Thứ Bảy, 7 tháng 11, 2020

SÓNG VỖ TỪ KÝ ỨC - ĐÀO NGỌC VINH (BẾN TRE )

 SÓNG VỖ TỪ KÝ ỨC

Tác giả: ĐÀO NGỌC VINH (BẾN TRE)
Tôi canh đồng hồ khi chiếc phà nhỏ bên đất liền từ từ rời bến, cho đến lúc phà vừa cập bến phía bên cồn Phú Đa thì vừa đúng năm phút. Thời gian chỉ đủ để quan sát nhanh một đoạn sông Cổ Chiên xanh biêng biếc và mát mẻ giữa buổi sáng mùa hè không gian oi nóng; nơi một thời nổi tiếng trong và ngoài nước với thương hiệu ốc gạo không lẫn với địa phương nào. Thời ốc gạo Phú Đa đang nổi tiếng trên thị trường, đoạn sông này sôi động từ sáng tới khuya với hoạt động khai thác, trao đổi, mua bán… (bạn đọc sẽ được “thưởng thức” ốc gạo Phú Đa ở phần sau của bài viết). Còn bây giờ, đoạn sông đó vắng lặng đến mức hắt hiu và buồn bã. Phú Đa, cái cồn nhỏ nằm thơi lơi giữa sông Cổ Chiên, một trong chín nhánh của con sông Cửu Long thuộc dòng Mekong huyền thoại. Cồn Phú Đa được sự quản lý hành chánh của xã Vĩnh Bình, huyện Chợ Lách, Bến Tre. Phú Đa trước đây là một ấp riêng biệt, sau được chia thành hai ấp Phú Đa và Phú Bình. Không có tư liệu khẳng định Phú Đa bắt đầu hình thành từ thời gian nào, chỉ nghe các cụ cao niên truyền miệng lại, rằng: Xưa, Phú Đa là một bãi đất cù lao nhỏ do phù sa bồi tụ giữa sông mọc đầy lác và bần, không ai quản lý. Dân bản địa bên đất liền phát hiện, nhiều gia đình chèo xuồng qua đó cắm ranh giành cho mình một khu vực thích hợp, rồi bồi đắp làm bờ bao, lên liếp, tôn tạo dần thành một vùng đất thành khoảnh. Cồn Phú Đa dần thành hình hài và có tên trong bản đồ hành chánh địa phương vào khoảng giữa thế kỷ mười chín. Là cũng chỉ nghe kể lại vậy, tin vậy!
Phú Đa là mảnh đất cuối cùng của tỉnh Bến Tre, giáp huyện Long Hồ, Vĩnh Long. Đứng ở đầu cồn Phú Đa sẽ thấy phà Đình Khao trôi ngang sông liên tục và bền bỉ. Còn nhìn về phía trái là chợ Mỹ An và làng nghề lò gốm truyền thống của huyện Long Hồ, lúc nào cũng ngùn ngụt khói xám thả lên trời xanh. Vì có vị trí địa lý đặc thù như vậy, nên người dân Phú Đa hơn chín chục phần trăm chưa từng biết cái thành phố Bến Tre tròn méo ra sao, trong khi họ thuộc làu những con đường góc phố thành phố Vĩnh Long vì chỉ cách vài cây số đường chim bay. Hiện tại, diện tích đất canh tác cồn Phú Đa còn khoảng bốn trăm chín mươi lăm héc ta, nó đã “nhót” đi nhiều so với diện tích tự nhiên đo được sau năm một chín bảy lăm do sạt lở.
