MẸ
thư từ bài vở xin gửi về : hothanhngancm@gmail.com HỒ THANH NGÂN Hội viên hội văn học nghệ thuật Cà Mau Hội viên hội văn học nghệ thuật Phú Yên Hiện sống và viết tại Cà Mau Tác phẩm đã xuất bản : Sông Đốc Ngày Nắng Muộn - Nxb Thanh Niên (2016) Phương Nam Lộng gió - Nxb Hội Nhà Văn (2018) Trường Ca Nhớ Phú Yên - Nxb Hội Nhà Văn (2019 ) Chiều Ở Phía Ngược Gió - Nxb Hội Nhà Văn (2020)
Thứ Sáu, 27 tháng 11, 2020
MẸ - ĐỖ TRUNG QUÂN
Thứ Tư, 25 tháng 11, 2020
NHỮNG CUNG ĐƯỜNG LƯƠNG NGỌC AN - ĐÀO ĐỨC TUẤN
Những cung đường Lương Ngọc An

Tôi biết có những người sinh ra là để… không ngồi yên một chỗ. Nhà thơ, nhà báo Lương Ngọc An là một trường hợp như vậy.
Đi về phía biển
Tháng 5-2000, anh bạn nhà thơ, nhà báo Phan Hoàng giới thiệu Lương Ngọc An với tôi. An từ Hà Nội vào Phú Yên viết ký sự đường dài và để khuây một chuyện buồn (đại khái… vậy). Một anh chàng to con, tóc húi cua thời thượng, đeo dây chuyền bự, ngồi trên chiếc xe máy kềnh càng. Vốn ở tỉnh xa, mọi chuyện khá “chuẩn mực”, tôi hơi bị xốc trước dáng vẻ của chàng nhà thơ ở Báo Văn Nghệ Trẻ. Tuy nhiên, nỗi niềm nghề nghiệp đã kéo chúng tôi đồng điệu.
An có giọng đọc thơ mê hồn và một vẻ phong trần nhiều hơn tuổi ngoài ba mươi. Đến Tuy Hòa lần này, An nhất quyết theo tàu câu cá ngừ đại dương, mặc dù đang lúc thi thoảng biển động. Sau khi làm cam kết không đuợc… đòi về giữa chừng, An leo lên tàu hướng hun hút ra giữa đại dương cùng những ngư dân sắt se vì miếng cơm manh áo. Thú thật, làm báo tại quê hương câu cá ngừ đại dương nhưng đã mấy chúng tôi dám bước chân theo tàu lênh đênh như thế.
Dân biển ở đây có quy định mỗi người lạ xuống tàu đều phải đặt cọc từ 10 đến 15 triệu đồng. Đó là khoản tiền đủ chi phí cho một chuyến biển; phòng khi người đó đau ốm hoặc say sóng phải bỏ dở chuyến đi để đưa vào bờ thì sẽ phải chịu toàn bộ khoản chi phí đó. Sẵn có chiếc xe máy đem theo, nay xuống biển không cần nữa, An đặt luôn. Cũng may mà được chấp nhận. Ông chủ tàu bảo: “Cốt là để chú phải lượng sức mình và có thêm trách nhiệm với anh em thôi...”. Nhưng khi được biết tôi từng là lính xe tăng, lại cũng từng “hành quân” ra tới Trường Sa thì ông cười thật to và vỗ mạnh vào vai tôi: “Được!”...
Sau đợt đó, Lương Ngọc An viết phóng sự “Ra khơi cùng thợ săn” (dự thi Báo Lao Động và đoạt giải Nhì (cuộc này không có giải Nhất). Sau đó một năm, cũng với đề tài câu cá ngừ đại dương, An “thâm canh” giải Nhất bút ký dự thi Tạp chí Văn nghệ quân đội.
Gia sản nỗi buồn
Tôi chợt nghiệm ra, nhờ thơ và nghề báo mà Lương Ngọc An mới sống được bề bộn, liều mạng như vậy. Trong tập thơ “Trở mình”, ở tuổi ba mươi, anh triết lý một cách nồng ấm: “ngồi xuống đất để đừng bao giờ ngã/leo lên cao để đừng bao giờ lấm/đừng mất nhau - để đừng bao giờ đau/hay đừng có nhau - để đừng bao giờ đau” (Giai điệu). Từ một sĩ quan thiết giáp, An chuyển hẳn sang học làm thơ, học một cách nghiêm túc ở sách vở, ở các bậc đàn anh, ở trường Viết văn Nguyễn Du và ở... lang thang. Một chàng trai hộ pháp bỗng tỏ ra yếu đuối lạ kỳ trước vẻ đẹp của nàng thơ. Có lần An tếu táo với tôi: “Phải có sức khỏe thật sung hoặc ngược lại một trăm tám mươi độ thì mới làm thơ tình hay đuợc”. Tôi chẳng tin lắm nhưng mà nghe cũng có lý…
Cái vẻ ngoài bụi bặm và hơi phớt đời của An lại mềm mại và da diết đến nao lòng trong thơ. Ngẫm về bạn, đôi lúc tôi tự nhủ: “Trời phú cho ông này nhiều thứ thật. Dáng vẻ khỏe mạnh và một tâm hồn dạt dào như thế, con gái nào không yêu hắn được chứ”. Nói vậy thôi chứ trời cũng chẳng cho ai quá nhiều đâu, đôi khi nuốt chưa trôi thì đã “móc” lại! An vào Phú Yên là đi tránh mấy chuyện khổ ải ở Hà thành. Nhà văn Đào Bá Đoàn nói: “Lương Ngọc An quá đa cảm nên nhiều nỗi buồn…”.
Đâu đã mấy năm, trên đường thiên lý, An cùng một đoàn làm phim tài liệu ghé tạt Tuy Hòa nghỉ một đêm. Lần này, một đài truyền hình mời An tham gia tư vấn nội dung và viết lời bình cho một loạt ký sự dài tập. Có thể nói, sự thẩm thấu văn hóa luôn là một tố chất của Lương Ngọc An.
Thỉnh thoảng đọc thơ, đọc báo lại biết An vừa đi Tây Nguyên, Tây Bắc, Đông Bắc, Quảng Trị, Nam Bộ, Lào, Campuchia... Đi nhiều và viết chắt lọc, An đã đoạt mấy giải bút ký, phóng sự; riêng nghiệp thơ đã in chung riêng mấy tập đầy đặn và “lượm được” mấy giải thưởng thơ danh giá. Chính An là một típ người - thơ mạnh mẽ đến táo tợn mà nhiều hội hè thi phú đang thiếu…
Vừa rồi gặp lại bên hồ Thiền Quang (Hà Nội), trông An đã giảm “bặm” so xưa, thoáng đượm mùi mỏi mệt sau hơn nửa đời thơ - báo, nhất là trĩu gánh trách nhiệm một người làm “bếp núc” báo văn. Thế nhưng vẫn ánh da diết lên trong mắt An là câu chuyện chữ nghĩa báo chí, văn chương.
“Bút pháp là tài sản riêng của nhà văn. Đổi mới đến đâu thì cũng còn phải xem anh có gì để đổi mới và bắt đầu từ đâu mà đổi mới. Nếu anh là người giàu có thì chẳng cần đổi mới, cứ tự nhiên như anh vốn có thì cũng đã là quá độc đáo và sang trọng rồi. Còn anh là người nghèo nàn thì có cố gắng đến đâu đi nữa cũng khó mà qua khỏi cái bóng của người giàu có. Chúng ta đã đi qua cả một chặng đường dài, rất dài của văn học và các vấn đề về bút pháp, nên vệc đổi mới không phải là chuyện muốn mà được. Cái có thể làm bây giờ là làm thế nào để đi được dài nhất trên con đường vắng nhất, thế là thành công”, Lương Ngọc An trải lòng.
NGỤY TRÍ THỨC !...- NGUYỄN THANH TÂM
Ngụy trí thức!...
Trí thức được hiểu một cách thông thường là những người lao động trí óc. Sẽ có những phân tích, định nghĩa khác kỹ lưỡng, chặt chẽ hơn, nhưng trong bài viết này, chúng tôi hiểu rằng, trí thức là một thành phần xã hội, một bộ phận người, làm việc, sử dụng trí óc, mang lại lợi ích cho cá nhân và cộng đồng...
Hiểu đơn giản hơn, trí thức là người có học, được đào tạo (hoặc tự đào tạo), nắm giữ tri thức và làm việc một cách thường xuyên với tri thức (để phân biệt với lao động chân tay, cơ bắp).
Trong quan niệm truyền thống phương Đông, xã hội được chia làm bốn thành phần: Sĩ - Nông - Công - Thương. Cấu trúc này đề cao vai trò của người trí thức (Sĩ). Trong thực tế lịch sử, văn hóa, văn minh, cả phương Đông và phương Tây, trí thức luôn là lực lượng tinh hoa, chủ chốt trong việc tạo dựng các giá trị sống của cộng đồng (đôi khi, chúng ta sẽ nhận ra trí thức đã ẩn mình sau những giá trị nhân danh cộng đồng, thậm chí vô danh).
Vai trò của trí thức là rất to lớn. Điều đó chúng ta không bàn cãi. Tuy nhiên, chính từ vai trò, vị trí đó, nảy sinh một dạng ngụy trí thức, trí thức giả, trí thức nửa mùa, ăn bám, nước đôi… rất đáng lên tiếng để chỉ ra. Cùng với đó, luận điệu dân chủ giả hiệu, dân chủ cuội mà đám ngụy trí thức này rêu rao cũng rất đáng phê phán. Bài viết này của chúng tôi bước đầu nhận diện một số biểu hiện này.
Thế nào là ngụy trí thức? Câu hỏi đó đặt ra cho chúng ta góc nhìn về những biểu hiện nhân danh, giả trá hay ngụy tạo, nhằm những mục đích mà người trí thức chân chính không bao giờ chấp nhận, thỏa hiệp. Một trong những vai trò của trí thức là phản biện xã hội. Tuy nhiên, nhân danh phản biện xã hội, nhiều trí thức đã đánh mất vai trò tích cực của mình, để trở thành những kẻ gây rối, làm mất trật tự xã hội. Khi đó, chúng ta nhận ra bộ mặt của kẻ ngụy trí thức.
Thật nực cười, nhân danh phản biện xã hội, họ lên tiếng phê phán, đả kích, phủ định những nỗ lực của cộng đồng trong việc hoạch định chính sách, kiến tạo giá trị trong khi chính họ lại không làm được điều gì đóng góp vào đời sống. Không làm được gì mà chỉ giỏi nói, đã thế, lại còn phát ngôn một cách tiêu cực, sổ toẹt mọi thành tựu của cá nhân hay cộng đồng là biểu hiện của kẻ ngụy trí thức.
Không thấy hoặc cố tình không thấy mặt tích cực, thành quả của những nỗ lực xây dựng, kiến thiết, kẻ ngụy trí thức lớn tiếng chửi mắng, phê phán, bêu riếu, xem thực tại như là hệ quả của những sai lầm. Điều đó là không khách quan, không sòng phẳng, và xét từ trong bản chất, không đúng với vị trí, vai trò của trí thức. Phản biện xã hội không phải là sự chửi mắng, phá phách lộn nhào tất cả mà là những đóng góp thiết thực, nghiêm túc, giàu hàm lượng tri thức, làm tăng khả năng cải tạo thực tại theo hướng tốt đẹp hơn.
Đơn cử như việc cải cách giáo dục. Vẫn biết, hệ thống giáo dục của chúng ta còn những điểm bất cập, nhưng thử hỏi chính những kẻ phê phán kia, họ làm được gì ngoài việc lên mạng xã hội sổ toẹt tất cả. Khi được hỏi: Vậy theo anh chúng ta cần phải làm gì? Họ đã trả lời một cách vô cùng thiếu trách nhiệm rằng: Hãy làm ngược lại. Họ, mang danh trí thức, nhưng không tạo ra được thành quả ích lợi gì.
Là trí thức, ăn lương Nhà nước, nhưng cả năm, thậm chí năm mười năm, không có một đóng góp gì vào môi trường học thuật, tri thức mà mình là thành viên. Phê phán Nhà nước nhưng vẫn hằng tháng nhận lương từ nhà nước. Chỉ cần đặt ra cho họ vấn đề hết sức thẳng thắn rằng, nếu anh thấy không thể chấp nhận môi trường làm việc này, anh có thể xin nghỉ, ra làm tự do và hưởng thành quả từ chính lao động của mình.
Tôi đồ rằng, họ sẽ lảng đi và rồi lại đều đặn hằng tháng nhận lương để không làm gì - hoặc nếu có lại là chửi mắng, phê phán chính cái nơi mà mình đang không làm vẫn hưởng lương. Điều này trước hết vi phạm đạo đức làm người, sau đó là vi phạm vào danh dự, lòng tự trọng và vị trí đứng đầu (trong cơ cấu thành phần xã hội) của người trí thức chân chính.
Biểu hiện của ngụy trí thức là thái độ nước đôi, nửa vời và ăn theo (nói leo). Quan sát mạng xã hội, chúng ta bắt gặp rất nhiều những kẻ ngụy trí thức như thế. Thường thì, sẽ có một vài nhân vật có ảnh hưởng trong đời sống trí thức, khoa học, văn chương, báo chí, chính trị là đầu tàu, phát ngôn của họ được xem là có trọng lượng, được nhiều người theo dõi hay ủng hộ.
