Thứ Ba, 12 tháng 3, 2013

VĂN CHƯƠNG CHÍNH LUẬN NAM KỲ ĐẦU THẾ KỶ XX


VĂN CHƯƠNG CHÍNH LUẬN NAM KỲ ĐẦU THẾ KỶ XX VÀ
NHỮNG ĐÓNG GÓP VÀO SỰ VẬN ĐỘNG PHÁT TRIỂN
CỦA VĂN HỌC YÊU NƯỚC VIỆT NAM
                                                                                       Cao Minh Tèo, thực hiện

1. Tiền đề lịch sử, kinh tế, văn hoá, xã hội ra đời văn chương chính luận Nam kỳ và các vấn đề lớn của văn học Minh Tân
Bước vào nửa sau thế kỷ XIX đầu XX, nhiều nước châu Á trong đó có Việt Nam, đứng hoạ thực dân. Trước tình hình biến động này, châu Á chuyển từ bộ mặt phẳng lặng mấy ngàn năm sang ý thức và vận động đổi mới để tự vệ, trỗi dậy khẳng định ý thức về dân tộc mình. Tuy nhiên, ở Việt Nam các vua triều Nguyễn với tư tưởng lạc hậu, bảo thủ “bế quan toả cảng” dẫn đến hoạ nô lệ thực dân với ba thể chế bảo hộ miền Bắc, khâm sai cố vấn ở miền Trung, miền Nam thuộc địa.
Tính từ khi đồn Kỳ Hoà thất thủ (1861), Pháp chiếm 03 tỉnh miền Đông  (1862), rồi thu tóm hết 06 tỉnh Nam kỳ (1867) cho đến hoà ước Patennôtre 1884 thì Việt Nam hoàn toàn mất độc lập tự chủ. Từ đó đã nãy sinh nhiều chuyển biến quan trọng trong xã hội Nam kỳ. Hiện tượng nổi bật của thời kì này là cuộc nổi dậy của nghĩa quân miền Nam dưới sự chỉ huy của các tướng lĩnh không phục mệnh triều đình, các quan lại, sĩ phu yêu nước như Hồ Huân Nghiệp ở Mỹ Tho, Trương Định ở Gò Công, Trần Thiện Chánh, Lê Huy, Cai tổng Là cùng đề đốc Nguyễn Văn Tiến ở Bình Chánh, Cần Giuộc, Rạch Kiến. Nhà Thơ Nguyễn Đình Chiểu viết Văn Tế nghĩa sĩ Cần Giuộc để ca ngợi những tấm gương hy sinh ấy.
Năm 1885 đã nổ ra cuộc khởi nghĩa 18 thôn vườn trầu, chiếm Hóc Môn, giết diệt gian đốc phủ Ca. Đến đầu thế kỷ XX vẫn còn liên tiếp hai cuộc khởi nghĩa năm 1913, 1916. Khi phong trào Cần Vương đa số dưới hình thức khởi nghĩa quân sự vừa tàn lụi, thì phong trào Duy Tân được dấy lên cả 03 miền, khi người Việt Nam nhận ra thế yếu quân sự của mình. Riêng ở Nam kỳ, khi bước vào thời kì thuộc địa thì hình thức đấu tranh công khai, hợp pháp trên các mặt kinh tế, văn hoá xã hội, chính trị là thích hợp hơn cả. Với nhận thức đúng đắng, năm 1905 phong trào Đông Du được mở đầu bằng chuyến đi Nhật của cụ Phan Bội Châu. Khoảng năm 1907 – 1908 trong số du học sinh cả nước ước khoảng hai trăm người, thì Nam kỳ chiếm hết một trăm người.
Riêng ở miền Nam trước khi bị rơi vào hoạ thực dân, thì cùng với phòng trào Duy Tân cả nước, người miền Nam nhiệt tình nhiệt thành đi vào cuộc cách tân đất nước. Người Nam bộ nhận thấy việc xây dựng nhà máy, đường xá, cầu cống… của Pháp là để khai thác chứ không phải khai hoá. Hệ quả tất yếu của chánh sách thực dân về mặt chính trị kinh tế là đã gây ra một sự phân hoá sâu sắc trong các tầng lớp xã hội ở Nam kỳ.
Cuối thế XIX đầu thế kỷ XX miền Nam đặt biệt là Sài Gòn Gia Định đã dần trở thành một trung tâm chính trị quan trọng của Việt Nam, với một sắc thái quốc tế khá rõ nét do nhiều ảnh hưởng của cách tháng Mười Nga, Cách mạng phản đế và phản phong ở Trung Hoa,  Phong trào canh tân ở Nhật Bản… Bên cạnh đấu tranh vũ trang, phong trào đấu tranh chính trị ngày càng có nhiều màu sắc đa dạng như công khai, bí mật, biểu tình… Các giai cấp, các tầng lớp, các tổ chức chính trị đều muốn thể hiện các chương trình hành động về chính trị, xã hội văn hoá của mình. Trong đó, nỗi bật nhất vẫn là ý chí đòi độc lập tự do, thể hiện trên mọi bình diện sinh hoạt của dân tộc lúc bấy giờ.
Nói đến sự ra đời của văn học quốc ngữ nói chung văn chính luận nói riêng cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX phải nói đến những tiền đề thẩm mĩ, tư tưởng. Tiến trình hiện đại hoá của văn học Quốc ngữ miền Nam đã diễn ra bằng tất cả các phương thức từ tiệm tiến đến nhảy vọt và thể hiện khá đầy đủ những nét lớn của quá trình hiện đại hoá của văn học Việt Nam nói chung.
 Hệ tư tưởng tiến bộ này được thể hiện rõ nét trong mảng thơ ca và văn xuôi chính luận có nội dung yêu nước, duy tân bằng chữ Quốc ngữ xuất hiện sớm nhất nước ở Nam bộ bắt đầu từ những năm tháng sớm nhất cuối thế kỷ XX, thông qua các phương tiện quan trọng là báo chí và sau đó là xuất bản thành sách.
Trong nhiều loài báo chí với nhiều khuynh hướng chính trị khác nhau, đáng chú ý nhất vẫn là báo chí của nhà văn, nhà trí thức duy tân yêu nước được phát triển rầm rộ ở Nam kỳ dựa trên ý thức về mục tiêu giành độc lập tự do. Chính trên cơ sở này, mà thơ ca Minh tân cùng với văn chương chính luận, bút chiến có nội dung bàn về những vấn đề kinh tế, văn hoá tư tưởng, xã hội, nhưng với chính trị thì được thễ hiện dưới mạch ngầm được phổ biến rộng rãi trên báo chí công khai, và điều này được gắn với bước phát triển sớm nhất nước của nền văn học chữ quốc ngữ Nam bộ. Ví như ở Cần Thơ, Trần Đắc Nghĩa một địa chủ nỗi tiếng hưởng ứng phong trào Minh Tân. Như vậy, văn học quốc ngữ Nam kỳ nói chung văn chính luận nói riêng cách tân Nho giáo, xây dựng một thế giới quan, nhân sinh mới, hướng tới nâng cao dân trí, nhằm một nội dung lớn hướng tới xây dựng cái nhìn mới cho người Việt Nam, dựa trên tư tưởng khai sáng ở phương Tây thế kỷ XVIII. Văn chương yêu nước Nam bộ lúc này chuyển từ ý thức hệ tư tưởng phong kiến sang ý thức hệ Tư sản.
Đây được xem là quá trình hiện đại hoá, cụ thể hoá các bình diện của tư tưởng yêu nước Việt Nam thông qua mảng văn xuôi chính luận ở Nam kỳ.

2. Các giai đoạn Văn chính luận Nam bộ
Trong ba thập kỷ đấu tranh, văn chương báo chí miền Nam có dáng vóc của thời kỳ ánh sáng Pháp của thế kỷ XVIII, là giai đoạn mà văn học gần như đã hy sinh các nhà thơ, nhà tiểu thuyết lớn để nhường ưu tiên cho báo chí và văn nghị luận, bút chiến, khi xã hội cần nhiều hình thức đấu tranh, nhiều nội dung đấu tranh để tồn tại, phát triển và tự khẳng định mình. Lần đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam, văn xuôi Quốc ngữ được sử dụng làm phương tiện đấu tranh chống thực dân. Đặc biệt là sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố tích cực của tư tưởng tư sản phương Tây với truyền thống yêu nước, nhân đạo Việt Nam, tạo nên một tình cảm công dân mang màu sắc dân tộc và hiện đại, đó là tính tư tưởng trong văn chính luận.
 Bên cạnh sự phát triển của báo chí miền Nam trong ba mươi năm đầu thế kỷ thì văn chính luận cũng theo đó mà có những thành tựu và nổi bậc qua các giai đoạn: Giai đoạn từ đầu thế kỷ đến chiến tranh thế giới thứ nhất (1918); giai đoạn sau 1918.
2.1 Giai đoạn đầu từ thế kỷ đến chiến tranh thế giới thứ nhất (1918)
          Từ đầu thế kỷ XX, Sài Gòn đã lài trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa lớn, đây cũng là nơi tập trung các hình thức kinh tế, thương mại với đông đảo các thành phần như thợ thuyền, viên chức, vô sản, tư sản, bình dân, trí thức… Trong đó, tầng lớp tư sản bản xứ có trình độ học thức cao cũng bắt đầu có ý thức về sự thiệt thòi quyền lợi kinh tế của người Việt Nam trong việc mua bán làm ăn. Dưới sự lãnh đạo của các tư sản bản xứ, những trí thức Nho học, Tây học tiên tiến có lòng yêu nước đã lần lượt khởi xướng và phát triển cuộc vận động duy tân với mục tiêu đấu tranh giành lại quyền kinh tế, chấn hưng văn hóa và sâu xa nhất là giành độc lập tự do. Bắt đầu xuất hiện trên Nông Cổ Mín Đàm ngay từ năm 1901, rồi lên cao trào với Lục Tỉnh Tân Văn ở thập niên đầu.
2.1.1 Kêu gọi đổi mới về kinh tế làm tiền đề cho đổi mới hoàn cảnh dân tộc
 Đây là nội dung chính của những bài viết thuộc về chủ đề : Thương luận mà ngay từ đầu thế kỷ còn được gọi là “Thương Luận Cổ”,  “Kinh Tế Luận” trong Lục tỉnh Tân Văn 52 số đầu. Dưới chính sách khai thác thuộc địa, toàn bộ kinh tế Nam kỳ khi đó gần như nằm trọn trong tay ngoại bản nước ngoài. Vì thế, phong trào cải cách kinh tế trước hết đã lôi cuốn mạnh mẽ những điền chủ, công chức và thương gia nhỏ người Việt, vì họ không muốn vừa bị pháp cai trị vừa thêm bị tư sản người Hoa chèn ép. Năm 1901, báo Nông Cổ Mín Đàm ra đời với mục đích rõ rệt ngay trong tờ báo (Người nông dân, Người buôn bán nhỏ cùng uống trà, trò chuyện). Chủ bút Dũ Thúc Lương Khắc Ninh đã lên án chính sách bế quan tỏa cảng thời nhà Nguyễn, không cho thông thương cùng ngoại quốc “Người nước ta như con trâu mập bị lầy bốn chơn, đứng giữa đồng, trên thì dang nắng dầm mưa, dưới thì bốn chơn dưới nước và bùn”, hay là“Cứ đứng tại chỗ liếm cỏ cùn, đĩa hút máu, hễ rút cẳng này thì lấy cẳng kia, chỉ biết hươi sừng quẹo, vẫy đuôi cùn chờ chết”. Thực trạng này bắt đầu từ tập quán “trọng sĩ khinh thương”, biến con người thành kẻ làm thuê, không làm chủ được bản thân “Người thì lo mà đua hiển chốn quyền môn, cò kẻ lại vui thú chốn canh điền tự lạc. Bởi vậy chẳng ai có chí chiêu thương lập bổn”, về kinh doanh thì người Việt chỉ làm việc nhỏ “Chẳng qua là bợm bán trâu câu cá thịt, đẽo chuôi cày, đóng cũi chén, cho vay sợ mất của, đi buôn sợ bối, sợ cướp,…” Bên cạnh đó, những nhà tri thức, nhà văn yêu nước khác cung góp tiếng nói của mình về vấn đề cải cách kinh tế Việt Nam như Nguyễn Chánh Sắt với các bài Bàn về công thương kỹ nghệ nước ta, Cách buôn bán phải thế nào cho bề vững, thế nào cũng phải lập nông nghiệp tương tế hội…
Thực trạng kinh tế Việt Nam là những đầu mối kinh tế quan trọng nhất đều năm trong tay người ngoại quốc là thực dân Pháp, Trung Hoa và Ấn Độ. Các bài tiêu biểu cho nội dung này như Nam kỳ thương cuộc của Lão Nông, (ục tỉnh Tân Văn số 12 ngày 30/1/1908, Ái Nhơn Ái K, Nguyễn Thị Phải , LTTV số 11, 1908), Thương Trường Xảo Kế, … Nhiều bài thương luận đã phân tích rõ nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó, nguyên nhân sâu xa và cơ bản nhất là chính sách khai thác và bóc lột của thực dân Pháp, phương thức làm ăn cũ vẫn còn tồn tại như không tin nhau, làm ăn đơn lẻ, cá thể, không tập hợp và huy động được sức của sức người, bên cạnh đó còn có tập quán “chôn của” để dành là môt hình thức kinh tế lạc hậu nhất, đã từng bị chế giễu, lên án. Đây là những sự kiện được chú ý chấn chỉnh, kêu gọi nhiều nhất trong các bài thương luận thời kỳ này. Tuy nhiên, cuộc “thương chiến” của người Việt Nam chưa phải là kết thúc, mà còn kéo dài suốt trong nhiều năm sau của thập kỷ hai mươi và đầu ba mươi, mặc dù không sôi nổi như lúc đầu nhưng đó là nhận thức về giá trị của sức mạnh kinh tế, là một thứ “nội lực” quan trọng giúp người Việt Nam mau chóng làm chủ bản thân, xóa bỏ tình trạng làm thuê ngay trên mảnh đất của mình. Và muốn đổi mới linh tế thì trước hết phải đổi mới ý thức về làm ăn kinh tế.
Nhưng công cuộc Minh Tân về kinh tế này chẳng có hiệu quả bao nhiêu vì nó không được đặt trên cái nền tảng quan trong nhất là độc lập tự do về chính trị. Bắt đầu từ cuối thập kỷ hai mươi, nó lụi tàn dần. Và ở thập kỷ ba mươi đến năm 1945, nếu còn thì chỉ là những bài viết ngắn vạch rõ tội ác của mại bản, thực dân trong việc chèn ép kinh tế người Việt Nam. Chẳng hạn như xung quanh vấn đề độc quyền của Nguyễn An Ninh đăng trên báo Tiếng Chuông Rè (viết bằng tiếng Pháp), Mến dân thương nước đồng bào không nên dụ dự nữa mau tán thành công ty xe điểm Annam, Vấn đề độc quyền nước mắm của Phan Ngọc Hiển đăng trên báo Tân Tiến ở Sa-Đéc trong các năm 1936 - 1937. Muốn đổi mới linh tế thì trước hết phải đổi mới ý thức về làm ăn kinh tế. Văn chương chính luận chỉ còn tồn tại trong cuộc đấu tranh trên hai bình diện văn hóa và chính trị.
2.1.2 Kêu gọi đổi mới về văn hóa xã hội, nâng cao trình độ dân trí
Kêu gọi đổi mới về văn hóa xã hội, nâng cao trình độ dân trí cũng là một trong những nội dung quan trọng của văn chương chính luận với nhiều màu sắc phong phú, đa dạng hơn so với đề tài thương luận. Các bài văn hóa xã hội luận thời kỳ này đã thể hiện tình trạng văn hóa xã hội bảo thủ lạc hậu là một sức ì làm trì trệ con đường tiến hóa, sự trì trệ trên có hai nguyên nhân bao gồm nguyên nhân nội tại và nguyên nhân khách quan. Nguyên nhân khách quan: Do chính sách của thực dân Pháp, đó là sự bần cùng hóa dẫn đến tình trạng nhân tâm xiêu lạc, đạo lý gia đình, xã hội bị rạn nứt, đó là chính sách “chặt gốc” của thực dân muốn Nam kỳ không những thành nô lệ chính trị mà còn trở thành nô lệ văn hóa.
Về nguyên nhân nội tại: Do nhận thức của người việt Nam thấp kém, lạc hậu ở nhiều lĩnh vực như trong lối sống, trong quan hệ giữa người và người, ở phạm vi gia đình và xã hội. Trong 52 số đầu của Lục Tỉnh Tân Văn, đã có nhiều bài viết của nhiều tác giả về tệ nạn cò bạc, rượu chè, nghiện hút, xa hoa lãng phí, mê tín dị đoan, trọng nam khinh nữ,…như các bài Buôn Người, Thủ Cựu Quỷ Truyện, Háo Danh Bịnh, Sự Tệ Trong Xứ,… Những nội dung này còn xuất hiện trở lại nhiều lần trong Đông Tháp Thời Báo của thập niên hai mươi với các bài viết của Nam Kiều như Tây giả, Phong chào (trào) đi Tây của người mình, Tánh khiếp nhược, Người mình có biết cách dùng đồng tiền không?,… 
  Đặc biệt trong giai đoạn này còn quan tâm đến các vấn đề liên quan đến phụ nữ, với các nội dung: Chống chế độ đa thê (Sự Tệ Trong Xứ - Trịnh Thị Huê, số 9,1908 ; Gian Hùng Đệ Nhất - Dân ngu, số 9), chống bạc đãi phụ nữ (Đãi Dưỡng Phụ Nữ - Trò Lỗ, số 15,1908). Các quan niệm đề ra về phẩm chất người phụ nữ cũng rất mới, ngoài công dung ngôn hạnh truyền thống còn có thêm về trí trệ, ý chí và nghị lực tiến thủ. Bài Phụ Nữ Giáo Khoa của Nguyễn Đồng Tắc, số 29, 1908 “Phàm trong một nước thì người hay đọc sách biết chữ càng nhiều thì nước ta càng mạnh; còn người đọc sách mà ít thì nước ta càng yếu, nên chẳng những con trai nên học, mà con gái cũng cần phải học vậy”. 
  Hiện tượng phụ nữ lấy chồng nước ngoài cũng được nêu ra ở nhiều khía cạnh, thể hiện ở hai khuynh hướng: Phê phán những cuộc hôn nhân lừa bịp, cảm thông với những cuộc hôn nhân thực sự tốt lành. Bên cạnh đó còn phê phán những quan niệm sống lạc hậu; ích kỷ, bảo thủ, háo danh nhằm dựng nhân sinh quan mới tiến bộ, lành mạnh nhằm chấn chỉnh cách nghĩ, cách nhìn, cách sống (Thủ Cựu Quỷ Truyện; Háo Danh Bịnh). Đặc biệt, tất cả các vấn đề trên đều được xem xét trên phương diện lợi ích cho con người trong hoàn cảnh mới và những nhu cầu mới. Đề tài văn hóa xã hội không bao giờ bị gián đoạn qua nhiều thời kỳ phát triển khác nhau của văn chương yêu nước bằng chữ Quốc ngữ ở Nam bộ thời kỳ này, từ Nông Cổ Mín Đàm, Lục Tỉnh Tân Văn cho đến Đông Tháp Thời Báo này thể hiện sâu sắc nhận thức của người nông dân Nam bộ về nhân tố con người trong mối liên quan với đời sống văn hóa: Dân tộc còn và dân tộc mạnh thì mới nói đến một nền văn hóa tiên tiến và độc lập.
2.1.3 Đấu tranh chính trị
Đấu tranh chính trị là mục tiêu sâu xa nhất, được thể hiện một cách kín đáo trong văn chương nghị luận trên Lục Tỉnh Tân Văn thời kỳ đầu. Chủ quyền dân tộc, độc lập tự do vẫn là cái lỏi sâu xa nhất của mục tiêu duy tân. Và do đó, đấu tranh chính trị bằng nhiều hình thức trên báo chí công khai vẫn được duy trì trong suốt 52 số đầu của Lục Tỉnh Tân Văn. Phê phán sự xâm lấn và can thiệp của thực dân Pháp vào nội bộ Việt Nam, gây nên hậu quả là người Việt Nam lâm vào cảnh quốc phá gia vong, trôi dạt lạc loài, bất lực trước sức mạnh thực dân và phải làm tôi mọi cho ngoại bang kiếm sống qua cách dùng hình tượng con người mà “cửa nhà nghiêng đổ, cha mẹ song vong, cô khổ linh đinh nơi đất khách, tuy có học hành chữ nghĩa mà chẳng làm chi đặng, túng phải đi ở với người chà và bồ hóng mà nương cái thân” - (Giang Hồ Phùng Cố Chủ, LTTV số 22, 1908) là nội dung phổ biến của các bài văn nghị luận chính trị.
Sự lũng đoạn của Pháp đã gây ra một tình hình chính trị u ám và rối loạn cho Việt Nam, càng ngày càng mờ mịt trong sự hiểu biết về nội tình đất nước mình (Trăng Lu Về Bởi Đám Mây, LTTV số 2, 1907). Bên cạnh đó, rất nhiều bài báo lên án Việt gian bán nước, quan lại tham ô, bóc lột (Mẫn thời bịnh thế, Mặt Thiệt, số 2, 1907), châm biếm việt gian Trần Bá Lộc Gian (Giang) hồ tự thán, Đông Tạng Yết Ma, số 4, 1907), lên án Pháp đã tung chiêu bài khai hóa để lừa bịp (Thói Hư Phải Chừa, Hồ Lương Cang, số 5, 1907),…
Văn chính luận còn có nội dung thể hiện ý thức gắn bó sự phát triển của dân tộc, nhiều suy nghĩ sâu sắc về mối giao lưu đặc biệt giữa Việt Nam với khu vực được thể hiện trong một số bài văn chính luận. Tiêu biểu là Huỳnh Kim vấn đáp (Nguyễn Tư Thức, số 7, 1907) cho thấy sự cảm nhận nhạy bén về ý nghĩa chính trị sâu sắc “Bài Học Da Vàng” phức tạp. Giao lưu dù với ai, da vàng hay da trắng, cũng trong tinh thần tự lực và nhận thức sáng suốt. Văn chương chính luận trên báo chí ở miền Nam đã thể hiện nhận thức đó trên con đường đi cùng dân tộc tìm đến độc lập tự do.
Kêu gọi ý thức về chủ quyền đất nước, khơi dậy tinh thần dân tộc, tình cảm với cội nguồn, với đồng bào ruột thịt để cùng nhau hợp sức đấu tranh giành lại độc lập tự do. Trên nền tảng của ý thức về sự tồ tại của dân tộc, văn chương yêu nước còn có nội dung thể hiện ý thức gắn bó sự phát triển của dân tộc với tình hình thế giới, đặc biệt là mối quan hệ với châu lục và khu vực. Trong các bài viết hô hào cải cách, duy tân, đã xuất hiên các khái niệm  “Năm châu bốn bể, liệt quốc liệt cường”,…Tuy nhiên, những khái niệm đó đều được đặt dưới một nền tảng quan trọng là tinh thần tự lực, và nhất là tự nâng cao phẩm chất dân tộc sẽ là mội nội dung quan trọng của văn chương yêu nước trong thời kỳ tiếp theo.
2.2 Văn chương chính luận sau 1918 (Văn chương chính luận của Nguyễn An Ninh, 1900 - 1943)
Ông là Nhà báo, Nhà văn, Nhà yêu nước của thập kỷ 20 - 40, với hơn hai mươi năm hoạt động đấu tranh chống thực dân trên lĩnh vực chính trị, xã hội. Tác phẩm để lại gồm kịch Hai Bà Trưng (viết bằng chữ Quốc ngữ), các bài diễn thuyết như Một nền học vấn cho người Annam, Lý tưởng thanh niên Việt Nam, nhiều bài báo như Tiếng mẹ đẻ nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức, Nền giáo dục công lập ở Đông Dương cùng rất nhiều bài đăng trên báo Tiềng Chuông Rè. Ông có một vị trí đáng trân trọng, với tư cách là người đã đóng góp tích cực cho sự hình thành mảng văn chính luận ở Nam bộ trong ba thập niên đầu thế kỷ. Chống sự hiện diện của thực dân ở Việt Nam, chống chính sách đô hộ của thực dân về mọi mặt là nội dung đầu tiên trong văn chính luận Nguyễn An Ninh.
Lột trần bản chất của chế độ thực dân trên mọi lĩnh vực như chính trị, kinh tế, xã hội là điều Nguyễn An Ninh quan tâm đến trong nhiều bài diễn thuyết và báo cáo. Trên báo Tiếng Chuông Rè, Nguyễn An Ninh cũng vạch rõ bản chất lừa bịp của khẩu hiệu “Pháp Việt đề huề”. Thực chất chính sách văn hoa giáo dục của thực dân cũng được phơi bày trong tác phẩm “Nền giáo dục công lập ở Đông Dương”.
Vấn đề con người, tiền đề cho công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc được Nguyễn An Ninh đặc biệt quan tâm. Nguyễn An Ninh còn cho thấy với những chính sách thâm độc về văn hóa giáo dục, Pháp thực hiện việc “khai hóa”. Ông thẳng tay lật mặt nạ những kẻ mệnh danh là trí thức tây học, mượn chiêu bài vì dân vì nước để thủ lợi bằng cách hợp tác với Pháp như Bùi Quang Chiêu. Như những người yêu nước chịu ảnh hưởng của tư tưởng khai sáng đầu thế kỷ, trong bài “Cao vọng của thanh niên Annam”, Nguyễn An Ninh rất quan tâm đến nhu cầu “Xây dựng một nền văn hóa trí thức cho nòi giống ta” (110, 18) “Vì một dân tộc bị thống trị bởi một nền văn hóa ngoại lai chỉ có thể độc lập thực sự khi dân tộc ấy sở hữu một nền văn hóa độc lập”, “văn hóa chính là linh hồn lớn của dân tộc… một nền văn hóa riêng biệt là điều kiện để sinh tồn, điều kiện để độc lập hoặc để bành trướng đối với một dân tộc”.
Giải pháp về văn hóa của Nguyễn An Ninh gắn chặt với vấn đề con người, gắn chặt với nhu cầu chấn chỉnh nhận thức và tinh thần dân tộc, năng cao dân trí, trong đó giới thanh niên đóng vai trò rất quan trọng. Ông nhiệt tình kêu gọi thanh niên hãy tích cực nhận thức về thực trạng của đất nước mình “Chúng ta sinh ra trên một đất nước mà ở đó tất cả còn chờ được sáng tạo, vào thời kỳ mà mọi sáng kiến thông minh đều bị nhìn bằng cặp mắt nghi kị, hoàn cảnh lịch sử đòi hỏi tinh thần trách nhiệm của thanh niên, vì “Sự kiên ta sinh ra trên xứ này và trí thông minh của ta áp đặt cho ta một sứ mạng. Còn ai xứng đáng hơn ta để nhận sứ mạng ấy?”
Theo Nguyễn An Ninh, cuộc đấu tranh vì tồn tại của đất nước diễn ra trong mối quan hệ với sự vận động phát triển của nhân loại. Tác giả muốn nhấn mạnh đến tính độc lập trong nhận thức và hành động của người thanh niên trí thức Việt Nam, không nô lệ ảnh hưởng của nền văn hóa, văn minh mà họ hấp thụ. Ông vạch rõ sự lừa bịp của huyền thoại “Phép lạ Pháp tại Á Châu”, khi “chỉ trong một thời gian ngắn đến thế, đã đẩy vào ách nô dịch hoàn toàn một dân tộc vốn giàu tư tưởng dân chủ…”
Năm 1925, Nguyễn An Ninh cho ra đời cuốn “Nước Pháp ở Đông Dương”, ông  vạch trần bộ mặt khai hóa của thực dân Pháp, mặt khác, báo Tiếng Chuông Rè còn công khai xác định tôn chỉ của mình là truyền bá tư tưởng dân chủ, ông đã nghiên cứu giới thiệu tuyên ngôn Cộng sản của Marx và Engels, chia bản tuyên ngôn ra từng phần để giới thiệu và dẫn giải cho độc giả dễ tiếp nhận.
Ngay trong những thập kỷ đầu tiên của quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam, Nguyễn An Ninh là một trong những người đã sớm khẳng định sự giàu đẹp của tiếng Việt trong ngôn ngữ đời thường, ông thấy được vẻ đẹp của tiếng địa phương, bên cạnh niềm tự hào về vẻ đẹp của ngôn ngữ trong thơ Nguyễn Du. Chính vì thế Nguyễn An Ninh cũng đã từng xác nhận là ông không ngừng rèn luyện Quốc ngữ, ông đã thực hiện việc sáng tác bằng chữ Quốc ngữ qua một tác phẩm cụ thể mà ông muốn “không dịch của Tàu mà càng không phải là mượn của Tây”, với cảm hứng Việt, bằng lịch sử Việt. Đó là vở kịch Hai Bà Trưng ra đời năm 1928, mà ông gọi là “tuồng hát”. Đặc biệt là ngôn ngữ của vở tuồng này hoàn toàn là “tiếng Annam ròng”, “tiếng thường dùng hằng ngày”, không văn hoa kiểu cách.
Văn chương chính luận từ thời Lục Tỉnh Tân Văn cho đến Nguyễn An Ninh là một mảng văn in đậm đậm dấu ấn của một thời sôi nổi đấu tranh và tìm kiếm con đường cứu nước của nhân dân Nam bộ. Báo cáo của toàn quyền Đông Dương gởi cho Bộ thuộc địa năm 1906 cho thấy nó là một hiện hữu không thể phủ nhận được, đã từng là mối lo cho chính quyền thực dân.
Nếu ở giai đoạn trước văn chương yêu nước Nam bộ đặt trọng tâm vào vấn đề canh tân đất nước và cứu nước bằng con đường kinh tế, văn hóa thì ở giai đoạn này, mảng văn chương phải đáp ứng nhu cầu cấp thiết về việc định hình một nền văn hóa mới, một phẩm chất mới cho dân tộc, đáp ứng nhu cầu bức thiết của cuộc đấu tranh chính trị gay gắt. Trong mảng văn chương thời kỳ này, văn xuôi chính luận có nội dung truyền bá tư tưởng, cổ động đấu tranh chống thực dân là thể loại phong phú nhất.
3. Đặc điểm nội dung văn chính luận Nam kỳ
Qua khảo sát các bài nghị luận được đăng trên báo: Lục Tỉnh Tân Văn (1907 – 1908);  Nông Cổ Mín Đàm (1917 - 1921); và các bài nghị luận của Trần Huy Liệu. Nội dung của các bài nghị luận nay chủ yếu xoay quanh các nội dung sau:
Về kinh tế, xóa bỏ quan niệm lạc hậu phát sinh từ nền kinh tế “trọng nông khinh thương”, xây dựng nền kinh tế hiện đại chú trọng phát triển thương nghiệp, kêu gọi đồng bào giành quyền lợi từ tay ngoại bang (đặc biệt là người Hoa và Ấn).
Về văn hóa, xã hội: Kêu gọi đồng bào nên tự trách mình, bỏ những thói ăn nết ở không hợp thời, tiêu cực.
Về chính trị, công kích thẳng chế độ thực dân bằng nhiều hình thức.
Đặc biệt là con đường canh tân đất nước không thể thiếu học vấn. Cuối cùng cốt lõi nhất là đấu tranh đòi lại độc lập tự do thật sự, xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh, hiện đại.
3.1                         Về kinh tế
Chỉ ra thực trạng kinh tế Việt Nam lúc bấy giờ là những đầu mối kinh tế quan trọng đều nằm trong tay người ngoại quốc,tức là ngoại bang làm chủ nền kinh tế của mình ngay trên đất nước mình.Một trong những nguyên nhân là người An Nam ta “công thương không ngò tới”,vẫn còn tư tưởng “trọng nông khinh thương” và cũng do chính phủ Pháp “sao có hậu với người khách mà bạc với con nuôi trong nhà” , hậu quả là “để cho khách kiều cư họ thâu tóm mối lợi lại còn hỉnh mũi múa mồm đăng vào nhựt báo của họ mà khinh bạc ta thiệt cũng là thẹn thùa đau đớn lắm” ( Bàn về công thương kĩ nghệ nước ta – Nông Cổ Mín Đàm số 112.22-Mai-1919).
Trong bài “Muốn quyết cuộc tranh thương phải chăm lo về lúa gạo”(Nông Cổ Mín Đàm số 152 ngày 1ER AVRIL 1920) - Nguyễn Chánh Sắt kêu gọi sự liên kết của những người trí thức, những nhà phú hộ,điền chủ “có lòng công ích nhiệt thành” hãy “quyết chí tranh thương với họ” để giành lại quyền lợi cho quốc dân, đồng bào. Cuộc tranh thương này “ chẳng phải là chuyện tầm thường,không phải một ngày một buổi” nên cần phải “ biết ưu thế mẫn thời, chẳng nài khó nhọc, phí tận tâm cơ,hao mòn cân não,bền lòng gắn chí”. Để làm kinh tế lo phát triển thương nghiệp “xin anh em phải rán mà làm,đậu vốn lại mà buôn chung với người ta họa may đến ngày sau trở nên  sự thong thả,để người ngoại quốc họ chiếm đoạt cái lợi rồi thì An Nam mình mấy đời sau chắc là không khỏi làm nô lệ cho các nước nữa” . (“ Thương cuộc luận” (Lương Giang,Thủ tọa Minh Lương, Lục tỉnh Tân Văn, số 7, 22/11/ 1907 ).Khi kinh tế vững vàng thì ta có thể làm chủ không phải “làm thuê” cho người ngay trên đất nước ta, không phải làm nô lệ bị người khinh rẻ.
Ở đời,hễ nghề nào làm dễ mà được lợi nhiều thì cứ nghề ấy mà làm.Trong “Bàn về nông thương kỹ nghệ nước ta”( Nông Cổ Mín Đàm số 112.22 -Mai-1919),tác giả cho rằng: “Dân Nam Kỳ sẵn có ruộng tốt,làm đã dễ, mà được lợi to, thì tất nhiên phải bấu vô nghề ruộng”, đặc biệt xứ này “là một xứ đất rộng người thưa…chẳng luận là tỉnh nào, hễ phát cỏ gieo mạ thì tới mùa lúa đổ đầy vựa; chớ khỏi tốn tiền mua phân mà vãi trong ruộng”. Cho nên “nông nghiệp xứ Nam Kỳ ngày càng thạnh vượng”, “chỉ nên chuyên lấy một nghề nông thì cũng đã kinh dinh sự nghiệp rồi” còn Bắc Kỳ “có mỏ sắt mỏ than, mỏ chì mỏ thép,có thể trồng dâu để tằm,có đất nắn hình đúc chén,lại sẵn có dân đông,tiền công mướn rẻ,thì dân Bắc Kỳ nên chuyên về công nghệ; Trung kỳ sẵn có lâm tài thủy lợi,đều là một mối tài nguyên,lại cũng có nhiều xứ nuôi ngựa,nuôi trâu,nuôi bò,thì dân Trung kỳ cũng nên chuyên về môn ấy, rồi lần lần sẽ quảng khai qua các môn khác” . Nếu “dân mỗi xứ đâu đó đều tùy nghi mà tinh tấn cái sở trường của mình, rồi nương nhau,cậy nhau,giúp nhau,thương nhau, dìu dắt nhau chen lấn mà bước lần vào đám thương trường… thì có lo chi là dân tộc ta không tấn bộ như người”
Nghề nông là thế mạnh của Nam Kỳ nhưng Nam Kỳ đất rộng dân thưa không có đủ nhân công mà mở mang,nêu ruộng đất vẫn còn bỏ hoang gần “Một triệu rưỡi mẫu”.Tác giả đề xuất cách khai hoang mau lẹ, hiệu quả là:đem dân ngoài Bắc và Trung vào cho đông vì nơi đó đất hẹp mà dân đông, ruộng không tốt, thường xuyên bị lụt, “bề sanh kế rất hẹp hòi”, “dân sự nhiều khi khốn đốn”. Nhưng ngặc nỗi, trong Nam điền chủ lại thâu lời tá điền rất nặng “cứ 100 giạ lúa vốn thì tới mùa thâu lại 100 giạ lúa lời”. Thành ra, tá điền làm cho điền chủ ăn. Để cuộc khai hoang mau lẹ,hiệu quả thì mấy ông điền chủ lớn hãy “lấy lòng bác ái, nới bớt cái miệng túi ra một thí”, ăn lời nhẹ hơn cứ một người khai hoang được 20 mẫu phải “sang bộ lại cho đứt người tá điền ấy mà thưởng công khai phá”. Nếu làm được như vậy thì dân “Trung Bắc lưỡng kì cũng vui lòng xa quê lìa quán rủ nhau tràn vào hiệp sức với ta”(“Chấn chỉnh nghề nông: Một cách khai hoang rất mau lẹ” Nông Cổ Mín Đàm, số 208 JEUDI 16 JUIN 1921))
Với lượng nông sản của Nam Kỳ rất lớn, từ khi “châu Âu khởi cuộc đau binh” tàu ngoại quốc họ “ỷ một mình một chợ” nên thừa dịp mà ăn mắc hơn gấp 2,gấp 3 lần. Trong nước ghe chài mà vận tải lúa gạo từ Châu Đốc về Chợ Lớn “lúc trước họ ăn chừng 1 cắc hoặc 1 cắc 2 mỗi tạ,mà nay họ tăng lên cho đến 1 cắc 8 hoặc 2 cắc không chừng”. Trước vấn đề trên trên tác giả đặt ra“ Ba cái vấn đề rất quan trọng”(Nông Cổ Mín Đàm  số 127. 18-september) đầu tiên là kêu gọi thành lập Nam Việt Luân Hoàn Công Ty: “sắm tàu cho nhiều đặng để mà vận tải hang hóa và hành khách của ta” để giành lại cái “mối lợi đưa tàu này ắt phải trọn về tay An Nam”
Nông sản lớn nhất của Nam Kỳ là lúa gạo. Nhà máy xay lúa “lúc trước không ăn tiền, chỉ lấy tấm cám,ngày nay họ đã lấy tấm cám rồi còn ăn tiền xay mỗi tạ cho tới 7 cắc,  7 cắc rưỡi”.Bởi vì “quyền thế nơi họ,cho nên họ nói thế nào ta phải nghe theo thế nấy”. “Chỉ tội nghiệp cho nhà nông ta…cày sâu cuốc bẩm cực nhọc chẳng xiết chi,làm cho hột lúa ra rồi sự lợi để cho chúng hưởng”.Vậy thì,“những đấng  nhiệt tâm vì dân,vì nước,xin xướng ra kêu rủ những người phú hộ hào gia hãy thương xót lấy quê hương”, đồng tâm hiệp lực mà lập nên Nam Kỳ Nông Nghiệp Tương Tế Hội Tổng Cuộc, để bảo vệ quyền lợi của quốc dân trong lĩnh vực lúa gạo.Ta không có nhà máy lớn, nhà máy của ta lập tỉnh nào theo tỉnh nấy với quy mô nhỏ nên lượng gạo không nhiều, trong khi “tàu các nước tới chỉ cứ mua lúa gạo mà thôi” nên ta không thể cạnh tranh với khách được.Vì nhà máy của họ ở Chợ Lớn cái nào cũng to,vốn to,gặp lúc lúa rẻ họ mua trữ nhiều phòng khi lên giá.Ta cần phải hiệp nhau lại cho có vốn to,rồi lập tại Mĩ Tho nhà máy cho thiệt lớn,mua lúa gạo của Nam Kỳ gom về một mối, xay ra gạo rồi chịu giá bán thẳng ra cho ngoại quốc “đặng tránh cho khỏi tay những kẻ làm trung gian thì mới có chỗ trông mong mà thâu hồi quyền lợi được”. Có như vật ta mới “khỏi bị china áp chế”. Ta phải lập nhà máy tại Mị Tho vì ở Sài Gòn, Chợ Lớn khách trú đã đứng chật rồi. Đặc biệt, Mĩ Tho là “chỗ trung ương” lúa lục tỉnh chở về rất thuận tiện,cửa biển Mĩ Tho sông rộng lạch sâu, tàu buôn lớn vào ra cũng dễ, lập tại Mĩ Tho ta khỏi phải tốn ghe chài chuyển vận như các nhà máy khách trú, “càng bớt một phần tổn phí nữa”. (Muốn quyết cuộc tranh thương phải chăm lo về lúa gạo”(Nguyễn Chánh Sắt- Nông Cổ Mín Đàm  số 152 ngày 1ER AVTIL 1920)
          Bên cạnh đó, ta cần phải lập Nam Việt Ngân Hàng “để mà giúp đỡ cho những đại thương gia và nông nghiệp chủ.Vì bấy lâu nay chúng ta làm ruộng to không nổi, buôn bán lớn không xong, là cũng do nơi tư bổn”. Trong bài “Nông nghiệp tệ nguyên”(Nguyễn Chánh Sắt – Nông Cổ Mín Đàm số 64.16-mai-1918) đã chỉ rõ xứ ta “nông nghiệp là căn bổn,là huyết mạch của quốc dân” mà “không tấn phát được” do những nhà tư bổn cho vay nặng lãi làm cho nông nghiệp và cả thương nghiệp “khôn phương vùng vẫy”. Chẳng hạn như về nông nghiệp, điền chủ muốn khai phá đất hoang thì phải  quy tụ tá điền cho đông,cần rất nhiều vốn,không đủ thỉ phải đi vay tiền. Nhưng vay “bạc của băng thì người An Nam ta cũng ít khi vay được” đành phải vay của các nhà tư bổn ( phần đông là chà và khách trú) nhưng “ít ai cho rẻ bao giờ”, có rẻ thì cũng “2 phân rưỡi, ba phân là ít”. Điền chủ vẫn vay vì “bọn tá điền nó chịu chứ có hại chi đến mình mà sợ”,tá điền làm ruộng “trúng thất cũng trói thây, hễ tới mùa rồi, cứ một đồng bạc vốn một giạ lúa lời”. Cho nên tá điền “nghèo cũng hườn nghèo”. Còn mấy ông điền chủ khi tá điền trốn sạch, “kho vựa trống trơn, lấy chi mà trả nợ thôi thì giao phứt mấy dây ruộng mà giật nợ cho rồi”.
Ta nên chấn chỉnh nghề nông”(Nguyễn Chánh Sắt – Nông Cổ Mín Đàm số 198),nêu rõ hiện nay toàn cầu thế giới xứ nào trồng lúa được là học trồng ngay như hai nước: Miến Điện và Xiêm La họ “chuyên tâm kê cứu mà làm cho nghề nông trong xứ phát đạt them hoài, lựa ròng giống lúa tốt mà trồng”, nên chất lượng gạo của họ rất tốt “bên Âu châu và bên Thế giới mới ưa dung lúa gạo của hai xứ ấy hơn”,bán rất được giá.Còn “gạo của ta thì xấu hơn”,”việc bán lúa của Nam Kỳ ta gặp nhiều bề gay trở”.Sở dĩ chất lượng gạo của ta không tốt là vì: Giống lúa ta không bằng họ, “mấy chú khách đi mua lúa gạo vì ham lợi mà trộn bụi cát,hoặc rưới nước vào cho lúa nặng cân” là cho “hột gạo mất màu, ăn cũng mất ngon” hoặc “lúc lúa chín mà nhà nông ta quen tánh chần chờ, không lo thâu cắt đặng đem vào vựa vào kho cho sớm, để nghinh ngang ngoài đồng, rủi bị trời mưa sớm ướt át… dầu cho lúa khỏi mọc mộng thì gạo cũng  hư cũng ẩm . Hoặc là kho vựa cất không được khoảng khoát, không có sanh khí thong vào,hâm nóng lâu ngày, tài gì mà gạo không kinh không nát”. Cho nên ta cần phải làm cho hột gạo Nam Kỳ ta có giá trị hơn gạo mấy xứ kia”.
Trong các bài “Lúc nầy nà An Nam chẳng lo buôn bán còn đợi lúc nào”( Nguyễn Chánh Sắt- Nông Cổ Mín Đàm số 125.4 septembre 1919), “Nam Kỳ công nghệ”( Nguyễn Chánh Sắt- Nông Cổ Mín Đàm số 79.5 septembre 1918) và “Nông thương nghiệt luận”(Nguyễn Chánh Sắt - Nông Cổ Mín Đàm số 2.8-Fevrier-1917), “Thiệt nghiệp yếu luận” ”(Nguyễn Chánh Sắt- Nông Cổ Mín Đàm số 5.1er-mars-1917), Nguyễn Chánh Sắt đã kêu gọi bên cạnh phát triển nông nghiệp ta phải phát triển thêm công thương nghiệp như: Mở quán cà phê, quán ăn để cho “người mình có chổ tới lui ăn uống,cho khỏi tới tiệm khách mà thất lợi cho quê hương”, hay làm bánh, lập hãng xe hơi, tiệm giặt ủi, đóng giày tây, thợ bạc, thợ mộc, hãng làm giấy… để giành lại mối lợi. Mặc dù có đạt được một số thành tựu nhưng những mặt hàng thường dùng như : khăn, vớ, dù mềm, xà bông… là đồ dễ học dễ làm.Vậy mà ta cũng vác tiền ra mua của khách. Thế kỉ XX là “đời cạnh tranh của thế giới vận hội đã đổi xây, thì theo lối theo thời,học những khoa chuyên môn tân học,thì mới thích hạp thời nghi và mới mong chen chân vào địa vị ấy được” nhưng mà không có trường nào dạy các nghề ấy. Ta muốn tranh cạnh với người thì phải “nong trang tìm kiếm mà học lấy”. “ta cũng nên đổi cái phương châm mà theo lối học tân học đương thời, có con cháu phải cho nó học về khoa thiệt nghiệp”, ta phải coi sở trường và sở thích của chúng về khoa nào thì “ta sẽ chìu theo cái sở thích của nó mà cho nó học” để “đặng thân gia, cũng giữ gìn đặng cái quyền lợi cho quê hương” 
Đặc biệt,tác giả nhấn mạnh muốn canh tân đất nước thì phải chú trong đến giáo dục, mở mang dân trí. Trong “Giáo dục xác luận” ” (Nguyễn Chánh Sắt - Nông Cổ Mín Đàm số 13.26 Avril 1917) nêu rõ “trí thức là căn bổn của sự tấn hóa”, “đồng bào ta mấy nhà có tư bổn cũng nên nới miệng túi ra mà lập thêm học đường trong mỗi xóm, cho tiện đường gần gũi cho trẻ thơ”. Và muốn buôn bán cho bền vững thì phải đoàn kết đồng bào, ta chỉ nên cạnh tranh với khách chớ không nên cạnh tranh với đồng bào ta.
Trong bài “ Thương cuộc luận” ( Lương Giang,Thủ tọa Minh Lương,Lục Tỉnh Tân Văn, số 7, 22/11/1907 ), sở dĩ ta khó phát triển thương nghiệp cũng bởi người mình còn những thói xấu như là “Trong lòng hay nghi nhau ít ai tin cậy ai,nên làm không nên việc”. Không có dạ tín thành, tham lam “thấy chủ nhà tin cậy, giao tiền bạc cho mà giữ, thì lại làm xâm khuy trong số bạc ấy, nên sau người chủ nhà không giao cho giữ tiền bạc nữa”.
3. 2. Về các vấn đề văn hóa, đạo đức, xã hội
“Một thực tế rất mắc cỡ là Chệt ở Chợ Lớn thì quyên tiền để cất trường để dạy học cho con em của họ thì ở xứ ta kẻ giàu có thì chỉ biết ăn chơi, rồi lại khoe rằng “hồi hôm thua hết 500.700 đồng” để cho thiên hạ biết rằng mình giàu. Đau xót trước thực tế đó tác giả than rằng phải chi họ“nhịn bớt một mớ tiền bạc xài vô ích… để làm đều phải,mở manh trí hóa con nhà nước Nam ta như là:mua nhà in mà in sách vở bán giá rẻ,cho mỗi người giàu nghèo đều mua được mà đọc, mở cuộc thi này, cuộc đua kia, lập hội này,khai hùn hội kia, lập trường tiểu học…”. Họ còn là những con người theo phái bàng quang háo danh, giỏi nói hơn làm,   “ Hễ ai bày ra đều chi khi mới nghe thì mau mau bố thí,hoặc xin hội cho hùn,chừng đến ngày góp tiền dụ dự bất quyết làm ra hoại việc đi”, luôn chê bai người khác, luôn tìm cách hại cho “ thiên hạ cất đầu không nổi, chồi đầu không lên. Hễ thấy ai ra làm việc trộng trộng thì bày chuyện bao biếm,làm cho hư hại công việc lớn mới ra đành bụng”, hay thấy ai ra làm ăn thì “kẻ trù người ẻo cho mau tàn mau mạt”, không thủ tín, khó tin cậy được. Cuối cùng tác giả khẳng định “nước người ta gian khéo, xảo lớn, còn nước mình gian vụn, xảo vặt” nên không làm được việc lớn. Vậy nên, ta phải mau mau đổi mới,canh tân (Bài “Cô chưởng nan minh” của Trần Chánh Chiếu Lục Tỉnh Tân Văn số 2,21-11-1907).
Đặc biệt, ở Nam Kỳ lúc bấy giờ xảy ra cuộc tranh luận về vấn đề tôn giáo rất sôi nổi. Những người Việt Nam nhiệt tình muốn đổi mới,đã đạt lại nhiều vấn đề đối với những tiêu cực và tích cực của sinh hoạt tín ngưỡng cũ.Có hai chủ trương: Một là loại bỏ những tôn giáo ngoại lai “đuổi Phật về Thiên Trúc, đuổi Quan Công về Tàu”; hai là chủ trương bảo vệ truyền thống, gạn lọc tinh hoa.Trước vấn đề này Nguyễn Trọng Quyền đã đưa ra ý kiến của mình trong bài “ Thời sự chi ngôn” (Tân Hưng Siểng sanh Nguyễn Trọng Quyền Tự Hưng Hoành kính bái Lục Tỉnh Tân Văn số 6, 19-12-1907): Dẫu còn tôn giáo hay không thì cũng chẳng hại chi quan trọng là người An Nam biết tự sửa bản thân,chấn chỉnh xã hội làm cho đất nước giàu mạnh “Dẫu có đưa Quan công về cho chệt,bằng có trả Thích Ca lại cho Chà, mà mình chữa chịu sửa cho yên nhà, mà chưa lo cho vững nước. Thì tôi lo hai ổng còn cũng chẳng hại chi? Ngặc hai ổng đã đi,không biết kiếm ông Khổng Tử ở đâu mà đem lại, há!!!”, đến khi “nước ta giàu, tuội ta mạnh, trí ta đủ, tài ta khôn, lúc ấy tỉnh hôn, cơn này hết yếu. Chừng ấy chẳng lựa là đưa Thích Ca hay là trả Quan công, lúc ấy hai ổng cũng biết về xứ vậy”. Theo tác giả, đạo nào thì cũng làm điều thiện, lấy chữ tâm làm đầu. Thích ca là những người từ bi “lấy lòng hiền lành cho nhơn dân bắt chước”, hay Quan công “lấy chí ngay thẳng làm gương người noi theo, vốn thật hai ông chẳng hiện xuống mà réo mà kêu đặng xui giục bọn ta thờ lạy, hay cúng quảy,lập miễu cất chùa chi? Cũng tại long người có tưởng thì có, không tưởng thì không. Mỗi đạo tại trong lòng, không phải ở ngoài cửa miệng.”
Kêu gọi phụ nữ hãy cố gắng học để nam nữ bình quyền (Bài Nữ tử phục quyền -Nguyễn Chánh Sắt – Nông Cổ Mín Đàm số 3-Fevrier-1917)
Hướng vào mục tiêu đấu tranh chấn chỉnh văn hóa dân tộc, các bài văn chính luận về văn hóa xã hội của Trần Huy Liệu  khá phong phú. Ông viết nhiều về nhiều bình diện khác nhau như: Giáo dục, lề thói phong tục, nếp sống nếp nghĩ, giao tiếp ứng xử…Điều đáng trân trọng là ông thường có cách tiếp cận vấn đề độc đáo, không đi vào những kiến giải quen thuộc thông thường.
Trần Huy Liệu đặc biệt quan tâm nhấn mạnh đến vai trò của giáo dục gia đình. Trong bài“Giáo dục gia đình” đã nêu “Một quốc gia mạnh hay yếu; một dân tộc thạnh hay suy; đều trông vào sự giáo dục, sự giáo dục là mẹ đẻ ra các sự văn minh tấn hóa khác, mà chẳng nói chắc ai củng biết rằng hiệp nhiều gia đình thành ra một quốc gia, muốn có quốc gia giáo dục thì phải do gia đình giáo dục trước, gia đình giáo dục tức là cái gốc tổ chức nên quốc gia giáo dục vậy”. Ông cho rằng: “Người ta khi mới khôn lớn lên,khác nào một miếng vải trắng, mà gia đình giáo dục là một cái lò nhuộm; một cái cây còn non,mà gia đình giáo dục là một anh thợ uốn;nhuộm màu nào nên màu ấy; uốn kiểu nào nên kểu ấy; khi đã thành màu thành kiểu rồi, thì như dẩu muốn ngả màu khác bắt kiểu khác cũng không được nữa”, cha mẹ mà rượu chè bê tha thì những đứa con cũng chè chén như thế. Cho nên, khi giáo dục trẻ ta phải hết sức cẩn thận.Một người khi được gia đình giáo dục thì người đó có nề nếp, đức hạnh, khuôn phép, lễ nghi, nói năng dịu dàng,cử chỉ thận trọng. Ông đã thể hiện mối bận tâm lớn khi “Vận mạng tương lai nước nhà, trông vào bọn thiếu niên, mà thiếu niên nước ta ngày nay đương gặp cái buổi tân cựu giao thời nầy, phong hóa suy đồi; kỷ cương đổ nát; thì gia đình giáo dục hình như cũng vì thế mà kém đi”.
Xã hội ta từ xưa đến nay rất đề cao vai trò của người thầy,bởi vì thầy “là kẻ đã tạo ra cho mình một cuộc đời bằng tinh thần, đã chỉ cho mình biết thế là vui thế là buồn thế là thanh cao thế là đê tiện”. Ngày xưa các ông thầy đồ thì “một hai cúc cung tận tụy với cái nghề mình không khi nào dám lản bỏ nghĩa vụ”. Ngày nay chức trách của thầy giáo còn nặng hơn vì đây là thời buổi “Đông Tây giao tế”, là thời buổi “đang mờ ám”, thầy làm “khuôn mẫu cho trẻ con”, “là kẻ đứng đầu,tay cầm đuốc tay chỉ đường cho bọn thợ đông”. Thế mà “phần nhiều không làm tròn nghĩa vụ, không biết nâng cao nhân cách của mình”, “coi mình là kẻ làm mướn” chỉ làm việc qua loa dạy học trò “có hiểu không cũng trôi thây, miễn tới tháng lãnh xong đầu lương là xong việc”. Khi quan thanh tra đến thì “làm bộ siêng năng chăm dạy đặng có thăng chức thêm lương, khi quan thanh tra sắp lương đi về, thì các thầy lại cổi cái lốt ném đi”, đi ra ngoài thì “không có một chút nào là tư cách ông thầy cả”. Tác giả mong rằng các thầy giáo ngày nay nên bắt chước các cụ ta ngày xưa ( “Thầy giáo ngày nay” - Sông Hương).
Trong mảng văn chương về văn hóa xã hội, Trần Huy Liệu còn nhiều bài viết thể hiện những bức xúc rất thời đại như: “Cái thói xa hoa của người mình” ngày càng quá ngày cáng quá mải ra, làm cho mỗi năm kể phí đi biết bao nhiêu tiền. Cụ thể như lối phục sức của người mình, những người mắc chứng bệnh xa hoa thì cho rằng mặc “quần áo tây mới là đúng mốt”, đang mùa nóng nực mà cũng bận “đồ nỉ để khoe rằng bộ quần áo nhiều tiền, tư bổn thì thiếu trước hụt sau”, đi lại bằng “xe ô tô mới là sang”, “nhưng quần áo tây xe ô tô đối với người các nước là chủ về phương tiện” còn đối với người mình “là chủ về đúng mốt và làm sang”. Cho nên “chưa có cũng cố cầu cho có”, “mượn cái đó để phô trương với đời chớ không phải dung cái đó làm nô đang nộ lệ cho mình”. Còn ăn uống thì phải là cơm tây, cơm khách mới là danh giá,“mà thường ngày mỗi bữa phải có thằng bồi đi Hotel lấy cơm mới là bậc sang”. Đối với họ, các đồ dùng phải là của Tây, Khách, Nhựt, Chà… nói rút lại thì của một ông ngoại quốc nào đó mới là đồ có giá trị.Hậu quả của thói xa hoa là “nó lại làm mất tư cách người”. Ông từng xác định “Vận mạng tương lai nước nhà, trông vào bọn thiếu niên” nhưng một người thiếu nhiên này mà mắc cái thói này là “tửu quán ca lâu ấy là vu đài; thần ngoại ấy là bạn thân; ngoài ra xã hội dẩu có thạnh suy cũng chẳng thèm biết đến;dân tộc dẫu mạnh yếu cũng chẳng thèm nhìn đến”, ta càng sống xa hoa thì Tây, Khách, Chà, Nhựt… càng có lợi. Sự xa hoa đối với người các nước thì không tổn hại là mấy,vì “các nước công nghệ đã phát đạt”, đồ dùng thì “người trong nước cung cấp cho người trong nước, cũng như san sớt cho nhau,không có điều gì tổn hại cả”. Ông cũng phê phán cái bịnh chơi xuân” của người mình như mê dại nơi tửu quán, chỗ ca lâu, mượn tiếng chơi xuân để lấp miệng đời. Vì vậy, Trần Huy Liệu kêu gọi ta hãy chừa thói xấu này.
Hay lối sống “Bàng quan”: Tác giả chỉ ra những người bàng quan là những người “chỉ biết nói mà không biết làm, đã không làm lại còn cười,còn chê,còn nhiết mắng…trách bị người mà không biết trách bị mình; tới khi từ giã cõi đời không có dấu vết gì để lại”. Đó là những con người “Đáng khinh lắm thay! Đáng bỉ lắm thay”, là đồ sống thừa, “không những không có ích mà còn có hại”. Trái với phái bàng quan tác giả ca ngợi những người thiệt hành. Họ chuyên tâm, chú ý làm việc,biết bao nhiêu làm bấy nhiêu, dẩu công việc có thành có bại, có dở có hay, “nhưng chỉ khi làm việc thì thiệt đáng khen, can đảm đương việc thì việc đáng phục”. Xã hội mà có nhiều người theo phái bàng quan thì xã hội ấy suy mà xã hội ta theo phái này lại chiếm số đông.Bên cạnh đó, còn có tánh khiếp nhược, “thủ đoạn khiếp nhược càng ngày càng thấy dỡ ra nhiều, coi đó cũng đủ đoán biết cái trạng thái của xã hội ta ra sao vậy”.
Vậy thế nào là tánh khiếp nhược? Theo tác giả tánh khiếp nhược là “những kẻ không dám đối đương người trước mặt,mà mưu hại người sau lưng; khiếp nhược là những kẻ ăn hiếp người không có khí cụ để đối đương được mình; khiếp nhược là những kẻ nhơn khi người ta nguy cấp mà làm cho người ta nguy cấp thêm; khiếp nhược là những kẻ làm việc không do con đường quang minh chính đại mà chỉ là lẻn núp ẩn mặt”. Những người khiếp nhược là những kẻ “muốn cạnh tranh với người mà không biết dùng cái thủ đoạn chính đáng, chỉ thi hành những cái thủ đoạn núp lén ngấm ngầm”, “ngậm máu phun người mà lại giấu miệng, cả tiếng mắng người mà lại giấu tên”. Đó là tánh “đê tiện, đáng khinh đáng bỉ đáng ghét đáng cười … Người có tánh khiếp nhược không phải là người”, “Tiếng dẫu là người, song cái tâm thuật cái đởm lực chẳng khác gì giống thú, mà so với giống thú cắn người trước mặt còn kém xa”. “Ta mong rằng cái con vi trùng khiếp nhược kia sẽ không truyền nhiễm cho đồng bào ta”. Bởi vì “Ôi! Giống ta là giống cha rồng mẹ tiên, giống không phải hèn; gan không phải nhỏ,hơn bốn ngàn năm chống chọi với người,đã trổ sanh biết bao nhiêu bậc anh hùng hào kiệt liệt sĩ vĩ nhân, vậy mà ngày nay cái giống vi trùng khiếp nhược, càng ngày càng thấy sản xuất mãi ra, hình như nó bảo cho ta biết rằng: Gia đạo thạnh thì trổ sanh ra những con hiếu cháu hiền, gia đạo suy thì trổ sanh ra những con hư cháu nghịch, phá gia cang, gây gia biến”
Thói đạo đức giả và vụ lợi thể hiện rõ trong bài “Cách kiếm ăn đê tiện của một hạng người ở xã hội ta ngày nay”: Người ta phải đem hết trí khôn và sức khỏe ra để kiếm ăn, ở đời cách kiếm ăn ngày càng eo hẹp, khó khăn. Kiếm ăn có nhiều cách: Cách kiếm ăn chánh đáng: Liều tánh mạng để chiếm lấy thuộc địa, chiếm hải đảo, chiếm thương trường, làm ruộng đem mồ hôi đổi lấy bát cơm,… Có cách không chánh đáng: Bọn quan lại hút máu của dân, bọn buôn người, bọn vô nghề nghiệp chỉ đi lừa đảo, bọn thừa khi nguy khốn hãm hiếp người để kiếm miếng ăn. Theo tác giả một hạng người kiếm ăn đê tiện ở xã hội ta ngày nay đó là: “Hạng người giả danh nhơn nghĩa để kiếm ăn. Đó là hạng người “hể mở miệng ra thì toàn những dọng ái quần ái chưởng, cứu nạn phò nguy”. Những nơi xảy ra nạn lụt lội tai biến gì thì họ “sốt sắn lắm”, họ đi quyên tiền để giúp đỡ. “Những nơi dân đương bị tai biến đói rét khổ sở kia sẽ trông cậy các ngài là cái cánh tay tế độ để cứu vớt người trong biển trầm luân!”. Chớ có biết đâu rằng các ngài chỉ mượn cái lốt “nhơn nghĩa” để che cái mặt vô liêm sỉ; lợi dụng cái việc “nhơn nghĩa” để làm mồi kiếm ăn, lợi dụng cái việc “nhơn nghĩa” để làm lòa mắt người.
Bài “Đồng tiền và đồng bào”: Kể về việc chìm tàu trong đó có một người đàn bà An Nam đang có thai kêu ba người thanh niên cứu, nếu cứu được sẽ hiến mỗi người 100$. Người còn lại là tên khách trú. Nhưng ba người thanh niên cứu tên khách trú trước vì nghĩ rằng sẽ được nhiều tiền hơn. Cuối cùng,người đàn bà chết, tên khách trú cho 6$. Theo tác giả thật nhục nhã, xấu hổ biết bao, “đáng nhục cho nồi giống ta”. Chỉ vì lối sống thực dụng vì tiền mà quên nghĩa đồng bào. Họ là người mà “tiền của quyến dụ nó thì không những nó sợ như quỹ thần; tôn như cha mẹ, mà dầu bảo nó bán cả anh en tổ quốc, quên cả đất nước non song nó cũng vui lòng”.
Bên cạnh đó, Trần Huy Liệu còn quan tâm đến thể thao. Ông nhấn mạnh “Người ta có ba điều cần yêu là đức dục trí dục và thể dục, đức dục trí dục thì thuộc về phần hồn; còn thể dục thì thuộc về phần xát…, vậy nên khoa học thể dục thật là cần thiết cho người ta, mà khoa học thể dục thì cấn nhứt là môn thể thao, có chăm lo thể thao thì tay chân mới mềm dẻo, mình mẩy mới khỏe mạnh… trong mình có khỏe mạnh thì trí óc mới linh thông,tánh tình mới như thường”. Thế nhưng nước ta là một nước “văn nhược, từ xưa khoa học thể dục vốn coi thường coi khinh”, đặc biệt là bọn học trò thì “lại càng khuyết điểm”, cho nên không có sức khỏe. Trong khi đó, ở các nước khác thì “trọng nhất là khoa học thể dục, chương trình các trường học đều có tập thể thao… vì vậy trong nước người nào cũng mạnh khỏe… khí dân ngày một mạnh tợn, thế nước ngày một bành bột”. Từ khi Pháp cai trị nước ta thì khoa học thể dục cũng đã được đưa vào trường học, thậm chí có trường chuyên dạy về thể thao. Nên đã có sự thay đổi về sức khỏe và tinh thần như “khi xưa mặt bủng da chì,chơn tay yếu ớt, hơi mó đến việc gì là run là ngượng, thì nay đã thấy da thịt nở nang, chơn tay lanh lẹ, làm việc gì củng lẹ như không”. Tác giả phê phán những người lười biếng không chịu vận động,“đi đánh ten nít, mà cũng đi xe đi về,có khi về tới nhà đôi giày cũng giao cho thằng bồi cổi”. Trần Huy Liệu cũng đã khẳng định “không phải đến nhà trường dơ tay vươn ngực hay nghẻo cổ đưa chơn mới là thể thao; cũng không phải vào hội đánh ten nít hay đánh trái lăn mới là thể thao”, mà thể thao là “tự mình cử động thường thường, lúc nào cũng được,giờ nào cũng được”, vừa được khỏe chân tay, vừa được quen việc, cho dân được mạnh, cho nước được mạnh. Vì vậy, tác giải kêu gọi “đồng bào ta nên chú trọng về khoa thể thao”, “các trường học của ta chú trọng về khoa thể thao, cho thể dục của người mình mỗi ngày mỗi tấn mải lên, thể dục có tấn thì người trong nước mới hùng vĩ, người trong nước có hùng vĩ thì mới mong gánh vác việc đời. Huống chi thời buổi ngày nay là thời buổi cạnh tranh kịch liệt”.
Đặc biệt, Trần Huy Liệu còn quan tâm đến việc xem xét lại những di sản tinh thần đã gắn liền với bản sắc văn hóa dân tộc. Ông bày tỏ mong muốn người Việt Nam hiện đại phải có một bản lĩnh mới trước nếp nhìn, nếp nghĩ đã quen thuộc trong quá khứ với xu hướng gạn lọc tinh hoa, chỉnh lí những thiếu sót. Như “Những câu tục ngữ có hại cho người mình”. Xuất phát từ nhận thức “Mỗi xứ mỗi nước đều có những câu tục ngữ riêng, những câu tục ngữ ấy là biểu lộ cái tính tình của người trong một xứ, một nước, nên muốn quan sát cái thái độ của người trong một xã hội nào, cần phải dò biết những câu tục ngữ của xã hội ấy”. Nước ta có nhiều câu tục ngữ có nhiều câu đích đáng, nên để làm gương;mà cũng có nhiều câu lầm lạc,nên xóa bỏ. Vì nó có ảnh hưởng cho quốc dân như. Chẳng hạn như quan niệm “sẩy nhà ra thất nghiệp” (ra khỏi gia đình là dẫn tới nguy cơ mất phương sinh kế) chỉ dẫn con người chỉ khư khư đóng cửa ngồi nhà mà mất đi cái ý chí tiến thủ. Xưa nay, những người lập nên sự nghiệp đều là những người bốn bể làm nhà, cho nên người ta mạnh hơn mình, giàu hơn mình, khôn hơn mình. Kiểu suy nghĩ “trời sanh voi sanh cỏ, trời sinh trời dưởng” mang tính ỷ lại, thiếu tinh thần trách nhiệm gánh vác sự đời để lo cho bản thân,gia đình và xã hội. “Mưa lúc nào mát mặt lúc ấy” làm cho con người chỉ cốt sống vui sướng trong một lúc, rồi thì sau này thế nào mặt kệ. Tư tưởng “một miếng giữa làng bẳng một sàn xó bếp” dễ dẫn đến thói hình thức, háo danh.
Những sinh hoạt văn hóa tinh thần như: Hát ả đào, hát bội, cải lương, nhạc ta… có tác dụng chỉ “trong cái thời gian ngắn ngủi mà có thể tạm yên nghỉ cái thân xác của mình… trong cái mua vui có quan hệ cho phần hồn của nhiều người lắm”. Như  hát ả đào là một thú chơi “thanh tao phong nhã của các bậc danh nhơn”, nghe một khúc hát ả đào làm cho “bao nhiêu trăm thảm nghìn sầu, bao nhiêu nhơn tình thế thái đều quên hết cả”, “không còn cách chơi gì thú bằng”. Nhưng đó là ngày xưa, còn ngày nay có nhiều tiêu cực, các cô đầu vì tiền mà “quên cả cái thân ngàn vàng, quên cả tư cách người con gái”, các cô “dở hết cả những ngón tài tình ra… rút cho đến ruột, moi cho đến xương, làm cho gia sản người ta tan nát”. Phong trào hát cải lương ngày càng bành trướng ra lấn át cả hát bội. Hát cải lương không phải là không hay song so với hát bội còn thua xa. “Cái dọng cải lương là cái dọng nghêu ngao nhàn tản, không có gì là khí vị hung hồn,nước ta nguyên là một nước văn nhược, lại ở vào thời buổi cạnh tranh nầy, mà cứ luyện theo cái dọng “êm như du nhẹ như bấc”thế, tưởng cũng nguy lắm!”. Còn ca nhạc mà “phấn chấn thì đủ thấy dân tộc ấy tinh thần mạnh mẽ; thơ ca va âm nhạc ủy mĩ thì đủ thấy dân tộc ấy suy đồi”. Ca nhạc nước ta từ cổ tới giờ “giọng nảo nùng ai oán, mổi khi cất tiếng hát” làm cho người ta “phải hồi tâm táng chí, không còn muốn cử động việc gì”, “dân khí trong nước như tro tàn trong bếp”, “không còn cái dư khí gì là tấn thủ cạnh tranh”. Tác giả kêu gọi những người có tâm chí nên chấn chỉnh ca nhạc và cải lương theo lối mạnh mẽ, hùng hồn.
3.3 Về chính trị
Có nhiều bài viết công kích thẳng chế độ thực dân bằng nhiều hình thức,cách nói. “Tờ cớ mất quyền tự do” của Trần Hữu Độ chỉ rõ dân An Nam muốn độc lập, tự do thì phải có: khí, trí, sức, bầy, động. Thực dân Pháp luôn sợ ta nổi lên giàng độc lập, tự do nên chúng tìm mọi cách để cho ta “cất đầu không nổi, chồi đầu không lên”.
Là thuộc địa, người miền Nam phải chịu sự cai quản trực tiếp của Pháp về nhiều mặt. Cũng chính vì thế mà họ càng lưu luyến gắn bó với tất cả những gì liên quan đến cội nguồn của mình, trong đó có triều đình Huế. Tác phẩm “ Giang hồ phùng cố chủ” (Tân Việt Nhơn, Lục Tỉnh Tân Văn số 22 ngày 16-4-1908) thể hiện tâm tình của người dân mất nước, lúc nào cũng hướng về quê hương, đất nước.
Tôi chẳng mai cửa nhà nghiên đổ,cha mẹ song vong, cô khổ linh đinh, một mình đất khách, tuy có học hành chữ nghĩa mà chẳng làm chi đặng, túng phải đi ở với chà và và bồ hóng mà nương cái thân”
Tôi bị là tôi mọi cho người là cũng do dại dột (thiếu nhận thức, lạc hậu, bảo thủ nên đã đánh mất quê hương). Theo mạch văn trong bài, cũng có thể hiểu đây là mất chủ quyền. Người than than là người Việt Nam bị làm thuộc địa, “chũ cũ” có thể hiểu là vua cũ, gần xa ám chỉ các ông vua Việt Nam chống Pháp mà mất ngôi hoặc bị lưu đày, như Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân. Khi đó con người mới thấm thía nỗi lòng của mình. Số phận của mình cũng do mình thiếu khôn ngoan suy nghĩ, nên mới lâm vào cảnh nô lệ.
Số phận “ông chủ cũ” cũng không kém phần bi đát". Nước mất nhà tan, “ông chủ” cũng tha hương phiêu bạt. “Dọc đường gió bụi” làm nô lệ cho người, tình cờ chủ tớ gặp nhau, nhưng than phận tôi tớ nên không dám nhìn chủ cũ (dân thuộc địa chẳng có quyền công khai thừa nhận vua mình là chủ thật của mình)
Tôi muốn a lại hỏi thăm ông chủ cũ của tôi cho biết nguồn cơn gốc ngọn, ngặt tôi đã thất thân chi nữ,nên tôi mới giằn long mà chịu,song tôi cũng nguyện cùng trời đất, còn cho tôi sống ở cõi dinh hoàn này, thời làm sao cho tôi đền ơn đáp nghĩa cho ông chủ cũ của tôi, rồi chết mới là can tâm, ô hô Văn Lang hà nhạt, giám ngã u trung”
Trước thực trạng đất nước ta nghèo nàn, lạc hậu  trong khi “chư quốc thông tình, vạn thương vân tập, anh hùng hào kiệt, giọc biển quanh sông, người người đều tấn bộ” các nhà Minh Tân tìm ra giải pháp là học hỏi ở nước ngoài để nâng cao dân trí. Văn chương chính luận đã thể hiện khả năng quan sát, nhận thức tình hình thế giới và khu vực để từ đó rút ra bài học bổ ích cho cuộc minh tân của đất nước. Tiêu biểu là “Huỳnh Kim vấn đáp” của Nguyễn Tư Thức (Lục Tỉnh Tân Văn số 7 ngày 26 – 12 - 1907) thể hiện suy nghĩ sâu sắc, cảm nhận nhạy bén về ý nghĩa chính trị của vấn đề này. Lúc này, Nhật Bản đang nổi bật ở châu Á như một tấm gương sáng về văn minh tiến bộ. Trong tác phẩm là cuộc trò chuyện của Huỳnh (Việt Nam) và Kim (Nhật Bản), Huỳnh muốn “biết nghĩa văn minh, cùng đạo trí phú, song chẳng biết” cho nên Huỳnh học cách văn minh, tiến bộ của Kim. Qua cuộc trò chuyện Huỳnh biết được:
“Một là thiết giáo dục, di dưởng dân tài,
Hai là lập học đường, dỉ khai dân trí,
Ba là ấn tân văn,dỉ quãn dân tâm,
Bốn là phác công nghệ, dĩ bồi dân sáng,
Năm là minh nông cổ, dỉ lực dân cần”.
Còn muốn biết trí phú đạo thì phải:
Còn muốn biết trí phú đạo thì phải:
“Một là tự tin sức mình,
Hai là nông cổ kinh dinh lợi quyền,
Ba là đoàn thể tương liên,
Kẽ chuyên công nghệ người chuyên học hành,
Ba là hiệp bỗn đồng tình,
Tin nhau phải chuộn, khinh nhau phải đừng,
Bốn là ái tộc tích quần,
Đam nhau bước tớn Minh tân mới mầu,
Năm là chữ tín làm đầu
Rõ câu chúng chúng trí, Á  Âu cùng người,
Sáu là sanh đứng trong trời,
Bỏ câu tật đố mở lời tiện nghi,
Bảy là chớ gịa hồi nghi,
Giàu thì có của nghèo thì có công,
Tám là vốn một làm đồng,
Tuy xa cách mặt cũng trong chương trình”.
Đặc biệt là Huỳnh đã thể hiện quan điểm của mình khi học hỏi là “tôi qua đấy là có ý muốn dầm gan thấm ruột học cách văn minh cho đặng mà nở mặt cùng người, chớ không phải qua đây là thay xiêm đổi áo đâu”. Tác giả đã thể hiện quan điểm và kêu gọi đồng bào ta trên con đường giao lưu, đổi mới, học hỏi ở nước ngoài nhưng luôn ý thức tự lực, tự cường.
Khát vọng tự do độc lập là nét nổi bật trong văn chương chính luận của Trần Huy Liệu, khi bàn về vấn đề tự do. Theo Trần Huy Liệu, hai chữ tự do là “một vật quý giá thiêng liêng thứ nhứt ở đời”, “một nước còn có tự do là là nhờ người trong nước biết bảo thủ tự do”. Ngày nay đã trở thành câu nói cửa miệng nhưng “không hiểu tự do, mà cũng không biết tự do là thế nào”. Ông không kêu gọi một thứ tự do chung chung mà nó rất cụ thể,chân chính, “tự do vẫn có hạn định, có trật tự chớ không hề quá nơi mình, không hề rối loạn, giả như tự do của mình mà mình không biết hưởng, thế là phóng khí tự do, tự do của người mà mình can dự tới, thế là xâm nhơn tự do, phóng khí tự do và xâm nhơn tự do đều là không biết tự do”. “Một nước, phóng khí tự do là những kẻ đớn hèn không biết tự trọng lấy mình, nỡ đem cái tự do của mình cống hiến cho người khác, xâm nhơn tự do là những kẻ lòng tham không đáy, theo cái chủ nghĩa vị kỷ, muốn cho thỏa mãn cái tự do của mình, mà không nhìn gì đến tự do của người khác, rồi ra mình cướp tự do của người”. Ngày nay ta tiếp nhận tư tưởng tự do của Âu, Mĩ là điều đáng mừng,đáng vui nhưng không bao lâu đã trở thành cái khó, cái buồn. So với các nước khác về giàu mạnh, khôn khéo ta chẳng bằng ai. Nhưng, “so bề phong hóa thì ta có thể tự hào mà nói rằng: ta không thua gì ai cả!”, khi “ma tự do” tới đã “xúi dục những bọn đệ tử vô trí thức trong xã hội, thi nhau mà đạp đổ nền phong hóa, gây nên những tấn tuồng tồi phong bại tục cho quốc dân”. Chẳng hạn như: Một đôi vợ chồng đang yêu thương nhau rất mực, vợ kính chồng,chồng nể vợ nhưng “ma tự do” tới là cho “vợ chồng ghét bỏ nhau, chồng đánh bạc, vợ đánh bài, chồng ăn chả, vợ ăn nem”. Ông khẳng định “tự do là khí thế của xã hội, tự do còn là sống,tự do mất là chết”. Và tha thiết kêu gọi “những người có khí khái thường hi sinh tính mạng mình mà chuộc lấy quyền tự do của mình, chuộc lấy quyền tự do của xã hội, chuộc lấy quyền tự do của nước nhà”.
Các tác giả chỉ ra thực trạng, nguyên nhân của những tiêu cực, yếu kém trong xã hội ta nhằm tha thiết kêu gọi mọi người hãy thay đổi cách sống, cách nghĩ, cách ứng xử, xây dựng nhân sinh quan mới, tiến bộ để thực hiện nghĩa vụ của người dân nước Nam ngày nay đưa đất nước ngày càng giàu mạnh, tiến bộ, tạo tiền đề để hướng đến mục đích cuối cùng là giành lại độc lập, tự do cho dân tộc.
4. Vài nét về nghệ thuật văn chương chính luận Nam kỳ
Truyền thống: Văn chính luận quốc ngữ Nam bộ XX vẫn sử dụng câu văn kiểu cũ có nhạc tính, vần điệu, cân xứng và câu văn có vần điệu ấy rất phù hợp cho việc gửi gắm, giãi bày tình cảm. Đó là những bài mang màu sắc kêu gọi thống thiết như Khóc tố đồng bào, Tân diển ca,“chồng thì chơn giày, chơn dép, sớm nhiễu tối sa, còn vợ thì tay xách tay mang, quần áo lang thang, lưới thưới”(Nông thương thiệt luận) hay “ sông rộng lạch sâu, tàu buôn lớn vào ra cũng dễ ( Muốn quyết cuộc tranh thương phải chăm lo về lúa gạo – Nguyễn Chánh Sắt)... Hoặc sử dụng câu văn biền  ngẫu mang sắc thái của lối nói thơ trong dân gian phổ biến ở Nam Kì.
    Sử dụng từ Hán Việt, thành ngữ Hán Việt: Thành nghiên lũy rã,  cố nhân, khán quan, lao thân tiêu tứ, dĩ biểu thốn tâm (Thơ của Nguyễn Chánh Sắt gởi cho Nguyễn Kim Đính), nam quí nữ tiện, nữ tôn nam ti, mẫu hệ , phụ hệ, vận hội, địa vị, liễu bồ, tào khanh; nhứt nghệ tinh, nhứt thân vinh, hường nhan đa truân, hành viễn tất tự nhĩ, đăng cao tất tự ti (Nông thương thiệt luận).   Đồng thời, thấy rõ rệt văn chương chính luận còn có ý thức rất cao trong việc sử dụng và giữ gìn giá trị của ngôn ngữ dân tộc.
Đặc ngữ trào lưu: Văn học quốc ngữ Nam bộ thế kỉ XX nói chung và văn chính luận giai đoạn này nói riêng đã có những đặc điểm riêng về ngôn ngữ. Người viết đã sử dụng tiếng An nam ròng, tiếng thường, tiếng mẹ đẻ để viết cho đồng bào mình dễ đọc, dễ hiểu. Điều này thể hiện xuyên suốt trong rất nhiều tác phẩm.
  Xuất hiện nhiều lần, nhiều chỗ, nhiều thời điểm các từ ngữ: đồng bào tương hệ, con nhà nước Nam, Hồng Bàng Lạc Long, đồng bào, đồng bang, đồng chủng, con nhà An Nam...(Đồng bào được nhắc lại nhiều lần trong “ Ta nên chấn chỉnh nghề nông”  - Nguyễn Chánh Sắt, dân An nam, người An nam, cả nước An nam ta, An nam mình trong “ Thương cuộc luận”- Lương Giang, thủ tọa Minh Lương, con dòng hồng lạc trong “ Bàn về nông thương kỹ nghệ nước ta”...)
Sự hiện diện của ngôn ngữ văn chương đậm chất khẩu ngữ Nam bộ cũng là một trong những đặc điểm về ngôn ngữ của văn chính luận. Đồng thời văn chính luận còn sử dụng những thành ngữ, tục ngữ quen thuộc, bình dị vẫn thường được sử dụng trong đời sống hằng ngày: dầm mưa chải gió, của chồng công vợ,(Nông thương thiệt luận), ăn xổi ở thì, (Muốn quyết cuộc tranh thương phải lo về lúa gạo - Nguyễn Chánh Sắt),  kiến tha lâu cũng có ngày đầy tổ,( Ba cái vấn đề tất quan trọng) miếng đất cắm dùi (Chấn chỉnh nghề nông)...
Bên cạnh đó, ta còn bắt gặp trong ngôn ngữ chính luận có những từ như tư bổn, langsa, Huê Kiều, China, Úc Đại Lợi, Đông Dương, An nam...lớp từ mang dấu ấn lịch sử, văn hóa, xã hội lúc bấy giờ.
Ngôn ngữ ảnh  hưởng cổ điển: Những bài văn chính luận thời kì này vẫn sử dụng rất nhiều những từ ngữ, thành ngữ Hán Việt, những điển tích, điển cố, ngôn ngữ văn chương giàu nhạc tính. Trong những câu văn mang sắc thái dân dã vẫn còn nhiều từ, nhiều ý  mang đậm chất đài các, sang trọng của ngôn ngữ cổ điển : “ Còn sau đây tôi cũng cam thất lễ với Lê Sum là bạn cố giao của tôi vì trong lời tôi tỏ với Nguyễn Kim đây có một hai câu phạm đến quí danh, xin cố nhân miễn chấp” (Thơ của Nguyến Chánh Sắt gởi cho Nguyễn Kim Đính) hay “Sao lại hiếp chi những đám liễu bồ mà không cho bình đẳng với mình mỗi khi có khách đến nhà, ông chồng thì ngồi giữa đại đường, ăn uống vui vầy..còn bà vợ thì dẹp, bỏ lại nhà sau...sao dám gọi là tào khanh, là nghĩa cả” (Nông thương thiệt luận).
Một đặc điểm về nghệ thuật khá rõ nét của văn chính luận ở Nam Bộ thời kì này là dùng nhiều khẩu ngữ, phương ngữ. Việc dùng nhiều khẩu ngữ, phương ngữ đã tạo ra nét quê mùa trên bề mặt văn bản nhưng mặt khác nó cũng biểu hiện  lòng tự tin của người Nam Bộ trong việc sử dụng ngôn ngữ của mình để viết cho chính đồng bào của mình hiểu. Những phương ngữ: đặng, giá mắc, tiền lời, đa, lắm đa, hường, ráng, thiệt... được sử dụng rất nhiều trong các trang văn. Đồng thời còn có những khẩu ngữ, những câu văn nói như lời ăn, tiếng nói hằng ngày đi vào tác phẩm một cách rất tự nhiên, bình dị: vặn họng, thẩy, cổ, ngó, bèn, ló mắt,mừng hụt, được ư, làm thinh...;Đó, đồng bào thấy chưa? Chắc ý hay chưa” (Ba cái vấn đề rất quan trọng), “Ló mắt ra hùa hải” (Thiệt nghiệp yếu luận), “Lo lấy, phòng lấy” (Nguyễn Chánh Sắt)...
Giọng điệu: trong bầu không khí sôi nổi của phong trào Minh Tân, văn chính luận thường có giọng kêu gọi, hô hào, tuyên truyền, đối thoại, tranh luận. Giọng kêu gọi: “Kìa những kẻ có lương tâm, có đành để như vậy chăng” (Nông thương thiệt luận), “Các tiệm nào chưa có lạp lò làm bánh, hãy đến đó đếm về  mà bán cho đồng bào, còn tiệm nào làm được thì cứ lo làm tới đi, đừng dụ dự” (Lúc này mà An nam chẳng lo buôn bán còn đợi lúc nào), “Đồng bào ôi! Hiện nay dân trí  nước ta vẫn còn lờ mờ...đồng bào ta mấy nhà có tư bổn nên nới miệng túi ra mà lập thêm học đường cho mỗ xóm”( Giáo dục xác luận). Giọng tuyên truyền “Xin các ông phải xem xét cho rõ mà coi, có phải là trong đời này người ngọa quấc đương lo tranh đoạt lợi quyền , sao người An nam mình chẳng biết cái mối lợi mà tranh với người ta, xin anh em phải ráng mà làm” ( Thương cuộc luận ). Hay giọng đối thoại trong “Huỳnh kim vấn đáp”, giọng tranh luận: “Nếu nay ta muốn học thì ai dạy cho mà học? Mấy trang thức giả để vậy hay sao?( Nông thương thiệt luận). Giọng mỉa mai, châm biếm cũng là một đặc điểm khá nổi bật của nhiều bài thương luận, tiêu biểu như “Thất kim thưởng thạch”, “Cha ghẻ, con ghẻ”....

Bên cạnh đó, cũng cần phải nói đến một nét nghệ thuật nữa trong văn chính luận thời kỳ này đó là dùng nhiều từ cảm thán, câu cảm thán, chấm câu theo mạch nói, mạch diễn thuyết: “Than ôi!”, “Ôi”, “Hỡi ôi”, “Đồng bào ôi!”, “Hỡi ai ôi”...“ Than ôi! Cái tói tệ như vậy mà những trang thức giả bao đành ngơ mắt lấp tai” (Nông thương thiệt luận)
Đồng thời do bối cảnh lịch sử, văn chương chính luận không dùng hình thức chính luận chân phương mà phải dùng hình tượng, dùng cách ẩn dụ câu chuyện gia đình để nói chuyện quốc gia, dân tộc. Ví dụ “Cha ghẻ con ghẻ” qua hình tượng Lê Thái Vận để nói thực dân Pháp. Lê Thái Vận dùng thủ đoạn để cướp tiền lẫn tình làm tan nát gia đình Thị Được. Phải chăng đó là hình ảnh ẩn dụ cho ban thực dân Pháp với chiêu bài khai hóa để xâm lược nước ta. Sức mạnh phê phán từ đó càng trở nên mãnh liệt.
5. Đóng góp của văn chương văn chính luận vào sự vận động, phát triển của văn học yêu nước Việt Nam
  Cuối thế kỷ XX, các phong trào yêu nước chống thực dân giành độc tự do ở nước ta bị thất bại lớn. Bên cạnh đó sự phát triển vượt bậc của các nước tiên tiến trong khu vực Đông Á, cũng là một gợi ý cho người Việt Nam nhận thức về chính mình. Trong hoàn cảnh ấy, tư tưởng yêu nước Việt Nam bắt đầu cuộc vận động phát triển, tìm kiếm một nền tảng tư tưởng mới có khả năng dẫn dắt thắng lợi cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Cuộc vận động này trải khắp ba miền, trong đó có văn chương chính luận chống thực dân xuất hiện từ đầu thế kỷ XX kéo dài tới 1945 ở Nam kỳ có thể xem như một mảng văn học tiêu biểu mà quá trình phát triển, tồn tại vận động phát triển của nó mà một thể hiện sinh động trong những bước đi lịch sử của tư tưởng yêu nước Việt Nam tại miền Nam trong những thử thách cam go của thời đại mới.
* Nâng cao và cập nhật tất cả các vấn đề có liên quan đến tư tưởng yêu nước vốn có của dân tộc về phương diện nội dung và phương thức thể hiện.
Trước tiên phải nói đến vấn đề cảm thức cội nguồn. Tư tưởng yêu nước ta hình thành rất sớm từ thời kì dựng nước, ý thức qua những câu truyện thần thoại, truyền thuyết… Lòng tự hào về truyền thống vua sáng tôi hiền, anh hùng và nhân nghĩa trong các giai đoạn về sau. Văn chương chính luận trong 52 số đầu của Lục Tỉnh Tân Văn nhìn thẳng vào nỗi đau tan tác nồi giống trước ách ngoại bang, về sự siêu lạc của cảm thức cội nguồn. Và văn chương chính luận trên báo chí quốc ngữ Nam kỳ càng mạnh mẽ thể hiện nhận thức ấy khi ba miền Nam –Trung- Bắc lần lượt rơi vào dòng thuộc địa của Pháp.
Đọc tác phẩm thời kì này, dễ dàng bắt gặp những từ ngữ: Đồng bào tương hệ; Con nhà nước Nam; Hồng Bàng Lạc Long; đồng bang; đồng chủng; con nhà An Nam…. Khổng kể một số tác phẩm văn vần kêu gọi thống thiết như Khóc tố đồng bào; Tân diễn ca gợi nhớ của thơ ca yêu nước của Đông kinh nghĩa thục, của Phan Bội Châu, văn xuôi chính luận ở Nam bộ còn dành nhiều bài văn chính luận có dạng giải thích, phân tích hay dùng nghệ thuật hình tượng liên kết Việt Nam trong nhiều thế hệ. Các bài như Giang hồ phùng cố chủ (Tân Nhơn, LTTV số 22, 1908), Tứ thể tranh trưởng (Tri Cơ, LTTV, số 9, 1908).  
Cảm hứng cội nguồn còn thể hiện trong nhiều bài khác như Sanh tử tương lân (kí tên Les instituteurs (Giáo viên ở Gò Công, LTTV, số 21, 1909), Đồng chưởng bất khả tương tàn (Trần Thiên Dương, LTTV, số 16, 1908). “Vậy thời chỗ nào gọi là đồng bào? Nghĩ cho phải, chắc là đồng bào thời phải thương nhau, phải hoà nhã với nhau, đừng ghét nhau, đừng phá phách nhau. Tuy vẫn trăm họ, nhưng mà chung cùng một Việt Nam, trời đất non sông sinh trưởng ra đây, đồng loại, đồng bang, đồng văn, đồng tục, dầu mà chia ra phương Nam Bắc, bực tôn ti, thời bực lòng..” – Đặng Thúc Liêng trong Đồng Bào Giải Nghĩa (LTTV, số 24, 26, 28). Đây là đặc điểm bao trùm nhất của tư  tưởng yêu nước hiện đại thể hiện trong văn chương chính luận yêu nước ở Nam kỳ nửa đầu thế kỷ XX.
* Tuy nhiên, trong hoàn cảnh cụ thể của thời đại mới, ý thức về vận mệnh vận tộc không ngừng được phát triển khi nó được đặt trong sự gắn bó với vận mệnh thế giới, đặt biệt trong mối quan hệ với châu lục và khu vực.
Từ đó, văn chương chính luận đã phá thể cô lập, đóng cửa nền chính trị phong kiến để mở ra một quan sát, nhận thức về tình hình thế giới và khu vực từ đó rút ra những bài học bổ ích cho cuộc minh tân của nội bộ nước nhà. Trong các bài viết hô hào cải cách, duy tân đã xuất hiện nhiều khái niệm “Năm châu bốn bể”; “Cuộc doanh hoàn”; “Liệt quốc liệt cường”. Các nhà Minh Tân thấy rõ ý nghĩa tích cực của sự cầu học chứ không cầu viện, đó là giải pháp học hỏi nước ngoài để nâng cao dân trí.
Nhiều suy nghĩ sâu sắc về mối quan hệ giao lưu đặt biệt giữa Việt Nam với khu vực được thể hiện trong một số bài văn chính luận. Tiêu biểu là Huỳnh kin vấn đáp (Nguyễn Tư Thức, số 7, 1907), cho thấy cho sự cảm nhận nhạy bén về ý nghĩa chính trị sâu sắc của “bài học da vàng” phức tạp. Giao lưu với tinh thần tự lực và tinh thần sáng suốt, hào nhập chứ không hoà tan. Văn chương chính luận trên báo chí ở miền Nam đã thể hiện nhận thức đó trên con đường đi cùng dân tộc đến độc lập tự do.
* Mặc khác, trong văn chương chính luận ở Nam kỳ đầu thế kỷ XX còn cho thấy sự bổ sung và đổi mới không ngừng các nội dung cụ thể của tư tưởng yêu nước Việt Nam trước yêu cầu của tình hình mới. Từ đó xuất hiện các cách hiểu mới về các khái niệm “đất nước”; “nhân dân”, về lòng yêu nước yên dân.
Với khái niệm đất nước, văn chương chính luận trong các thập kỷ tiếp theo cho thấy một cách hiểu mới hiện đại và tích cực. Với Trần Hữu Độ trong Tờ cớ mất quyền tự do, với quan điểm mang tính dân chủ hiện đại về đất nước như “đất nước là công sản cho nhân dân” vì “nước chứa đựng nhiều dân nên mới thành nước”, “lấy cả dân trong một nước mà cai trị cả việc trong một nước, chế định cả pháp luật trong cả một nước, lo ngăn ngừa sự hoạ loan trong một đất nước”.
Từ quan niệm này ta thấy khác hẳn với quan niệm trước kia, “lấy cả nước làm riêng cho một nhà, một gia tộc”, “Lấy nước làm nhà của mình, nên có cái quyền thế vô hạn, coi cả dân trong nước như tôi mọi, muốn chém chừng nào thì chém, muốn tha chừng nào thì tha” từng tồn tại chế độ phong kiến. Để thấy rằng Trần Hữu Độ có cái lí khi ông không tán thành quan niệm của Phan Bội Châu về việc xây dựng một nển quân chủ lí tưởng kết hợp với tư tưởng của thời đại mới.
Đối với quan niện người dân được thay bằng quốc dân đặt trong mối tương quan sinh giữa dân với nước, vì “quốc dân là nhân dân có trách nhiệm với đất nước, nghĩa là làm chủ đất nước” Nếu cuộc cạnh tranh với Pháp trước kia là “Cần vương” thì bây giờ cuộc cạnh tranh là vì dân, do chính nhân dân làm chủ và có trách nhiệm với đất nước. Dân và nước là hai yêu tố cùng song song và hiện diện trong dòng lịch sử, là hai khái niệm phải được kết hợp chặt chẽ sâu sắc, cùng nương tựa nhau để tồn tại và phát triển. Ví như trong bài Nghĩa vụ một người dân nước Nam ngày nay (Đông Pháp thời báo, 1925), xác định “nước là biểu hiện của dân, nước mạnh hay yếu, thịnh hay suy là do ở dân”
Từ đó, hình tượng của người Việt Nam mới cũng là một cảm hứng lớn của văn chương chính luận. Trong thời kì đầu văn chương thương luận thường nhấn mạnh mẫu người làm ăn kinh tế. Thập kỷ sau, Trần Hữu Độ kêu gọi người Việt Nam hay tiến tới những thái độ tích cực hơn nữa. Ông kêu gọi tinh thần tấn thủ mạo hiểm, hy vọng, rèn luyện trí tuệ, để tạo nên một mẫu người Việt Nam mới có khả năng đáp ứng với những nhu cầu thời đại mới, để có thể chiến đấu và chiến thắng. Cá nhân và dân tộc không tách rời nhau trong tư tưởng về con người của Trần Hữu Độ. Đối với Trần Huy Liệu chú trọng nhiều đến quần chúng nhân dân, đến nguồn sức mạnh đến từ dân, cái tính “gốc” của dân.
* Với khái niệm yêu nước, văn chương chính luận Nam kỳ không ngừng bổ sung thêm những nội dung mới cụ thể, thiết thực và mang tính chất thời đại cao.
Trong quá trình tiếp nhận thế giới bên ngoài, kể cả cộng đồng dân tộc không đồng văn người Việt Nam đã nhận thức ra được nguyên cái nghèo nàng về kinh tế, lạc hậu về văn hoá, nô lệ chính trị của đất nước mình. Văn chương chính luận ở Nam kỳ là nơi thể hiện nhận thức này một cách sâu sắc khi nó gắn bó chặt chẽ với tư tưởng Duy Tân lan tràn khắp ba miền trong thập kỷ đầu của thập kỷ XX. Từ đó văn chương chính luận Nam kỳ không ngần ngại cổ vũ những cách biểu hiện lòng yêu nước tiên tiến như:
Thứ nhất
Yêu nước là xoá bỏ quan niệm lạc hậu phát sinh từ nền kinh tế trong nông khinh thương, xây dựng nền kinh tế hiện đại, chú trọng phát triển thương nghiệp, giành lại quyền làm chủ ngay trên đất nước mình, tiến tới mục tiêu xoá bỏ tình trạng “nhơn bần trí đoản”. Trong các bài thương luận thời kì này, đại cuộc không đơn thuần là đấu tranh vũ trang, mà thương cuộc, thương chiến cũng là một cuộc đấu tranh thật sự. Các tác giả viết thương luận trên đã có cách hiểu rất mới về hình ảnh con người lí tưởng dựa trên sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại. Không chỉ hô hào kêu gọi mà những người lãnh đạo phong trào Minh Tân cũng đã làm gương, xông xáo đi đầu...
Thứ hai
Bên cạnh đó yêu nước còn tìm cách xáo bỏ tình trạng nhân tâm siêu lạc, đạo lí gia đình, xã hội bị rạn nứt đang là một vấn đề văn hoá thời nô lệ thực dân. Các nhà Minh tân dấy một phong trào kêu gọi chấn chỉnh đối với nền tảng sinh hoạt văn hoá tinh thần của xã hội Việt Nam với những nội dung cụ thể, chính điều này tạo nên một tiền đề quan trọng hướng đến những mục tiêu sâu sắc khác. Ví như yêu nước là xoá bỏ các khía cạnh lạc hậu, tiêu cực của nền văn hoá phong kiến như nạn sùng cổ, biến nho học thành giáo điều…Các khẩu hiệu thường xuyên xuất hiện trên báo như: Xả cựu tùng tân, Dục minh tân, Yển cụ đổ tân…con đường canh tân là phải có học vấn. Nét tiến bộ và hiện đại nhất trong nội dung cải cách văn hoá thời Minh Tân là tư tưởng khuyến học, xuất phát từ nhận thức cứu nước một cách triệt để.
Thứ ba
Cuối cùng và cũng cốt lõi nhất, yêu nước chính là đấu tranh giành độc lập tự do thực sự, xây dựng đất nước theo xu hướng thế giới hiện đại. Văn chương chính luận ở Nam kỳ ba thập niên đầu về cơ bản không tán thành các chủ trương tái lập nền quân chủ cho dù dưới hình thức nào.
Có thể khẳng định văn chương chính luận Nam kỳ có một vai trò rất lớn đóng góp vào sự vận động và phát triển của văn học yêu nước Việt Nam đtư sầu thế kỷ XX. Đó là tư tưởng yêu nước hình thành từ nhiều nguồn ảnh hưởng như tư tưởng tư sản dân tộc, tư tưởng Ánh Sáng Pháp ở mặt đề cao tri thức, chống tín điều tư tưởng. Tiếp theo đó, do những cấp thiết của thời cuộc có cả sự xuất hiện của tư tưởng đấu tranh sinh tồn, hoặc chủ nghĩa tinh hoa… điều đó cho thấy phần nhiều cái diện mạo quốc tế tất yếu không thể tránh khỏi của tư tưởng yêu nước ở miền Nam trong ba thập kỷ đầu của thế kỷ, khi cuộc đấu tranh giành độc lập tự do và canh tân đất nước sau nhiều bước phát triển, thoái trào, thời gian thời gian thăng trầm đang đòi hỏi phải tìm kiếm một cơ sở tư tưởng thích hợp và vững chắc để đóng vai trò ý thức hệ tư tưởng nền tảng.
Tư tưởng yêu nước hiện đại chúng ta dễ dàng nhận thấy trong văn chương chính luận Nam bộ. Đó là những băn khoăn, trăn trở trong quá trình tìm kiếm và lựa chọn một con đường thích hợp nhất để giải phóng dân tộc. Chính điều này làm cho các nhà văn chính luận sau đó điều dễ dàng đến với chủ nghĩa Mác Lênin, sát cánh với các với các tổ chức đấu tranh do Đảng cộng sản Đông Dương lãnh đạo, và những Tân thư có nội dung yêu nước chống thực dân dễ dàng chuyển hướng, hoà nhập vào dòng văn học cách mạng trong các giai đoạn về sau. Từ cuộc tìm kìm đó, tư tưởng yêu nước trong văn chương chính luận Nam kỳ có khả năng dễ dàng tiếp cận với quan niệm cách mạng về nhân dân, khi Trần Hữu Độ trở thành nhà văn chính luận chịu ảnh hưởng học thuật duy vật sớm nhất ở việt Nam trong các tác phẩm về sau (Biện chứng pháp 1936,  Mười công thức của Karl Mars làm cơ sở duy vật sử quan 1936, Đế quốc chủ nghĩa 1937) Trần Huy Liệu sau thời kì làm báo ở miền Nam, sau 1935 đã trở thành hoạt động cách mạng của đảng Cộng sản.
Văn học quốc ngữ Nam kỳ nói chung văn chính luận nói riêng cách tân Nho giáo, xây dựng một thế giới quan, nhân sinh mới, hướng tới nâng cao dân trí, nhằm một nội dung lớn hướng tới xây dựng cái nhìn mới cho người Việt Nam, dựa trên tư tưởng khai sáng ở phương Tây thế kỷ XVIII. Văn chương chính luận Nam kỳ bằng hình thức công khai đã đảm đương một trọng trách hết sức nặng nề trên nhiều phương diện khác nhau, đáp ứng đáng kể đối với sự vận động và phát triển của văn học yêu nước Việt Nam, cổ vũ tinh thần yêu nước tiến bộ, xây dựng xã hội mới.
“Do tính chất yêu cầu nên bài viết này chỉ thấu tóm một số vấn đề chính, nhằm làm rõ thêm Vai trò của Văn chương Nam kì. Một phần bài viết con sai lỗi vài chính tả, nhưng những trích dẫn đã đúng với Văn bản. Giai đoạn các nhà văn viết như vậy….”






















Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

BÀI MỚI ĐẮNG

Truyện ngắn: BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN _ NGUYỄN HẢI ĐĂNG

Bên cánh gà chánh điện phần 1 BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN Xe dừng lại với tiếng xột xoạt trên mặt đường, như bao chuyến xe đã ghé qua từ thuở ...