Lên bờ, ấn tượng đầu tiên ập vào mắt tôi sau hơn hai năm trở lại Phú Đa là con đường nhựa rộng rãi, thông thoáng, sạch sẽ vừa mới khánh thành. Con đường nhựa có chiều ngang bốn mét này là “ăn theo” kết quả xây dựng thành công nông thôn mới của xã Vĩnh Bình. Cũng con đường này, cách đây hơn mười năm thôi, chỉ là một con đường mòn lầy lội. Trước đó nữa, nó còn là một bãi đất bồi đầy bần. Tôi cho xe chạy chầm chậm trên con đường mới mở, những khóm hoa mười giờ, soi nhái, cúc dại… rực rỡ khoe sắc trong nắng sớm gợi cảm giác ấm áp, yêu đời cho khách đường xa. Rồi mùi sầu riêng, mùi nhãn, mùi mít chín cứ làm rạo rực, náo nức những người qua đường. Tất nhiên, dự định của tôi lần này tìm về Phú Đa không chỉ đơn giản là ngắm hoa và thưởng thức mùi trái cây chín, mục đích chính là thăm lại vùng đất bị sạt lở năm hai không mười tám, nơi tôi đã từng đến để viết bài phản ánh. Hai năm trước, một vụ sạt lở nghiêm trọng tại đầu cồn Phú Đa làm bốn căn nhà sụp xuống sông và bốn mươi sáu căn nhà khác phải di dời khẩn cấp. Không phải Phú Đa chưa từng sạt lở, nhưng lần này là sạt lở “cấp tính”, trong vài phút bốn căn nhà nguyên vẹn đổ ụp xuống sông, mất tiêu! Còn trước đó, phía đầu cồn, sông “rứt” mỗi lần một chút, vì vậy mà mấy chục mẫu đất vườn lần hồi trôi sông trôi biển! Nơi tôi vừa nhắc tới, giờ chỉ còn là một mặt sông đầy gió, đầy sóng và nỗi buồn miên man của một mối tình đẹp, trong sáng nhưng ngắn ngủi. Nàng sống với bà nội trong căn nhà nhỏ giữa vườn mận hồng đào huyết. Nàng con nhà nông chính gốc, tôi là một sinh viên nghèo, quen nhau qua sự giới thiệu của anh họ nàng. Nàng không đẹp sắc sảo nhưng thùy mị, đoan trang. Nội nàng hứa, con cưới T. đi, nội cho hết năm công mận này, nếu làm vườn không nổi, nội mở cho tiệm thuốc tây bên chợ Mỹ An, vợ chồng buôn bán mà sống. Lúc này, tôi là sinh viên Cao đẳng sân khấu ở Sài Gòn, hoài bão ngút trời, tự nhiên kêu phủi bỏ tất cả ước mơ để về vườn cưới vợ sinh con, lại là một nơi hẻo lánh, xa xôi như vậy thì không cần cân nhắc cũng biết tôi chọn con đường nào rồi. Yêu nàng, có, muốn được nàng, có, nhưng bắt tôi chọn lựa nàng và đam mê nghệ thuật, tôi đành làm kẻ phụ bạc! Rồi nàng đi lấy chồng, lấy một cách ngang trái vì bị ép gả với lý do muôn thuở của những định kiến lạc hậu rằng: Có con gái trong nhà như hũ mắm treo đầu giường. Ngày tiễn nàng về nhà chồng, tôi tới dự, nàng khóc rấm rứt, tôi cũng bùi ngùi nhưng chỉ biết an ủi nàng bằng hai chữ “duyên số” (tôi không có năng khiếu an ủi người khác). Và, giờ năm công mận hồng đào huyết nơi nàng và nội sinh sống đã lở mất, nó mất đi một cách lặng lẽ và chua chát như mối tình ngắn ngủi của tôi với nàng.
Con đường nhựa vừa hoàn thành nối liền từ bến phà phía giáp xã Vĩnh Bình, qua phía bến phà đi Mỹ An, nơi hai năm trước bị sạt lở. Nó nằm trọn ấp Phú Bình. Hai bên con đường mới, hàng quán mọc lên nhiều hơn, nhà cửa khang trang hơn, những ánh mắt và những nụ cười của người dân bản xứ rạng rỡ, thân thiện và đầm ấm hơn. Điều đó làm tôi vừa vui vừa có chút chạnh lòng khi nhớ cách đây hơn hai mươi năm, Phú Đa nghèo xơ xác. Giữa thập niên tám mươi của thế kỷ trước, Phú Đa toàn ruộng. Ruộng vô tập đoàn thì đói là cái chắc. Những đứa trẻ đất cồn trong thời gian này cằn cỗi, quắt queo và héo hắt như chính cái tương lai xám xịt trước mặt chúng nó. Cả cái cồn Phú Đa chỉ hơn năm đứa bò lên được cấp hai ở trường xã. Và một phần ba trong số đó có mặt ở bậc phổ thông trung học. Đói khổ, dốt nát, người dân Phú Đa ngoi ngớp trong cái thời bao cấp đầy ác mộng đó cho đến khi tư tưởng bảo thủ bị qui luật đào thải phủ định, thì cuộc sống người dân Phú Đa nói riêng mới le lói chút ánh sáng. Người dân phá ruộng lên liếp trồng cây ăn trái. Mận, nhãn, chôm chôm, cam, xoài… trong thời điểm giao thời này mang lại hiệu quả kinh tế rất cao. Trong vòng mười năm chuyển đổi cơ cấu cây trồng, người dân Phú Đa giàu lên nhanh chóng. Ừ, thì đó là ước vọng của những người đặt tên cho cái cồn này đó mà: PHÚ ĐA.
Tôi dừng xe ở cuối con đường nhựa mới mở, cũng là bến phà qua chợ Mỹ An. Nơi đây, chiều tối ngày mười ba, tháng sáu, năm hai không mười tám, bốn hộ nằm ngay bến phà đang coi phim chiều. Đột nhiên, họ nghe có tiếng động lạ phía dưới đất, người thanh niên tên Tiến nhanh nhẩu nhoài ra phía bờ đê, anh hoảng hốt la toáng lên khi thấy một vùng xoáy nước cuốn vào chân đê. Tất cả người trong bốn ngôi nhà trên mặt đê vừa kịp thoát khỏi khu vực nguy hiểm, thì… ùm. Mọi thứ mất hút sau vài phút. Bốn căn nhà sụp mất sau vài phút, còn lại đoạn đê dài năm trăm mét cũng đang bị đe dọa nghiêm trọng. Lúc tôi tiếp cận hiện trường để phản ánh vụ việc, anh Tiến, một trong bốn chủ hộ có nhà bị lở xuống sông, gương mặt vẫn còn thất thần: Hết trơn rồi anh ơi, tài sản có cái tiệm tạp hóa này, giờ tiêu tan rồi! Tôi nhìn những phần đê bao nham nhở còn lại, nhìn những gương mặt bơ phờ của những người dân vừa mất đất, mất tài sản mà xót xa, ngậm ngùi. Tài sản một đời ki cóp, thoáng chốc bị nước cuốn đi… Còn bây giờ, tôi có chút ngỡ ngàng khi khung cảnh hoang tàn ngày xưa hoàn toàn mới lạ. Bến phà qua Mỹ An được đầu tư mở rộng bằng bê tông (trước đây làm bằng cây). Đoạn đê bị sạt lở trước kia giờ là một bờ kè đá kiên cố. Những ngôi nhà có nguy cơ bị đe dọa dưới chân đê được di dời vào sâu phía trong để bảo đảm an toàn. Nói chung, nhìn thoáng qua hoàn cảnh hiện tại, không ai biết trước đây nơi này đã trải qua một biến cố thiên nhiên dữ dội. Nơi mà một hộ gia đình dưới chân đê vừa chôn cha mình mới ba ngày đã vội móc lên di dời chỗ khác vì nguy cơ tiếp tục sạt lở; nơi mà những ánh mắt trẻ thơ ngơ ngác trước hiểm họa thiên nhiên rồi hồn nhiên hỏi cha mình: Sao hổng vớt nhà mình lên hả ba? Định ghé thăm những hộ gia đình từng bị tai họa trước đây, nhưng người chủ quán ở bến phà thông tin: Được Nhà nước và nhiều mạnh thường quân hỗ trợ, giờ cuộc sống của họ tạm ổn định rồi. Không còn đất vườn, vợ chồng họ cùng qua bên kia sông (bên Long Hồ, Vĩnh Long) làm công nhân hết rồi, đâu có ai ở nhà mà thăm. Tôi thở phào như vừa buông được cái gánh nặng mang trìu trĩu trong lòng lâu nay. Vui cho họ, tôi cũng mừng cho vùng đất heo hút này, sự sống hồi sinh nhanh chóng sau những tai ương bất ngờ. Yên lòng, tôi lên xe thong dong đi tìm những điều thú vị khác trên mảnh đất cồn còn mang nhiều nét nguyên sơ này.
*
**
Bạn thử hình dung như vầy: Buổi sáng, bạn thức giấc giữa một vùng đất có màu xanh bạt ngàn của vườn cây ăn trái, và chào bình minh bạn là tiếng chìa vôi líu lo cùng những tia nắng ấm áp chiếu xiên từ hàng cây ven đường cộng với mùi thơm thoang thoảng của bông bưởi, bông mận, bông sầu riêng… bạn thấy cuộc sống ra sao? Chỉ tưởng tượng thôi mà tôi cảm thấy lòng mình háo hức và phấn chấn hẳn lên. Dọc những con đường nhỏ ở cồn Phú Đa, đâu đâu bạn cũng thấy cây ăn trái. Những mảnh vườn chôm chôm sạch sẽ thoáng đãng và mát rười rượi bởi tàn che của nó. Quang cảnh như vậy, chỉ một chiếc võng giăng giữa hai cây chôm chôm, một cuốn tiểu thuyết, vậy là bạn sẽ có một giấc trưa yên bình và lãng mạn mà không có bất cứ một phòng ngủ cao cấp nào so sánh được. Rồi những vườn sầu riêng xanh mát mắt, những ngôi nhà nhỏ nhưng gọn ghẽ, tinh tươm, những nụ cười hiền thôn nữ và những ánh mắt trẻ thơ đầy khát khao, hy vọng. Tôi đi thăm lại ngôi nhà thờ nhỏ nằm ở đầu cồn Phú Đa với vài chục tín đồ sáng chủ nhật lặng lẽ đứng cầu nguyện dưới cái gác chuông buồn. Nàng nói, nàng cũng là tín đồ công giáo. Hèn chi, nàng có đôi mắt đẹp và buồn. Tôi mường tượng, nàng, cô gái quê có mái tóc dài kẹp ngang lưng, chiếc áo dài trắng tinh khôi với tiếng kinh cầu nho nhỏ, thánh thiện đến nao lòng. Và, nàng vẫn lẩn quẩn trong ký ức tôi suốt mấy chục năm nay. Tôi rời thánh đường nhỏ mang theo nỗi buồn nhỏ âm ỉ từ quá khứ để tiếp tục làm một lữ khách lãng du giữa vùng đất có môi trường sinh thái rất trong lành này. Phú Đa có chiều dài hơn ba cây số, chiều ngang trên dưới một cây số thôi, nhắm mắt chạy cũng giáp. Thăm Phú Đa, ngoài những vườn cây ăn trái đang thịnh hành trên thị trường, còn có thể tham quan những địa chỉ tâm linh như chùa Bà Chúa Xứ, đình Thần Phú Đa đã tồn tại và đồng hành với sự hình thành và phát triển của người dân bản địa. Du lịch sinh thái cồn Phú Đa, tại sao không? Tôi gợi ý điều này với anh Đức, một thổ địa ở đây. Anh trầm ngâm: Tiềm năng thì có, nhưng quy hoạch sao cho đừng trùng lặp với địa phương khác cùng vùng miền thì cần phải có tư duy mở, phải tận dụng được nét đặc thù của địa phương để thu hút khách du lịch. Phú Đa có nhiều yếu tố thuận lợi, như thiên nhiên trong lành, còn những nét nguyên sơ rất độc đáo… hy vọng tương lai gần Phú Đa được quy hoạch phát triển đúng hướng để hầu hết người dân được giàu lên như cái tên của nó.
