes and conditionsconverge. Seeing this, the heart suddenly becomes lighter.
The shadow is a symbol of conditionality and non-self: itdoes not exist independently, but appears only through themeeting of light and form. The shadow reminds us that thisbody-mind, too, is only like a shadow—arising throughcountless conditions, without any separate “self-essence”. Bornfrom light and form, the shadow neither exists by itself norendures by itself. Just as the five aggregates (form, feeling,perception, formations, consciousness) come together to formthe “I”, appearing only through causes and conditions, so doesthe shadow appear. The Dhammapada teaches that wholesomeand unwholesome deeds follow us as a shadow never leaves itsform; the shadow is the trace of karma and a reminder of nonself. The “real person” is the very stream of dependent arisingpassing through this life. The Buddha taught that karmic causeand effect follow beings just as a shadow follows the body:whoever has planted wholesome or unwholesome karma—evenas small as a hair’s breadth—must inevitably experience itsresult. Thus, “Let the shadow follow the real one/ This personhas only this shadow”. It cannot be otherwise: each beingcarries the karmic fruition of its own making.
Moving to the next two lines:
“When two people are in love,they have but a single shadow”.
Here, the poet seems to touch the spirit of “suchness-asone” in Buddhism: when love is grounded in true understandingand compassion, the boundary between “you” and “me” softens222
and fades. A single shadow does not mean losing oneself, butsharing the same source of light. This image echoes NguyenBinh’s poem Shadows on the Station Platform, with its manyforms of “shadow”: the lovers whose “shadows lean together”as they hold hands; the two young men whose “shadows blurinto darkness” as one stands on the platform and the other inthe carriage; the husband and wife whose “shy shadows stretchlong”, and the elderly mother whose “bent back casts a shadowacross the station floor”. And then those unforgettable linesabout the two little girls parting ways:
Once I saw two little girls
Cheek to cheek, quietly weepingTheir two shadows merged into one‘Your home must be far away?’
Nguyen Binh portrayed ordinary human emotion withprofound tenderness through the image of “two shadowspressing back into one”, capturing the ache of parting and thewarmth of human connection in this fleeting world. In this way,“shadow” becomes both a witness to life and a philosophicalmetaphor for impermanence and dependent arising.
Love, when founded upon understanding and compassion,softens the boundary between “you” and “me.” In the story ofthe couple Nakula asking the Buddha how they might “gotogether in this life and in the lives to come”, the Blessed Onetaught: share the same faith, the same virtue, the samegenerosity of heart, and the same vision of wisdom. When twopeople live in this way, they become harmonious; “a singleshadow” does not mean losing oneself, but illuminating thesame source of light, one shared being.
At this point, love is no longer a merging that erases theself; it is a depth of understanding so profound that the two areno longer two, and the distinctions of “self and other, this andthat” dissolve. A single shadow becomes the expression of nondual suchness, where genuine affection lifts one beyondseparation. Nguyen Binh and Hoang Vu Thuat meet here: froma small and ordinary detail of life, poetic language transforms itinto a symbol, “When two people are in love/ they have but asingle shadow”, or “two shadows pressing back into one”,shadows merging in the sorrow of parting.
Poetry is not merely a sketch of life, love, or human fate;it is also a song of kinship and the bonds that hold human beingstogether in impermanence. In the Sutra on Impermanence, theBuddha teaches that all gatherings arise through conditions;when conditions cease, they disperse. Two shadows becomingone is the moment of converging conditions; and when the trainbegins to move, the shadows divide. This is precisely the truenature of impermanence that the poet has touched.
Knowing this, the poet still worries—the human worry forthe fate of love and life. The lines “Do not be angry/ a shadowmay split in two” evoke a Zen teaching: when anger arises, it islike a cloud covering the light, causing the shadow to fracture.In the Akkosa Sutta, when the Buddha was insulted, he asked,“If someone offers a gift and it is not accepted, to whom doesit belong?”, the answer is “to the one who offers it”. Anger, ifwe do not receive it, has no ground on which to stand. Love isthe same: if anger is allowed to obscure it, the single shadowwill break into two. Only patience and compassion can keep theshadow whole, and the love unbroken.224
Anger is a clouded sky, a darkness that makes us unableto see or recognize our own shadow, causing us to forget pastkarma, disregard the warnings for the future, and lose sight ofthe present moment. The elders taught that anger, if we refuseto receive it, will return to its source. One recalls the KhantivādiJātaka, the tale of the sage of patience, who endured bodilytorment without letting his mind break. Love, too, is like this: asingle moment of unmindful anger is enough to split “oneshadow” into two. The verse reminds us that if we nourishanger, the conditions of harmony will fall apart, and the “singleshadow” will become separation. To keep compassion alive is tokeep the shadow whole.
And then:
“One person’s sorrowis the other’s shadow”.
Here the spirit of “interbeing,” as taught by the VenerableZen Master Thích Nhất Hạnh, becomes unmistakably clear: I ambecause you are; my suffering is also your suffering. One’s painis never solitary, it is the shadow of countless others. Withinthis field of interbeing, your shadow and mine overlap, held bythe same source of light, so that we may understand and healone another. A shadow cannot be separated from the personwho casts it, just as human beings cannot be separated fromone another within the web of conditions that bind all livestogether.
No suffering ever stands alone. Two people, two destinies,yet in that moment their shadows merge into one, as if theirsouls were also united. Human feeling makes the shadow nolonger solitary; on the contrary, even in the deepest loneliness,a person still has their shadow. Shadow and self become a225
single thread of connection, illuminating and reflecting oneanother.
The poem closes with lines that open a profound dimensionof contrast:
“Though we grow old, the shadow remains forever youngWhen one dies, the shadow becomes a bird in flight…”
The body may age and pass away, but the shadow remains“forever young”—for it is the silent awareness that is unbornand undying. When the body dissolves and life comes to its end,the shadow becomes “a bird in flight” returning to the boundlesssky of freedom, to the Nirvāṇa that is the ultimate liberation.
Within the cycle of birth – aging – sickness - and death, allbeings inevitably grow old, yet the luminous knowing-the clearawareness-does not age. The shadow remains “forever young”when the mind abides in stillness. This is continuity: like oneflame lighting another, not a fixed self being reborn, but theflowing interdependence of conditions and karmic fruition. TheDhammapada likens the awakened one to a heron leaving thelake—light in body, freed in spirit. The shadow at the end of thepoem becomes the light of wisdom, casting off attachment toname and form. The shadow becomes a bird, crossing from thestream of delusion to the shore of awakening.
Venerable Thich Tue Sy once wrote that: What has gone issomething without person and without self—something that haspassed through me, through others, through some place bothfinite and infinite, bounded and boundless; and yet, that whichhas gone has never truly been accomplished, has never trulydeparted. All phenomena are utterly pure, their true naturearising within the vast emptiness of Dharma itself.226
Reading “Shadow”, we realize that a shadow is not merelya physical afterimage, but a mirror reflecting love, suffering,impermanence, and liberation. For the poet Hoàng Vũ Thuật,the shadow is both a companion and the trace of karmicconditions.
“Oh, the void! The void annihilates” (Tue Sy).
In the stillness, the shadow rises with us, winging towardthe realm of s
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
BÀI MỚI ĐẮNG
Truyện ngắn: BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN _ NGUYỄN HẢI ĐĂNG
Bên cánh gà chánh điện phần 1 BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN Xe dừng lại với tiếng xột xoạt trên mặt đường, như bao chuyến xe đã ghé qua từ thuở ...
-
Chuyện của chị Linh giò chả (Truyện ngắn Đặng Xuân Xuyến) * Hôm trước, lâu rồi, chả hiểu duyên cớ gì, chị Linh giò chả tự dưng “bắt ...
-
NHỮNG NGƯỜI PHỤ NỮ Tôi lên Cà Mau, hè này coi thi học sinh t.h.p.t tốt nghiệp. Làm giáo viên thì phải coi thi làm nhiệm vụ bắt ...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét