NGUỒN XUÂN DÂN DÃ TRONG THƠ TRẦN VẠN GIÃ
Nhà thơ Trần Vạn Giã (Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội Văn học Nghệ thuật Khánh Hoà) đã không ít lần, qua thơ, trình bày quan niệm về thơ, về nguồn thi liệu của thơ mình như sau:
Ai ơi máu chảy về tim
Thơ tôi dân dã đi tìm nguồn xuân
(Với cỏ bên đường)
Vẫn thương cơm mắm với cà
Thơ ơi có một quê nhà trong thơ
(Chiều tháng Giêng)
Tôi và ca dao qua cầu
Gió bay mặc gió. Sông sâu mặc đò.
(Sau khi xả thiền nhớ một câu ca dao)
Không phải đến khi đã nổi tiếng, nhà thơ Trần Vạn Giã mới định hình phong cách “dân dã” cho mình mà ngay từ lúc làm Những bài thơ thời chưa tóc bạc(), ông đã tự chọn một giọng thơ hồn hậu đi riêng một lối, một cách đi riêng khác biệt, mà có người gọi là “đi trong rừng biểu ngữ”. Đó là một sự chọn lựa, xuất phát từ chất giọng, niềm rung động riêng của bản thể và cũng có thể là thiên tư, thiên bẩm. Tìm ra mình muốn gì và miệt mài năm tháng đeo đuổi nguồn đề tài, cảm hứng ấy, dù không lạ và mới, trước hết đó là phong cách.
Nhà Folklore học G.I.Maltsev có nói: “Hãy cho tôi biết nhân vật của bài ca đang nghĩ, đang hát về thời điểm nào, tôi có thể nói điều gì đang diễn ra với nó.” Đi vào thế giới nghệ thuật thơ Trần Vạn Giã, dễ dàng nhận thấy, nhà thơ thường chọn thời gian nghệ thuật từ chiều vào đêm, đặc biệt là những thời gian cuối năm, thời khắc giao thừa: Thơ viết chiều 28 Tết, Chiều tháng Giêng, Trầm khúc xuân, Thắp nến mùa xuân, Cúc vàng, Bếp giao thừa, Tết nay con sẽ về quê, Đêm Xuân, Như là cổ tích,… Nói một cách khác, nhà thơ có một vườn thơ khá phong phú về chiều xuân, đêm xuân, đêm trừ tịch, phút giao thừa…
Đa phần, viết về mùa xuân, các thi sĩ thường tả mùa xuân, tức là thiên về vẻ xuân, sắc xuân. Điều đó cũng dễ hiểu vì mùa xuân mang vẻ đẹp rực rỡ, rộn ràng; mùa của màu sắc, âm thanh, ánh sáng… Khu vườn, cánh đồng, bầu trời, sông nước, hoa lá, chim muông, ong bướm,… đã toả sắc, toả hương, toả sáng,… đài các có, giản dị có, thanh tân có, rạo rực có,… trong vườn thơ dân tộc.
Giữa muôn vàn điệu thơ xuân ấy, nhà thơ Trần Vạn Giã từ trong ý thức và hình như cả sự dẫn dắt của tiềm thức đã tạo ra một không-thời gian nghệ thuật cho riêng mình: mùi của mùa xuân, mùi của đêm xuân nhưng phải là thứ mùi gắn với quê hương, quê nhà. Đó là một đề tài khá gợi cảm và nhạy cảm, nghiêng về chiều sâu, sâu lắng, sâu xa; ý thơ, do vậy, thiên về suy cảm, suy tư; hồn thơ vừa giàu cảm xúc vừa giàu triết lý.
Trong thơ xuân của Trần Vạn Giã, ta thường bắt gặp mùi khói, khói đồng, khói rơm rạ, ở gần thì cay cay mắt, đi xa càng thấy mắt cay cay:
Khói rơm bay cuối sân đình
Đò ơi sắp Tết cho mình sang sông
(Về quê ăn Tết)
Mùi rơm trong ngọn khói đồng
Cò bay trong gió mênh mông quê nhà
Bỏ làng con đã đi xa
Tết về ấm khúc dân ca mẹ chờ.