Nhắc tới Phú Đa, không thể nào không nhắc tới một đặc sản đã trở thành thương hiệu trên thị trường trong một thời gian dài: Ốc gạo. Miền Tây Nam bộ nhiều tỉnh có ốc gạo, nhưng ốc gạo cồn Phú Đa là nổi tiếng hơn cả vì nó có những điểm đặc biệt hơn những nơi khác. Ốc gạo Phú Đa giòn, béo, thịt mập, ít nhớt và không ngậm cát như ốc gạo Cần Thơ, Tiền Giang hay An Giang. Ốc gạo Phú Đa dễ phân biệt với những con ốc gạo nơi khác là khi nhìn màu sắc của vỏ ốc, nó vàng óng, chứ không xanh như ốc gạo cồn Tân Phong (Tiền Giang), hay ốc gạo Châu Đốc. Ốc gạo Phú Đa có những thăng trầm của riêng nó. Chỉ cái tên ốc gạo để phân biệt với ốc đắng cũng có nhiều nguồn lý giải, điển hình như: Xưa ốc gạo trên cồn rất nhiều. Cứ khoảng mùng năm tháng Năm, khi mùa mưa miền Tây đã chính thức hoạt động theo chu kỳ, thì ốc gạo sau một thời gian nằm vùi dưới lòng sông Cổ Chiên sẽ “thức dậy” bò vào bờ để kiếm ăn. Dọc những bãi cạn ở cồn Phú Đa ốc gạo nằm xếp lớp, nhiều vô kể. Người dân đất cồn, kể cả những người dân đất liền gần cồn chỉ việc xách rổ và thau xuống sông đãi đem về ăn. Người dân nghèo đất cồn ăn ốc hoài cũng ngán, bèn đem ốc gạo ra thị trấn Chợ Lách để đổi gạo về ăn. Và sản vật đặc thù của đất cồn mang tên ốc gạo từ đó. Thoạt nghe có một chút khiên cưỡng, nhưng đó là sự lý giải đáng tin cậy nhất cho cái tên ốc gạo Phú Đa. Không biết ốc gạo xuất hiện ở Phú Đa vào thời điểm nào, chỉ biết, trước biến cố Ba mươi tháng Tư năm Bảy lăm, ốc gạo luôn xuất hiện theo chu kỳ, dao động từ cuối tháng Tư cho hết tháng Sáu âm lịch. Sau đó, bẵng đi một thời gian khá dài, ốc gạo gần như biến mất. Đột nhiên, năm 1979, ốc gạo lại ồ ạt xuất hiện. Thời gian này không ai quản lý, ốc gạo bị khai thác tràn lan, mạnh ai nấy cào, đãi, những cái bàn cào sắt bấu xuống lòng sông để khai thác triệt để thứ quà tự nhiên này. Nhưng rồi, chỉ tồn tại hai năm, ốc gạo lại lặn mất tăm, dân ở đây đinh ninh rằng con ốc gạo đã bị tuyệt chủng, thì lại cũng rất bất ngờ, năm 2003, con ốc gạo xuất hiện trở lại, dầy đặc hơn xưa. Để tránh lặp lại trường hợp khai thác kiểu tận diệt như những lần trước, địa phương quyết định thành lập Hợp tác xã. Mô hình hợp tác xã sẽ giúp địa phương quản lý con ốc gạo, khai thác chừng mực, để con ốc gạo tồn tại lâu dài. Và lần này, đúng là ốc gạo duy trì được gần mười năm dưới sự quản lý của Hợp tác xã Vĩnh Tiến (tên chính thức của Hợp tác xã ốc gạo Phú Đa). Rủi thay, lần này con ốc gạo lại gặp một “tai nạn” khác, đó là ốc bị con vẹm ký sinh trên mình ốc. Mới đầu ốc chỉ bị vẹm đeo với số lượng nhỏ, lập tức, lãnh đạo Hợp tác xã ốc gạo Vĩnh Tiến báo cáo về trên và chủ động liên hệ với các nhà khoa học nông nghiệp để tìm ra nguyên nhân, có biện pháp ngăn chặn kịp thời. Các nhà khoa học nhanh chóng vào cuộc, thậm chí, thành lập hẳn một Hội đồng khoa học, nhưng mọi nghiên cứu đều ở trạng thái… “hình như”! Có vài nguyên nhân được đưa ra như ô nhiễm nguồn nước do thức ăn nuôi cá bè gây ra; con ốc bị cào lên, xong lựa số ốc đủ tiêu chuẩn để bán ra thị trường, số còn lại trả lại sông cho nó… lớn, ốc bị xây xát nên nhiễm khuẩn, dễ bị loài nhuyễn thể ký sinh… Xong, mọi thứ chỉ là nghi ngờ, không có một cứ liệu khoa học đáng tin cậy nào, càng không có một biện pháp khả thi nào để cứu con ốc gạo đang ngày càng có nguy cơ bị khai tử. Và đúng như dự đoán, sau chín năm tồn tại, năm 2012, con ốc gạo Phú Đa một lần nữa biến mất, và lần này nó biến mất mang theo hàng loạt những nghi vấn không được trả lời. Anh Nguyễn Văn Hưng, nguyên Chủ nhiệm Hợp tác xã thủy sản Vĩnh Tiến ngậm ngùi: Hợp tác xã được thành lập năm 2004 với khoảng 140 xã viên. Sản lượng khai thác ban đầu chỉ hai tấn rưỡi cho một mùa, rồi nó tăng dần, cho đến năm 2008, đã lên đến ba chục tấn. Xã viên phấn khởi vì có thu nhập ổn định ngoài thu nhập từ vườn cây ăn trái. Thương hiệu ốc gạo Phú Đa lúc này thịnh hành khắp cả nước. Đùng một cái, ốc gạo bị vẹm đeo, sản lượng tuột xuống không phanh chỉ trong vòng hai năm, có lúc cào nát đáy sông không được một giạ ốc. Hợp tác xã thủy sản Vĩnh Tiến hoạt động cầm chừng tới năm 2012 thì giải thể, con ốc gạo Phú Đa biến mất như chưa từng tồn tại.
Tôi quay lại bến đò Phú Đa về đất liền vào lúc xế chiều. Sông Cổ Chiên vẫn xanh mát mắt. Từng đám lục bình trôi bình thản về phía hạ nguồn gợi cho người quan sát cảm giác buồn tha hương của những người khách thương hồ. Tự nhiên sự thèm ốc gạo trong tôi trỗi dậy đột ngột. Ốc gạo trộn gỏi bắp chuối, ốc gạo xào sả ớt, ốc gạo làm nhưn bánh xèo, hay đơn giản nhất, ốc gạo luộc chấm nước mắm sả. Vậy mà giờ đây, cái của trời cho đó xem ra quá hiếm hoi đến mức xa xỉ. Nhưng, tôi vẫn “linh cảm” một ngày gần nhất con ốc gạo sẽ quay lại cồn Phú Đa, nó sẽ hồi sinh mạnh mẽ như chính con người trên mảnh đất hiền hòa này. Xuống phà, tôi quyến luyến quay lại nhìn về phía cồn, mảnh đất cuối cùng của tỉnh Bến Tre, nơi đầy kỷ niệm với riêng tôi. Hình ảnh nàng với chiếc áo dài trắng tinh khôi đứng dưới cái gác chuông buồn của ngôi nhà thờ nhỏ làm tôi thỉnh thoảng nhói lòng. Một đợt sóng nhỏ bất giác ập vào mạn phà, con phà chao đảo nhẹ. Cùng lúc, trong lòng tôi cũng đang có một con sóng dâng trào, con sóng vỗ từ ký ức.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

BÀI MỚI ĐẮNG

Truyện ngắn: BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN _ NGUYỄN HẢI ĐĂNG

Bên cánh gà chánh điện phần 1 BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN Xe dừng lại với tiếng xột xoạt trên mặt đường, như bao chuyến xe đã ghé qua từ thuở ...