Tuy nhiên, bộ phận đông hơn là những kẻ ăn theo nói leo, đeo bám để lấy số má - ta đây cũng là trí thức, cũng cấp tiến, cũng thức thời. Thật buồn cười, nhưng đúng là có những kẻ vênh vang tự đắc vì mình đứng ở "lề trái", bị/được an ninh theo dõi, mời làm việc hay nhắc nhở…
Chúng ta không bàn đến nghiệp vụ an ninh hay những thiết chế duy trì trật tự xã hội mà bất kỳ nhà nước, thể chế nào cũng cần có. Ở đây, chúng ta nói đến thái độ của kẻ mang danh trí thức (mà thực chất là ngụy trí thức). Thật xoàng xĩnh, thật rẻ rúng, và tệ hơn nữa, họ đã ảo tưởng, sai lầm về chính cái vỏ trí thức mà họ đang cố khoác lên người.
Trí thức là phải phản biện xã hội. Đúng! Nhưng là phản biện trên tinh thần tri thức, trên tinh thần xây dựng với thái độ cầu tiến và tích cực. Chắc hẳn chúng ta sẽ ngạc nhiên khi nghe thấy họ - ngụy trí thức, nói rằng, hãy tuần hành phản đối chính sách, nhưng kết cục, họ lại đeo khẩu trang, kính đen và ngồi nép ở một góc quán cà phê nào đó chụp ảnh đăng facebook và rêu rao mình là kẻ cấp tiến. Cấp tiến đâu phải như thế! Đó là một dạng cấp tiến giả hiệu, một biểu hiện gian trá và hèn nhát.
| Tiến sỹ Nguyễn Thanh Tâm, Tamvvh@gmail.com. |
Cùng với ăn theo, đeo bám lấy số má, ngụy trí thức còn là những kẻ nửa vời, nước đôi. Họ không dám làm cái gì đến cùng, thường là sẽ thỏa hiệp ngay trước những khó khăn của tình huống thực tế. Đây là điều mà nhiều người nhận ra. Nó có vẻ giống như kinh nghiệm "Mềm nắn rắn buông" của dân gian, nhưng với kẻ ngụy trí thức nó lại hàm chứa khía cạnh hèn nhát. Trí thức có thể chết cho tư tưởng, nhưng ngụy trí thức thì không. Bởi vì, nói vậy thôi, họ còn có nhiều mưu cầu, nhiều tham vọng, đâu có thể hi sinh tất cả cho tư tưởng được.
Cái tệ hại của kẻ ngụy trí thức ở đây, không chỉ là việc ăn, uống, nói, làm trái với luận điệu mà họ thường rêu rao, mà chính ở chỗ họ không có đủ dũng khí, can đảm để sống trong lao khổ của thực tại. Đứng trên nhân dân, định hình một tầng lớp trưởng giả để lớn tiếng nói về sự cần lao, điều đó hàm chứa sự mâu thuẫn, nếu không nói là một sự vô nghĩa, vô lương. Họ - kẻ ngụy trí thức, không bao giờ từ bỏ địa vị, điều kiện hay quyền lợi của mình để sát vai với nhân dân.
Càng nực cười hơn, khi trong số những kẻ ngụy trí thức đó, chúng ta biết rằng, ngày còn làm việc, đương chức, hưởng các chế độ ưu đãi, quyền lợi của danh vị, họ im thin thít. Nhưng, rời khỏi vị trí, về hưu, con cái phương trưởng, chẳng còn gì phải lo toan, cầu cạnh nữa, lập tức họ quay ra phê phán, nói xấu, bày tỏ thái độ bất như ý với mọi thứ một thời họ đã khư khư giữ lấy. Đó có phải là “qua cầu rút ván”, là “ăn cháo đá bát” không?
Đã thế, có không ít kẻ nhân danh tinh thần dân chủ, tự do ngôn luận để rêu rao các luận điệu đi ngược lại lợi ích cộng đồng. Cứ thử nghĩ xem, những phát ngôn huênh hoang rỗng tuếch, ăn theo nói leo, dựa thời dựa thế, đả kích, phủ nhận sách trơn, không mảy may có một chút tinh thần xây dựng kia sẽ góp thêm được gì vào hệ giá trị chung? Năng lực phân biệt đúng sai, truy tìm nhận diện chân lý là phẩm chất cao quý của người trí thức. Nhưng, đáng tiếc, có nhiều kẻ nhân danh trí thức để tung hỏa mù, để xuyên tạc hay bịa đặt, làm méo mó thông tin… với mục đích rất không chính đáng, thiếu chính trực, ngay thẳng.
Ngụy trí thức thực sự đang làm rối trật tự xã hội, tạo nên những dư luận, thông tin, năng lượng tiêu cực, gieo hoang mang lên cộng đồng. Mọi nỗ lực của cá nhân hay tập thể (chúng ta đang nói về trí thức) trong nghĩa lý cao cả của nó là hướng đến tạo dựng các giá trị tốt đẹp hơn cho con người. Sự phản biện, dĩ nhiên là cần phải có khi xung quanh chúng ta còn tồn tại nhiều bất cập, nhưng phản biện để xây dựng khác với đập phá.
Trí thức chân chính là người hiểu rõ điều đó và sử dụng tri thức của mình một cách hữu ích. Tri thức, trách nhiệm, lương tri và khát vọng cao cả có lẽ vẫn luôn là ánh sáng trên đầu kẻ trí thức ưu thời mẫn thế. Còn ngụy trí thức mãi mãi chỉ là kẻ đeo bám đáng thương dưới chân người khổng lồ.
Nguyễn Thanh TâmTRÍ THỨC HAY TINH THẦN CÔNG CHÍNH - THANH ĐÔ
Trí thức hay tinh thần công chính
.THANH ĐÔ
Trên tạp chí Văn nghệ Quân đội số 913 (cuối tháng 3/2019) có bài viết Trí thức hay ngụy thức của tác giả Lý Ái Châu nêu lên thực trạng đang tồn tại một bộ phận “ngụy thức” - những kẻ nhân danh trí thức lớn tiếng phê phán, miệt thị, phủ nhận các giá trị lịch sử - xã hội, cá nhân, tập thể, gây tâm lí tiêu cực trong cộng đồng. Chúng tôi cho rằng, bài viết đã bước đầu nhận diện bộ phận ngụy thức, nêu lên những biểu hiện cực đoan, đáng phê phán của họ. Tuy nhiên, một vấn đề đồng thời được đặt ra là: Trước sự lộng hành của ngụy thức, người trí thức mang tinh thần công chính đang ở đâu, làm gì?
Trước những luận điệu của bộ phận ngụy thức, người trí thức công minh chính trực đã làm gì? Có thể nói rằng: phần đông họ im lặng! Tại sao nhiều trí thức chân chính lại im lặng trước các biểu hiện tiêu cực của thời thế, xã hội? Có cái im lặng là khinh bỉ, không chấp, nhưng có sự im lặng vô hình trung lại là đồng tình. Ở khía cạnh khác, thái độ vô can cũng nói lên tâm lí cầu an của một số trí thức. Trí thức chân chính phải phát huy tri thức của mình trong phản biện xã hội, trong đó có việc phản biện chính những tiếng nói chưa đúng, những diễn ngôn gây tiêu cực trong đời sống, nhưng, sự im lặng đã biến trí thức thành “trí ngủ”. Né tránh việc can dự một cách tích cực vào thực tại xã hội biến trí thức - lực lượng tiên phong thành lực lượng yếm thế, bàng quan. Sự im lặng đồng nghĩa với việc tiếp tay cho cái xấu, cái ác, cái tiêu cực nảy nở trong đời sống. Người trí thức sở đắc tri thức cần phát huy vai trò của mình trong việc vận dụng tri thức, tác động đến xã hội theo hướng tích cực. Theo nghĩa đó, việc lên tiếng phê phán những kẻ ngụy thức chính là việc “cần làm ngay” để minh định nội hàm khái niệm trí thức, chính danh hóa trí thức, xây dựng nền công chính, thanh lọc và qua đó định hướng xã hội đến các giá trị nhân văn cao cả và tốt đẹp. Một ví dụ khá điển hình đang xuất hiện trong đời sống là nhiều kẻ mang danh trí thức phê phán thành tựu của công cuộc đổi mới, xem đó là nửa vời, là đổi mới một cách hình thức… Người trí thức chân chính cần lên tiếng bằng sự hiểu biết của mình để chỉ ra những thành tựu quan trọng mà nhân dân ta có được từ khi đổi mới. Lên tiếng để chống lại các luận điệu xuyên tạc, hạ bệ thần tượng Hồ Chí Minh, chống lại quan điểm giải thiêng các lãnh tụ và anh hùng dân tộc. Trong lĩnh vực văn học nghệ thuật, lên tiếng phản biện xu hướng vận dụng các quan điểm, lí thuyết tân lịch sử, hậu hiện đại, giải cấu trúc theo hướng tiêu cực hay sống sít, lai căng. Sự lên tiếng ấy thể hiện tư cách của trí thức chân chính, trí thức nhập cuộc. Không cần phải viện dẫn quá nhiều về cuộc đời, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh - một cuộc đời vĩ đại, chỉ cần hình dung rằng, ở thời điểm 1911, người thanh niên Nguyễn Tất Thành 21 tuổi đã xuống tàu vượt đại dương tìm đường giải phóng dân tộc, điều đó thể hiện ý thức, tinh thần nhập cuộc một cách quyết liệt của người trí thức trẻ tuổi. Sự lựa chọn từ Nguyễn Sinh Cung đến Nguyễn Tất Thành và con đường trở thành Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh là bằng chứng không thể hùng hồn hơn cho vai trò, trách nhiệm của người trí thức trước thời cuộc, trước nhân dân. Trong bối cảnh dân tộc đắm chìm trong tăm tối, khủng hoảng về đường lối cứu nước, những nhân cách như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Ái Quốc,… thực sự đã làm sáng lên hình ảnh trí thức dấn thân cho vận mệnh dân tộc những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Cuộc đời của họ trở thành bài học lớn trong lịch sử, thành biểu tượng cao đẹp về người trí thức mà không phải ai cũng có đủ tư cách, tầm vóc để đánh giá, chưa nói là phê phán…
Xét trên bình diện cấu trúc sinh thành, một cá nhân cùng với quá trình trở thành trí thức luôn ẩn chứa khát vọng tiến vào trung tâm, trở thành một giá trị, một lực lượng để phát huy vai trò xã hội của mình. Trung tâm ở đây được hiểu là khái niệm bao hàm cả quyền lực thể chế hành chính và quyền lực tri thức. Vậy, vấn đề đặt ra là những trí thức đang ở trung tâm của quyền lực tri thức, hành chính đã làm gì? Để không biến phản biện xã hội thành bạo loạn xã hội, không biến văn minh hóa thành thực dân hóa, người trí thức trước tiên tự khai minh, sau nữa phải phê phán những biểu hiện tiêu cực trong cộng đồng trí thức. Phản biện sự phản biện, phê phán sự phê phán có tính chất tiêu cực là một trách nhiệm của trí thức công chính. Trong trường hợp này, im lặng chính là tiếp tay cho cái xấu, cái ác, cái sai lầm, tiêu cực ngày càng “phì đại” (hiper - thuật ngữ của Jean Baudrillard). Điều quan trọng nữa, đối tượng ngụy thức đang làm cộng đồng hiểu sai bản chất, vai trò của trí thức và làm xấu đi hình ảnh của trí thức trong đời sống và trong lịch sử. Sự lớn tiếng, ồn ào một cách không cần thiết, sự thiếu cẩn trọng trong phát ngôn, trong các hành vi can dự, sự thiếu hiểu biết nhưng lại nhiệt tình phê phán đã tạo nên ảnh hưởng tiêu cực trong xã hội. Ở đây cần phân biệt rõ, trí thức chân chính khác với ngụy thức, với những “anh hùng bàn phím” đang ngày càng hiện diện một cách rất đáng ngại trong đời sống tinh thần của chúng ta.
Xu hướng cấp tiến ngụy tạo và ảo tưởng sức mạnh đã biến một số người (tự xem là trí thức) thành lực lượng đối lập với trí thức chân chính. Sự ồn ào và “tính nước đôi”(1) của họ cần phải được phê phán nghiêm túc bởi về mặt bản chất, đó là hành vi duy ý chí nhằm hướng đến những ích lợi cá nhân, thay vì hỗ trợ được cộng đồng một cách thực chất. Trong một nghiên cứu khá thú vị về trí thức thời đại toàn cầu, tiến sĩ Phạm Phương Chi (Đại học Quốc gia California, Hoa Kì) bày tỏ: “Người trí thức cần phải vượt qua quyền lợi và sự tiện lợi cá nhân, nghĩ cho quyền lợi và sự tiện lợi của số đông nhân dân và hơn hết là nghĩ cho sự văn minh, sự bền vững và sự tự chủ về lâu dài của quốc gia - dân tộc mình”(2). Chúng tôi tán thành quan điểm của tác giả trong bài viết. Từ quan điểm này, có thể thấy việc những trí thức có tầm lựa chọn cách thế né tránh thời cuộc phần nào nói lên tâm lí vị thân, vị kỉ của họ. Ở đây, chúng ta chợt nhớ đến những câu thơ tha thiết của Thanh Thảo: Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình (Những tuổi hai mươi làm sao không tiếc)/ Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi đất nước (Những người đi tới biển). Những người con đã dâng hiến tuổi hai mươi cho Tổ quốc, những cuộc đời đã tạc vào sông núi, đã hóa thân cho dáng hình xứ sở,… đặt ra sự truy vấn đầy nghiêm khắc đối với thái độ lặng im, bàng quan, lảng tránh của chúng ta. Cái xấu, cái ác, cái vô lương và sự trá ngụy vẫn len lỏi, bành trướng trong đời sống ngầm lên án sự thờ ơ của người trí thức công chính, tố cáo họ vô tâm trước vận mệnh quốc gia, dân tộc, trước các giá trị nhân văn cốt lõi.
Lựa chọn sự im lặng, những trí thức chân chính đã đi ngược lại hành trình trở thành trí thức của mình. Mẫu hình nhà nho ẩn dật thuở xưa có thể thấy thấp thoáng trong một vài trường hợp ở trí thức ngày nay. Việc đi sâu vào những nghiên cứu hàn lâm, những chuyên ngành hẹp hay những vấn đề lịch sử xa xôi không phải không hàm chứa ý niệm lảng tránh của người trí thức (lánh đời để giữ gìn tiết tháo, nhân phẩm). Một số trường hợp, người trí thức vì lo ngại những hệ lụy từ việc lên tiếng đã lựa chọn im lặng. Họ ẩn dật giữa cuộc đời đầy biến động, ẩn dật trong chính chuyên môn của mình. Dĩ nhiên, lĩnh vực chuyên ngành nào cũng cần nghiên cứu, cần chuyên gia và trí thức bậc cao, nhưng việc ẩn náu trong “tháp ngà” khoa học trong khi xã hội bên ngoài đang nổi lên nhiều vấn đề nóng bỏng không sao ngăn được trong chúng ta ý nghĩ về một sự thờ ơ, một sự chối từ can dự vào xã hội của người trí thức. Nó giống như một sự thoái thác trách nhiệm công dân. Trong khi bộ phận ngụy thức vẫn không ngừng lớn tiếng phê phán, miệt thị, phủ nhận, xuyên tạc, hạ bệ các giá trị, thần tượng, những người trí thức chân chính lại im lặng. Đó là sự thất bại của tinh thần công chính, là sự suy giảm của ý thức dấn thân, nhập cuộc. Cũng từ đó, tiến bộ xã hội bị trì hoãn, ngáng trở hay kéo chậm lại.
Trí thức công chính không thể thoái thác trách nhiệm xã hội của mình, càng không thể “đắp tai cài trốc”, “trùm chăn” trước thời cuộc. Ở đây sự im lặng liên quan đến vấn đề đạo đức, lương tâm của người trí thức. Im lặng, nghĩa tiêu cực của nó là sự thoái vị, sự tán đồng những hiện diện tiêu cực gây nên từ bộ phận ngụy thức. Paul Baran, một nhà kinh tế học người Mĩ theo chủ nghĩa Marx đã nhấn mạnh: “Nếu chúng ta theo gương kẻ “thoái thác trách nhiệm”, những người chủ trương “trung lập đạo đức” chỉ quan tâm đến phần việc riêng của mình, thì chính chúng ta sẽ ngăn cản tầng lớp này của xã hội - lớp người có (hay đáng lẽ phải có) những kiến thức và học thức phong phú đầy đủ nhất, nhiều khả năng khám phá và hấp thụ kinh nghiệm lịch sử nhất - trong việc cung cấp cho xã hội một phương hướng nhân bản cùng sự lãnh đạo sáng suốt có thể thu góp ở mỗi ngã tư của cuộc hành trình lịch sử”(3). Nói như thế, nghĩa là người trí thức công chính phải can đảm dấn thân để cất lên tiếng nói lương tri của xã hội, của thời đại.
Phản biện xã hội một cách văn minh, có tri thức và tâm huyết là việc làm cần thiết của người trí thức công chính. Hàng ngày, trên một số diễn đàn, mạng xã hội, bắt gặp những bình luận về một chủ đề nào đó, chúng ta cảm thấy rất khó chịu, thậm chí “chướng tai gai mắt” khi một số facebook cá nhân sử dụng nhiều lời lẽ thô tục, chợ búa, thiếu văn hóa, những cách nói hoàn toàn không phải của người trí thức. Chưa nói việc họ phủ nhận sạch trơn, xuyên tạc, hạ bệ các tượng đài giá trị, ngay cách sử dụng từ ngữ, lí lẽ, dẫn chứng đã nói lên cái “tâm” và “tầm” của những kẻ ngụy thức này đang ở thang bậc nào. Một điều ai cũng hiểu, đó là, không thể sử dụng những lời lẽ chợ búa, xô bồ, những phản biện thiếu văn hóa, thiếu tri thức ấy để tấn công các giá trị. Bởi lẽ, như thế là không tương xứng về mặt tư cách, đạo đức cũng như vị thế phát ngôn. Có lẽ, một trong những nguyên do khiến nhiều trí thức không lên tiếng chính là họ không muốn “dây vào”, không muốn dính dáng đến những kẻ nhạo báng thiếu văn hóa, thiếu tri thức ấy. Ta hiểu ứng xử ấy xuất phát từ cốt cách của người trí thức không muốn đánh đồng mình với những ngụy tạo. Nhưng, dầu sao, lòng can đảm và ý thức dấn thân cho những ích lợi thuộc về văn minh, văn hóa, tiến bộ của quốc gia - dân tộc và tinh thần công chính vẫn đòi hỏi một lần đối mặt của người trí thức.
Trí thức là chủ thể của các hoạt động tri thức, là hạt nhân quan trọng hàng đầu cho các nỗ lực hướng đến cộng đồng khai sáng, văn minh và tiến bộ. Sự im lặng tiêu cực của một bộ phận trí thức là thực trạng có thật, nó phản ánh thái độ và sự ứng xử của họ trước những nhố nhăng, trá ngụy của đời sống, gây ra bởi những kẻ ngụy thức. Người trí thức mang tinh thần công chính luôn khao khát chân lí và mong muốn kiến tạo các giá trị tốt đẹp cho xã hội. Bởi vậy, đặt ra vấn đề sự phì đại của ngụy thức và thái độ thờ ơ, bàng quan, lảng tránh của một bộ phận trí thức, chúng ta mong đợi và đòi hỏi hơn ở lương tri, lương năng của từng cá nhân và cộng đồng trí thức
T.Đ
--------
1. Lý Ái Châu, Trí thức hay ngụy thức?, tạp chí Văn nghệ Quân đội, số 913, tháng 3/2019.
2. Phạm Phương Chi, Người trí thức trong thời đại toàn cầu, http://phebinhvanhoc.com.vn.
3. P. Baran, Thế nào là người trí thức, Phạm Trọng Luật dịch, http://bookhunterclub.com.
TRÍ THỨC HAY NGỤY THỨC - LÝ ÁI CHÂU
Trí thức hay ngụy thức
.LÝ ÁI CHÂU
Trí thức được định nghĩa là những người có tri thức, có chuyên môn, trình độ, sử dụng tri thức vào các hoạt động của cộng đồng xã hội và cá nhân, nhằm giải quyết các yêu cầu được đặt ra, hướng đến chân lí hay các giá trị nhân văn, tiến bộ. Trí thức có thể gần với nội hàm của khái niệm “sĩ” (sĩ - nông - công - thương), là những người hiểu biết, có vai trò quan trọng trong việc khai minh, giáo hóa hay cải tạo xã hội. Tuy nhiên, kẻ sĩ thường được hình dung như những người có học và khảng khái, thẳng thắn, đôi khi bất chấp, còn trí thức được hiểu rộng hơn, khoa học hơn, là những người hiểu- biết cả về tri thức và thời cuộc.
Đứng trên bình diện của một trí thức, việc đem năng lực, tâm trí của mình vào các công việc góp phần thúc đẩy tiến bộ xã hội là việc làm cần thiết, chính đáng. Điều đó có thể được xem là đạo đức, luân lí, sứ mệnh của một thức giả. Tuy nhiên, có một thực tế là nhiều người mang danh trí thức hiện nay đang đi chệch khỏi sứ mệnh của mình, nhưng lại đinh ninh rằng sự lựa chọn ấy là đúng đắn. Ở một số trường hợp, tri thức được sử dụng vào những mục đích sai lệch, phản nhân văn, phản tiến bộ, phục vụ lợi ích cá nhân,… đã hình thành bộ phận “ngụy thức” rất đáng phê phán.
Trí thức đương đại, để được tiếng là cấp tiến luôn tỏ ra mình là lực lượng phản biện xã hội một cách tích cực, đứng về phía dân nghèo và những lực lượng yếu thế. Tuy nhiên, một nghiên cứu dẫn nhập về sự ngụy tín đã chỉ ra rằng trí thức thuộc tầng lớp trưởng giả. Anh ta đứng từ vị trí trưởng giả để cất lời, nhưng không nhập cuộc, không dám từ bỏ hay dấn thân. Vừa được sống trong môi trường trưởng giả, lại vừa được tiếng là cấp tiến, nhiều người đã xem việc lớn tiếng phản biện như là cách thức để trỗi lên, có “số má” trong giới trí thức. Thực ra, đó chỉ là những lời nói suông, một dạng ngụy tín. Anh ta kêu gào rằng nhân quần đang lầm than đói khổ nhưng anh ta lại ngồi quán máy lạnh, uống rượu Tây và nhìn thấy người ăn xin thì ngoảnh mặt. Anh ta ủng hộ tuần hành phản đối một điều luật hay chính sách nào đó nhưng lại đeo khẩu trang và kính đen ngồi trong góc quán cà phê để chụp hình đăng facebook. Trên mạng xã hội, nhiều người mang danh là trí thức nhưng bất kì lúc nào họ cũng sẵn sàng buông những lời phê phán nặng nề, thậm tệ đối với thực tại xung quanh họ. Dường như họ không tìm thấy một điều gì lạc quan, tin tưởng hay tươi sáng. Lẽ ra, trong tư cách một trí thức, một thành phần cấp tiến, anh ta phải dành thời gian, sức lực, tâm trí và thậm chí là gia sản cho những hỗ trợ xã hội nhằm cứu vãn hay cải tạo tình trạng bất như ý mà anh ta nhận thấy. Trong tình thế này, phải thấy rằng sự lựa chọn - ngụy tín đó mang lại lợi ích cho kẻ mang danh trí thức. Vừa được cái này lại không mất cái kia chính là tâm thế nước đôi của những trí thức ngụy tín, hay còn gọi là “ngụy thức” như một số nhà nghiên cứu chỉ ra. Không cần phải đi đâu xa để tìm dẫn chứng, ngay trong đời sống xung quanh chúng ta, có nhiều nhà văn, nhà thơ, những trí thức trưởng giả cứ hễ cất lời là lớn tiếng phê phán, phủ nhận, thậm chí xổ toẹt mọi giá trị xã hội mà cộng đồng đang nỗ lực kiến tạo. Trong khi, nhìn lại, chính bản thân họ có thể chưa phải là một giá trị đủ tầm để có tư cách phát ngôn và phán xét về những vấn đề ấy. Thái độ nước đôi của kẻ ngụy thức thực ra phản ánh một trạng thái sợ sệt hay hèn nhát của họ. Không dám dứt khoát trong thái độ và hành vi lựa chọn của mình, dạng trí thức này đang làm cho đời sống xã hội trở nên tiêu cực và bất ổn hơn.
Trong điều kiện của Việt Nam, xuất phát điểm là một đất nước nông nghiệp nghèo đói, lạc hậu, luôn phải đương đầu với những cuộc chiến tranh, trình độ phát triển xã hội hẳn nhiên sẽ thua kém nhiều nước khác. Đổi mới là hướng đi đúng mà Việt Nam lựa chọn, đã và đang từng bước cho thấy hiệu quả của nó. Một bộ phận trí thức, vốn cũng sinh ra từ làng quê, cũng từng một nắng hai sương như bao kiếp người dân quê khác, nhưng từ khi kí trú vào đô thị, có được đôi ba chữ nghĩa lập tức tỏ ra mình là thành phần cấp tiến, là lực lượng phản biện xã hội, phê phán tư duy, văn hóa nông nghiệp ì trệ, bảo thủ, cố chấp, manh mún, tiểu nông,… Dĩ nhiên, cái không phù hợp sẽ dần bị đào thải, nhưng phê phán không phải là sự đạp đổ, không phải là vùi dập, mà trong tư cách một trí thức, anh phải chỉ ra được căn nguyên, giải pháp và ít nhiều có đóng góp vào việc cải tạo thực trạng ấy. Nhưng, những trí thức bơ sữa cao giọng này đã làm được gì?
Có một hiện tượng mà làng văn ai cũng biết nhưng ít ai tiện nói ra, đó là việc nhiều người mang danh nhà văn nhưng lại phê phán Hội Nhà văn. Kẻ ở trong Hội cũng phê phán, người ở ngoài Hội cũng phê phán; không vào được Hội thì quay ra hậm hực phê phán, tìm mọi cách để vào Hội và khi vào được rồi thì lại phê phán chê bai Hội; xin được Hội tài trợ hay đài thọ thì im lặng, không xin được lại phê phán; tác phẩm không lọt được vào giải thưởng cũng cay cú chê trách Hội… Họ thường lớn tiếng cho rằng, nhà nước bỏ tiền nuôi Hội Nhà văn trong khi Hội không làm được gì cho văn chương nước nhà, chỉ tiêu tốn tiền ngân sách, tiền thuế của dân. Sao họ không thấy rằng, chưa cần nhìn vào những thời kì trước, chỉ tính mấy năm gần đây, Hội Nhà văn Việt Nam, một tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã làm được rất nhiều việc như quảng bá văn học Việt Nam ra nước ngoài, kết nối văn học Việt Nam với khu vực và thế giới, bằng con đường văn học đã góp phần hàn gắn vết thương chiến tranh, khép lại quá khứ hận thù, xây dựng mối quan hệ hòa hảo giữa các dân tộc, bên cạnh đó còn chiêu tuyết và khôi phục những giá trị văn chương từng bị vùi dập một thời do những hạn chế lịch sử,... Lại có những kẻ mỉa mai giới nhà văn đứng trong tổ chức Hội là “nhà văn quốc doanh, mậu dịch”, là loại “bút nô” ăn theo chế độ mà không viết ra được cái gì đáng đọc, không có tác phẩm nào “để đời”. Xin hỏi những người này, rằng ở nước ta, có cây bút nào không phải hội viên Hội Nhà văn Việt Nam mà có tác phẩm xuất sắc, để đời, được quảng đại công chúng thừa nhận (tính từ 1957 là năm thành lập Hội đến nay)? Câu trả lời là gần như không có, trừ một số rất ít các cây bút hi sinh trong cuộc kháng chiến chống Mĩ khi chưa kịp là hội viên. Hãy nhìn lại lịch sử văn học nước nhà để thấy, thành tựu của văn học Việt Nam hiện đại có công lao rất lớn của các hội viên Hội Nhà văn nhiều thế hệ. Những tên tuổi lớn, tiêu biểu như Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Nguyễn Bính, Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Hữu Thỉnh, Trần Đăng Khoa, Lưu Quang Vũ, Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh,… mấy thập kỉ qua đã đóng góp vào di sản văn hóa, văn học của dân tộc những giá trị đáng được trân trọng. Họ đều là các nhà văn, nhà thơ đứng trong tổ chức Hội. Câu hỏi đặt ra đối với những trí thức, những nhà văn đang lớn tiếng phê phán kia, là họ đã làm được gì, viết được gì bằng/ hơn so với tác phẩm của các tên tuổi vừa nêu? Không! Dù ở trong hay ở ngoài Hội, những người lớn tiếng phủ nhận Hội Nhà văn, phủ nhận đội ngũ nhà văn hội viên cũng cần nhìn lại mình xem đã đủ tư cách là một nhà văn, một trí thức hay chưa. Điều quan trọng hơn hết, anh hãy làm trước khi nói, phải làm được, thậm chí làm hơn thế thì mới có quyền phê phán hay phủ nhận những giá trị mà anh cho là chưa xứng đáng.
Nhiều trí thức sống bằng đồng lương của nhà nước nhưng vẫn hàng ngày phê phán chính cơ quan, tổ chức đang trả lương cho mình. Đành rằng, đồng lương đó là thù lao cho sức lao động anh bỏ ra, nhưng nếu anh đã chán nơi làm việc, đã chẳng còn tha thiết gì nữa, sao không từ bỏ, làm một người lao động tự do, hưởng thụ thành quả từ chính sức lao động của mình. Một câu chuyện khá nực cười khi một số trí thức cho rằng làm đề tài khoa học hay sáng tác văn chương theo chương trình đầu tư của nhà nước là không tử tế, là ăn tiền thuế của dân, không xứng đáng với tư cách trí thức. Ngạc nhiên thay, cuối năm, người ta lại thấy họ cặm cụi làm hồ sơ nghiệm thu đề tài để giải ngân. Họ có nghĩ lại những gì đã từng xướng xuất một cách ngạo nghễ trước đó hay không? Chưa cần nói “ăn cây nào rào cây ấy”, chỉ cần xem xét sự sòng phẳng trong cách thế tồn tại của anh (nếu anh tự nhận mình là trí thức), hành vi này có thể bị xem là thiếu tử tế, là “đỏ vỏ xanh lòng”.
Sứ mệnh của trí thức là đem tri thức, chuyên môn áp dụng vào đời sống nhằm thúc đẩy tiến bộ xã hội. Nhưng, theo dõi trên các diễn đàn, các mạng xã hội, chúng ta gặp những cảm xúc rất tiêu cực từ một bộ phận trí thức, khi liên tục phải nghe những phê phán của họ đối với các hiện tượng xã hội. Từ giáo dục đến y tế, giao thông, văn hóa ứng xử, lễ hội đình đám, tín ngưỡng, pháp luật,… đều bị lật nhào, bị tẩy chay một cách sạch trơn. Xã hội nào, ngành nghề, lĩnh vực nào cũng tồn tại bất cập, tuy nhiên nếu là một trí thức đúng nghĩa, nhiệm vụ của anh là phải góp phần điều chỉnh hoặc thay đổi những bất cập ấy. Nhưng, thay vì tiến hành một công việc cụ thể, thiết thực, họ xổ hết lên mạng xã hội, lôi kéo bạn bè hưởng ứng, cổ vũ, chia sẻ, làm phức tạp thêm tình hình hoặc gieo rắc tâm lí tiêu cực trong cộng đồng. Như thế, trí thức đã vi phạm vào một trong những điều quan trọng của người sở hữu tri thức là thiếu cái tâm vì cộng đồng, xã hội. Cộng đồng mạng đang lan truyền một câu nói có tính chất slogan rằng, khi gặp một sự cố- sự kiện nào đó, việc của anh là hãy đối diện với nó chứ không phải là facebook hóa nó. Một sự kiện gần đây đã cho thấy tính chất ngụy thức của nhiều người như thế. Ngày thơ Việt Nam năm 2019 có chủ đề Sông núi trên vai đã được dịch sang tiếng Anh là Mountains and rivers on the shoulder. Nhiều người mang danh trí thức nhưng không hề biết ngoại ngữ cũng lớn tiếng chê bai lời dịch tiếng Anh, làm dấy lên làn sóng mỉa mai Hội Nhà văn và Ban tổ chức Ngày thơ Việt Nam. Tuy nhiên, đáng tiếc là không ai đưa ra được cách dịch nào hợp lí hơn. Việc phê phán này, về thực chất không phải là hành vi xuất phát từ cái tâm xây dựng của người trí thức mà có động cơ từ sự ngụy tín, từ ý đồ phô bày danh mác, tầm vóc trí thức của một số người. Cứ cho rằng phê phán của họ là đúng, thì giọng điệu và cách tiếp cận vấn đề của họ lại làm hiện nguyên hình gốc gác tiểu nông vốn bằng mặt không bằng lòng và thường xuyên gièm pha, chọc ngoáy. Trong những hình dung về thái độ và hành vi của những trí thức này, chúng ta có thể nhận ra tình trạng “hắt chậu nước hắt luôn đứa trẻ” vốn là điều một trí thức rất cần phải cân nhắc. Cũng trong sự kiện này, nhiều nhà văn, nhà thơ đã chê bai một cách thậm tệ việc thả những câu thơ hay theo bóng bay lên trời. Họ xem đó là hành vi “xả rác” và kịch liệt tẩy chay. Họ cho rằng câu dịch Mountains and rivers on the shoulder chứng tỏ người dịch (mà rộng hơn là cả cái Hội Nhà văn kia) chẳng hiểu tính tượng trưng, tính biểu tượng là gì, nhưng, khi phê phán việc thả thơ, họ lại quên mất rằng đó cũng là hành động mang tính biểu trưng. Giá thử, cứ đem thơ của một vị nào đó đang cao giọng phê phán kia in thành poster dựng ở Văn Miếu, rồi lại đính thơ vào bóng bay để thả xem vị ấy có chụp ngay ảnh đăng facebook khoe ầm ĩ lên không. Ở một biểu hiện khác, nhiều người khi tại chức, tại vị thì im lặng hoặc phát ngôn theo giọng này, đến lúc về hưu thì lại nói giọng khác, phê phán, phủ nhận chính những điều mình đã từng cổ súy, xiển dương. Đó không phải là “tái nhận thức” hay “phản tư” gì cả, đó là thái độ không tử tế của người mang danh trí thức - thực chất là ngụy thức.
Trí thức có tầm, có tâm thì đáng quý, nhưng thiếu tầm lại thiếu cả tâm thì thực đáng lo. Đầu thế kỉ XX, trong hồi kí của mình, Vũ Bằng thú nhận, làm báo thời ấy cứ chửi vung lên, chửi đông chửi tây, chửi đủ thứ, càng chửi báo càng bán chạy, càng có nhiều người theo dõi. Nhưng rồi lịch sử văn học không ai nhắc đến những lời qua tiếng lại ấy nữa. Người ta nhớ đến Vũ Bằng như một trí thức dấn thân cùng với Thương nhớ mười hai, Miếng ngon Hà Nội, Miếng lạ miền Nam… Đó là là những đóng góp thiết thực cho văn hóa, văn học Việt Nam. Lời tự thú thuở “làm báo nói láo” ở Hà Nội của Vũ Bằng vẫn còn ứng với những hiện tượng tương tự đang diễn ra trong xã hội đương đại. Sự ngụy tín ru vỗ người ta trong những tham vọng trở thành nhân vật có ảnh hưởng đối với cộng đồng. Chúng ta không phủ nhận những cá nhân có ảnh hưởng lớn đến tập thể, những cá nhân truyền cảm hứng, nhưng giá thử những năng lượng tiêu cực của bộ phận ngụy thức được hướng vào các mục đích nhân văn, tích cực, có lẽ sẽ mang lại những điều tốt đẹp hơn cho cuộc sống của con người.
Thành phần xã hội nào có khả năng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nhanh nhất? Đó là trí thức. Từ câu chuyện của văn hóa, văn học nhìn sang phạm vi chính trị, có thể thấy một sự tương đồng. Lợi dụng những tiêu cực xảy ra trong nước mấy năm gần đây, một số kẻ tỏ ra là trí thức cấp tiến cũng đang lớn giọng phê phán hoặc phủ nhận sạch trơn đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước mà không chịu nhìn thấy và thừa nhận những thành tựu to lớn Đảng, Nhà nước đã mang lại trong công cuộc đổi mới. Bản thân những kẻ đó cũng chưa nhìn lại mình, xem mình đã thực sự đủ tri thức và khả năng am hiểu về lĩnh vực chính trị - xã hội mà mình đang phê phán hay chưa. Mặt khác, trước khi phê phán, phản biện, cũng nên tự xem lại mình đã đóng góp, cống hiến được gì cho đất nước, cho xã hội.
Tuy nhiên, nhìn theo hướng tích cực, thành phần có khả năng nắm bắt thực tại xã hội, quan sát các chuyển động chính trị, văn hóa và dự báo bước đi của lịch sử một cách sâu sắc và nhạy bén nhất vẫn là tầng lớp trí thức. Xưa nay, trí thức luôn là lực lượng tiền phong của xã hội. Trí thức chân chính phản biện xã hội một cách tích cực trong khát vọng về những điều tốt đẹp. Sứ mệnh, đạo đức của người trí thức phải được thể hiện trong sự lựa chọn và hành vi đáp ứng các yêu cầu thúc đẩy tiến bộ xã hội, hướng đến cuộc sống nhân văn, nhân ái hơn. Nhà văn là trí thức, văn chương nghệ thuật với đặc thù là diễn ngôn đối thoại gián tiếp bằng tiếng nói bên trong thông qua ngôn từ, giọng điệu, hình tượng,… thể hiện tư cách trí thức của chủ thể sáng tạo. Tư tưởng nghệ thuật của nhà văn nói lên tầm vóc tư tưởng và nhân cách trí thức của anh ta. Trong ý hướng về các giá trị chân - thiện - mĩ, nhà văn cần thể hiện vai trò của mình trong việc đem đến những điều kiện tốt hơn nhằm cải thiện đời sống tinh thần cho con người
L.A.C
Thứ Ba, 24 tháng 11, 2020
TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT - NGUYỄN KHÔI
... |
BÀI MỚI ĐẮNG
Truyện ngắn: BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN _ NGUYỄN HẢI ĐĂNG
Bên cánh gà chánh điện phần 1 BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN Xe dừng lại với tiếng xột xoạt trên mặt đường, như bao chuyến xe đã ghé qua từ thuở ...
-
Chuyện của chị Linh giò chả (Truyện ngắn Đặng Xuân Xuyến) * Hôm trước, lâu rồi, chả hiểu duyên cớ gì, chị Linh giò chả tự dưng “bắt ...
-
NHỮNG NGƯỜI PHỤ NỮ Tôi lên Cà Mau, hè này coi thi học sinh t.h.p.t tốt nghiệp. Làm giáo viên thì phải coi thi làm nhiệm vụ bắt ...