(Tết nay con sẽ về quê)
Mùi khói dân dã của cánh đồng quê do vậy mà có sức gọi người con xa trở về, nhất là dịp Tết. Cùng với đó là mùi đất quê đêm đêm lan toả mùi hương đánh thức khứu giác người con mang mùi đồng đất quê mình đi tứ xứ, đi vào xứ sở thơ:
Nằm đêm nghe đất bồi hồi
Gặp hơi ấm đất của tôi ban đầu
Mùa Xuân của những sắc màu
Theo tôi chập chững qua cầu Bài Thơ
(Nên chi một ngả)
Hình tượng khói trong thơ Trần Vạn Giã, ấn tượng nhất có lẽ là khói bếp, cả cái khói bếp chụm bằng bả mía rất nhà quê, và là quê nghèo nên thương nên nhớ:
Bếp lửa bập bùng nhả khói vào đêm
Người quây quần bên nhau thầm kể
(Bếp giao thừa)
Chuyện tình vĩnh cửu
Để sau bốn mươi năm
Hai ta trở về đây
Nhúm lại ngọn lửa từ bả mía
Thơm mùi dân dã
Đứng nhìn khói bay vào hư không
Chạnh lòng muốn khóc
(Thắp nến mùa Xuân)
Mùi của bếp lửa bánh tét đêm giao thừa có lẽ là mùi hương có sức lay động sâu xa nhất chính bởi đó là mùi Tết in đậm trong tâm thức người Việt, đặc biệt là những người có một thời gắn bó với quê hương rồi vì một lý do nào đó phải gián cách, nay bỗng được trở về:
Giọng hô bài chòi làng mới vào Xuân
Người thao thức đun củi thêm nồi bánh tét
(Bếp giao thừa)
Dường như tất cả ngũ giác và cả cảm giác của một người đã lâu xa quê nay được về quê ăn Tết bỗng nhất loạt bừng mở qua nồi bánh tét đang sôi, sôi lên mùi của củi lửa, của khói bếp, của lá chuối, của nếp,…dặt dìu hoà quyện như hiện như ẩn một giai điệu Tết quê. Đêm xuân ở quê vốn đã mênh mang. Đêm giao thừa, trong cái mênh mang ấy, có thêm sự nao nức kỳ lạ của nồi bánh tét sôi trên bếp củi cháy đỏ làm lòng người “thao thức”. Không gian càng huyền diệu, lòng người càng xôn xao khi đâu đó vang vọng tiếng hô bài chòi của thôn dân vào hội xuân.
Trong vô vàn những mùi vị khó quên của quê hương, đêm của mùa xuân, đặc biệt là đêm Tết càng sâu lắng bởi hương nhang trầm như có như không một “trầm khúc xuân” thiêng liêng và thanh tịnh:
Tạ ơn làng. Thắp nén hương
Tôi là tôi của hạt sương đêm này.
(Trầm khúc xuân)
Đêm xuân, ngã vào lòng quê mẹ thổn thức như ngã vào lòng mẹ, thoảng đâu đây hương trầu nồng cay cay, say say:
Con về dâng mẹ trầu nồng
Đêm xuân con ngã vào lòng mẹ quê
(Đêm Xuân)
Phải chăng, hương đêm xuân là một chỉ dấu về hồn thơ và điệu thơ Trần Vạn Giã: mộc mạc, chân chất, giàu ân tình, chân tình. Lấy điệu quê làm điểm cất cánh và đường bay cho thơ làm nên một hồn thơ tiệm cận với ca dao truyền thống và thi sĩ “hương đồng gió nội” Nguyễn Bính, đó là điểm son góp nên thành công của thơ Trần Vạn Giã.
Như một quy luật của loại hình, khi cảm xúc nghiêng về chất quê, hồn quê thì các thi sĩ thường tìm về thể thơ lục bát. Thơ lục bát Trần Vạn Giã ít có sự phá vỡ hình thể câu thơ. Một số nhà thơ hiện đại đã dựa vào tiết tấu 2/2 hoặc 4/4 của thể thơ lục bát mà ngắt câu lục thành ba dòng hoặc ngắt câu bát thành hai hoặc bốn dòng. Nhà thơ Trần Vạn Giã không thế, ông vẫn quyết giữ dòng lục là lục, dòng bát là bát. Có chăng, ông phá cách theo kiểu kết cấu dòng lục, dòng bát gồm hai câu:
Tạ ơn làng. Thắp nén hương
Gió bay mặc gió. Sông sâu mặc đò.
Nhưng số lượng những câu thơ lục bát như thế cũng không nhiều trong thơ Trần Vạn Giã. Ông vẫn giữ điệu thơ lục bát êm êm, câu trên gọi câu dưới như chính tâm hồn người dân quê, tâm hồn dân tộc - nhẹ nhàng, hiền hoà, bình thản. Đó cũng là những chân cảm của một con người từng trải qua quá nhiều sóng gió của cuộc đời, của thời thế, giờ đã nhận chân sự sống, sự đời. Điều đáng quý là ở đây có sự hoà điệu của một tiếng thơ lục bát thời hiện đại với điệu hồn dân tộc như một mạch chảy không dứt của truyền thống:
Hôm qua đám cưới qua đình
Đêm nay có kẻ si tình đốt thơ
Có dòng sông chảy trong mơ
Trái phù du rụng xuống bờ tình yêu
Vườn cau vắng tiếng chim kêu
Lá mùa xuân cũng ít nhiều tương tư
(Lá tương tư)
Mùa xuân-chiều xuân-đêm xuân qua mùi của khói, nhiều mùi khói, có lẽ là điểm riêng, sáng tạo của nhà thơ Trần Vạn Giã. Nhà thơ Mỹ gốc Nga Joseph Brodsky (giải Nobel Văn học 1987) từng nói: “Nếu như nghệ thuật có dạy được điều gì đó – trước hết là cho người nghệ sĩ – thì đấy chính là tính cá nhân của sự tồn tại của con người.” Từ một chi tiết nghệ thuật độc đáo trong thơ xuân của Trần Vạn Giã, mùi khói dân dã trong thơ dân dã, bạn đọc có thể hiểu thêm về con người nhà thơ, cả trong cuộc đời lẫn khát vọng sáng tạo.
CHẾ DIỄM TRÂM

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét