thư từ bài vở xin gửi về : hothanhngancm@gmail.com HỒ THANH NGÂN Hội viên hội văn học nghệ thuật Cà Mau Hội viên hội văn học nghệ thuật Phú Yên Hiện sống và viết tại Cà Mau Tác phẩm đã xuất bản : Sông Đốc Ngày Nắng Muộn - Nxb Thanh Niên (2016) Phương Nam Lộng gió - Nxb Hội Nhà Văn (2018) Trường Ca Nhớ Phú Yên - Nxb Hội Nhà Văn (2019 ) Chiều Ở Phía Ngược Gió - Nxb Hội Nhà Văn (2020)
Thứ Năm, 29 tháng 5, 2025
THẦY TƯ CHỦ NHIỆM -NGUYỄN HẢI ĐĂNG
Hôm nay là buổi học cuối cùng của năm, chúng em ngồi lại bên nhau, cùng chơi, cùng chia tay một hành trình đã qua, không còn bài kiểm tra, không còn áp lực, chỉ có tiếng cười. Những lời nói đẹp ai cũng có thể nói, nhưng tấm lòng với thầy, chúng em không biết bày tỏ sao cho trọn. Bài thơ này em viết để tri ân thầy Tư, người mà đầu năm chúng em từng e dè vì tưởng sẽ nghiêm lắm, khó lắm. Nhưng rồi qua từng ngày, thầy mang đến cho lớp mình sự ấm áp, gần gũi và đầy yêu thương. Một năm học qua thật vui, thật ý nghĩa. Mong thầy sẽ tiếp tục đồng hành cùng lớp mình trong năm tới. Nhé Thầy Tư!
THẦY TƯ CHỦ NHIỆM
( Kính Tặng Thầy Ngô Bé Tư )
Thầy vừa đến, lòng em khẽ khựng
Ánh mắt nghiêm như gió đầu đông
Cứ ngỡ thầy lạnh lùng, khó dụng
Nào hay sau đó lại thầy không
Vài tuần học, nụ cười thầy hé
Hiền như sương đậu lá mai non
Giọng ấm áp, lời thầy khe khẽ
Giảng từng câu, chẳng chút hao mòn
Bước chân thầy thoăn thoắt như gió
Cặp bên hông, dáng tựa tướng quân
Chỉ quát lớp khác cho vui nhỏ
Lớp mình hiền, thầy giữ ân cần
Mỗi ánh nhìn như tia sáng nhẹ
Dõi theo em từng bước học hành
Bài toán khó, thầy luôn chia sẻ
Thêm vài mẹo, lời dạy chân thành
Không lý thuyết cao siêu sáo rỗng
Thầy giản đơn như gió bên hiên
Chuyện đời thật, thầy mang vào mộng
Khiến lòng em hiểu được chân nguyên
Phấn bay trắng như làn mưa bụi
Bảng in sâu từng nét tảo tần
Một bài giảng một lần ghi nhớ
Theo suốt đời những bước xa gần
Có khi thấy thầy buồn lặng lẽ
Nhìn xa xăm giữa lớp đông vui
Em tự hỏi: thầy mang điều nhẹ
Hay giữ buồn cho lớp mỉm cười?
Bắp Bé Bốn , tên ai trìu mến
Là tên thầy lớp đặt thân thương
Một người lính âm thầm ẩn hiện
Giữa sân trường dạy cả yêu thương.
( Nguyễn Hải Đăng )
Sđ 18/4/2025
DO ĐÂU CÀ PHÊ HAY TÌNH - NGUYỄN HẢI ĐĂNG
DO ĐÂU CÀ PHÊ HAY TÌNH
Chiều cà phê,
Tối lại gặp tình.
Đâu là thứ khiến lòng mình xót đau?
Không ăn cơm,
Chắc do cà phê mà não ruột.
Tình không thành,
Hay tại tiếc mà đau thương.
Đừng ai hỏi,
Vì sao đau thế?
Chẳng thể nào lý giải được đâu.
Do trái tim
Hay do bao tử cồn cào.
Trót thương hết dạ mà người quay lưng
Tìm hạnh phúc mới an bề gia thất
Bỏ lại ta cô độc giữa thị thành.
Hay là đã biết mọi sự thật,
Bấy lâu nay thắc mắc trong lòng?
Cũng có thể do mình chưa lót dạ,
Uống cà phê nên mới thấy đau...
Do cà phê hay do tình ngang trái?
Do thứ gì mặc định nó cũng đau.
Đành chấp nhận và tập dần buông bỏ,
Bỏ tình đau nhưng không bỏ cà phê!
Chủ Nhật, 25 tháng 5, 2025
TÔ THÙY YÊN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ THEN CHỐT SÁNG TẠO - NGUYỄN HỮU HỒNG MINH
TÔ THÙY YÊN VÀ NHỮNG
VẤN ĐỀ THEN CHỐT SÁNG TẠO
Tô Thùy Yên, một thi sĩ lớn của miền Nam Việt Nam mới qua đời ngày 22/5(*) . Ông vừa nằm xuống thì đã thấy ngay một số việc quan trọng: hầu hết các thông tin về ông đều ở một phía người Sài gòn và hải ngoại. Các dòng chủ lưu viết về ông trên facebook, các trang mạng xã hội cũng đều là người miền Nam và các bạn viết miền Nam là chính. Điều đó cho thấy vết hằn văn nghệ Nam - Bắc vẫn là hai cực trái dấu chưa bao giờ được xóa mờ thậm chí ngày càng sâu trầm, dữ dội. Cũng đã có ý kiến lẻ tẻ rằng Tô Thùy Yên là nhà thơ lớn của Việt Nam chứ không chỉ miền Nam. Tuy nhiên, đó cũng ghi nhận rộng mở thiện chí qua mỗi trái tim yêu thi ca nghệ thuật chứ chưa phải góc nhìn chính thống theo thông tin khách quan trong nước. Riêng cái nhìn cá nhân của người viết thì, ông là biểu tượng thơ độc đáo, đầy kiêu hãnh của Sài gòn cũ. Một nền cộng hòa nhân bản đã sụp đổ. Là một chứng nhân thơ. Tên tuổi, cuộc đời đã trải qua nhiều đế chế, chứng kiến sự thăng trầm nguyệt quế của vinh quang, cay đắng, của tù tội, địa ngục…và qua những bài thơ còn lại khiến ông bất tử trong tâm hồn những người yêu nghệ thuật và tự do. Nói về văn hóa Sài gòn và thơ miền Nam khó có thể quên ông. Như vậy liệu còn cần nhân danh sớm để tung hô ông là nhà thơ lớn Việt Nam không? Tôi nghĩ không cần thiết. Và thi sĩ cũng không cần điều đó. Trước hết, việc bình đẳng trong văn học, văn hóa Việt Nam đến nay vẫn chưa xảy ra. Các thi phẩm của ông và nhiều thi sĩ chưa được chính thức in lại một cách công bằng. Nếu thi ca, âm nhạc không hàn gắn nỗi những vết thương, nỗi đau thì hóa ra tâm thế người Việt hôm nay còn lâu mới nói đến chuyện hòa giải hòa hợp được!
***
Tuy vậy, đọc Tô Thùy Yên hoàn toàn không dễ. Ông là một con người mâu thuẫn. Nói như thi sĩ William Butler Yeats: “Tôi đang tìm bộ mặt tôi hằng có. Trước khi thế gian được tạo ra (I’m looking for the face I had / Before the world was made - NHHM dịch). Tô Thùy Yên có 4 gương mặt. Một thi sĩ phóng đãng, một chiến binh thất bại, một tù nhân luyện ngục và một thiền sư suy mặc. Là một trong những tác giả chủ trương nhóm Sáng Tạo cùng với các nhà văn, thi sĩ Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, Ngọc Dũng, từng có thơ in báo từ năm 17 tuổi và sáng lập nhà xuất bản Kẻ Sĩ nhưng tuyệt đối ông lại chưa bao giờ in cho mình một tập thơ. Nếu nói ở Sài gòn trước 1975 việc tự do viết, tự do xuất bản ồn ạt dễ dàng như vậy nhưng Tô Thùy Yên lại không có tập thơ nào thì thật khó tin. Lý giải việc này trong lần gặp nhau tại Đức, thi sĩ kể với tôi ông chưa khi nào thấy hài lòng về thơ của mình. Mãi đến khi ở trong tù ra, đã qua đến Mỹ ông mới tự in một “Thơ Tô Thùy Yên”, mang danh nhà xuất bản An Tiêm. Sau đó là thi phẩm “Thắp tạ” (2005) ông ký tặng tôi. Với thi ca ông luôn sống với những hoài nghi.
Nhiều giai thoại về tài năng thơ kỳ lạ của Tô Thùy Yên cũng như cuộc sống phóng đãng của ông. Thơ ông được bạn đọc hâm mộ đến mức ông có thể tán và ngủ với bất cứ cô gái nào ông muốn. Đây là tiết lộ của một nhà văn nữ khá thân với ông kể lại cho tôi. Bài thơ nổi tiếng “Chiều trên phá Tam Giang” của ông có câu “Anh chợt nhớ em”. Khi tôi hỏi em nào thì nhà văn này cho tôi biết với tình yêu Tô Thùy Yên nhân vật em này là tất cả mọi em đã từng qua tay mình chứ không có em nào rõ ràng cả! Viết như thế thật hồ đồ và bốc mẽ hết son phấn bay bướm. Nhưng có làm sao? Kỹ hơn nữa, theo nhiều người kể lại tối hôm ấy thi sĩ ngủ với một cô gái tên Gi, một nhân viên tòa soạn báo, người yêu và mê ông như điếu đổ. Cứ quấn lấy nhau như thế khi ông bừng tỉnh thức dậy giật mình nhìn đồng hồ đã gần đến giờ máy bay cất cánh. Vậy là quên cả tạm biệt người tình, vội vàng xốc đồ chạy thẳng lên xe ra phi cảng. Để cái nhớ nồng nàn, vội vã, hừng hực sức trẻ đó vào thơ gây những từ trường xúc cảm chấn động, Qua âm nhạc của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh càng hiện lên rất rõ: “Chiều trên phá Tam Giang / Anh chợt nhớ em / Nhớ ơi niềm nhớ, ôi niềm nhớ / Đến bất tận / Em ơi! Em ơi! Em ơi!”…
Người đàn bà quyến rũ như một mặt hồ mà chúng ta cứ muốn chìm đắm mãi vào đó. Không có họ không có những vần thơ nồng nàn, tê dại, say đắm như thế. Chỉ có một đời sống thực sự tự do người nghệ sĩ mới mặc khải sáng tạo được. Theo tôi viết về Sài gòn một thời Hòn ngọc viễn đông trước 1975 ca khúc “Chiều trên phá Tam Giang” thuộc vào hàng hay nhất. “Giờ này Thương xá sắp đóng cửa / Người lao công quét dọn hành lang / Giờ này thành phố chợt bùng lên / Để tắt nghỉ sớm / Ôi Sài gòn giờ giớ nghiêm / Ôi Sài gòn vắng im / Sài gòn không buổi tối’. Âm nhạc đã giúp cho thơ Tô Thùy Yên có nhiều độc giả hơn.
***
Tô Thùy Yên là một nhà thơ phản kháng theo nghĩa đẹp nhất của trí thức, văn nghệ. Phản kháng vì luôn đặt ra những câu hỏi, truy xét, vầu vò ngôn ngữ. Ông luôn đặt mình ở tư thế phản diện để phản biện. Thành ra ông cũng là người mâu thuẫn. Theo dõi hành trình thơ của ông đôi khi tôi ngạc nhiên tự hỏi tại sao người ta nói nhiều về ông nhưng rất ít người hiểu đúng ông. Là người khai phóng và khai sáng nhóm Sáng tạo nhưng thơ ông về thể thức rất Tân cổ điển, hoàn toàn không chủ trương ý thức làm mới hẳn như Thanh Tâm Tuyền. Vì vậy suốt một thời gian dài hình như nhóm Sáng Tạo cũng dè dặt khi đặt ông vào. Mãi đến về sau này với độ lùi khoảng 50 năm thì người ta lại thấy bóng ông vượt lên "Ta về một bóng trên đường lớn" trong khi rõ ràng Thanh Tâm Tuyền mờ hẳn đi. Điều này cho thấy sự nghiệt ngã của thơ. Sau những trào lưu, đột phá vẫn chính là lòng người yên nghĩ. Độc giả có thể quay cuồng với một câu thơ bão bùng trong một giai đoạn, nhưng theo thời gian để lắng lại chỉ có thể là những câu thơ dễ thuộc, vần vè, bình yên.
Thanh Tâm Tuyền từng cổ súy rất văn hoa nói rằng Tô Thùy Yên là nhà thơ miền Nam nhưng ngôn ngữ thơ của ông hoàn toàn miền Bắc chứ không phải miền Nam. Khen như thế đồng nghĩa với việc đã ngầm nói ông đã phản bội lại tử ngữ của mình. Với lại, nếu so sánh bằng cấp độ ngôn ngữ tôi đòi hỏi một mức độ cao hơn nữa, ví như sao chưa thấy ai phê phán Phạm Công Thiện là Bắc kỳ với những triết luận, đả phái của ông khi Thiện là dân Mỹ Tho Nam kỳ rặt? Thành thử nhận định này thoạt đầu nghe có vẻ êm ái nhưng sau đó rất khó chịu. Đó là sự miễn cưỡng khi nói về cái mới ấu trĩ!
***
Giá trị của thơ Tô Thùy Yên nằm ở chất nhân văn, cái nhìn xoáy vào thân phận con người. Điều mà hình như ông đã thấu tình đạt lý khi ở trong tù cộng sản ra. Không rõ hành trình đạt tới cảnh giới ý niệm này có được trên tiến trình làm thơ của ông hay khi sự bắt bớ giam cầm quá lâu - 13 năm (tổng cộng cả hai lần) của thi sĩ đã khiến ông mệt mỏi? Có thể đây là chung cục của sự suy tư rốt ráo hoặc tư thế buộc phải chọn lựa chứ không còn cách nào khác! Để tồn tại hoặc chết? Nhưng rõ ràng tuy không nói ra thuyết trung dung này đã thuyết phục được tâm lý khác nhiều người. "Ta về cúi mái đầu sương điểm / Nghe nặng từ tâm lượng đất trời / Cám ơn hoa đã vì ta nở / Thế giới vui từ mỗi lẻ loi". Những suy tư đầy yếm thế của "chiến binh thua trận" kiểu này tôi thấy khá ít ỏi, hay gần như chưa thấy rõ dung mạo trong tác phẩm của các nhà văn, thi sĩ miền Nam ở Sài gòn cũ hiện vẫn còn sống ở Hải ngoại. Vì hơn ai hết, ngoài phẩm chất một thi sĩ, Tô Thùy Yên đại diện như một tướng quân đội. Ông là thiếu tá Tâm lý chiến của quân đội miền Nam cộng hòa. Ông phải giải mã, trả lời câu hỏi hậu thế đó cho lịch sử. Đành rằng "chính trị là một con điếm" và tư thế của một nhà thơ và một sĩ quan cấp tá vẫn khó liên quan, rằng buộc với nhau.
Một lý giải khác khá quan trọng với thơ Tô Thùy Yên đó là thi sĩ theo trường phái khắc kỷ nghệ thuật. Hay lý giải theo quan điểm Albert Camus “Sáng tạo là cho số phận ta một hình thù”. Như thế cũng đồng nghĩa từ trong nguyên ủy, ông phản lại, chống lại thơ tự do. Một lần nói chuyện với nhà văn Nguyễn Thị Thuỵ Vũ bà cho biết ông làm thơ như cực hình không có gì là sung sướng cả! Ông nghiêng hẳn về tứ và ngôn ngữ! Đè nén cảm xúc trong các hình tượng mẫu tự nghiêm nhặt. Vì thế ông chọn thể thức thơ cổ phong, tứ tuyệt hoặc 5 chữ, 7 chữ. Ông đọc và tìm hiểu điển tích rất nhiều. Bà Thuỵ Vũ cho biết ông thường "vắt nát óc" cùng kiệt cho một bài thơ. Ông chép đi chép lại một bài thơ và thường vò xé bản thảo viết lại từ đầu nếu thấy câu chữ dó chưa thật đắt, chưa thật ưng ý. "Vì thế mỗi đêm ông làm thơ thì sáng dậy tôi thường phai đem một sọt rác đi đổ vì trong đó đầy ngập những trang viết chưa ưng ý của ông".
Về hình thức ông theo quan điểm của Adgar Allan Poe cho rằng độ dài của bài thơ không nên quá ngắn vì “một bài thơ cực ngắn có thể lúc này hay lúc khác sẽ gây được tiếng vang nhưng sẽ không bao giờ tạo ra được ảnh hưởng sâu sắc và lâu dài” (Nguyên lý thơ ca - The Poetic Principle - NHHM dịch). Vì thế những bài thơ nổi tiếng của ông như "Trường Sa hành", "Ta về", "Chiều trên phá Tam giang"… đều có một độ dài cần thiết về hình thức đáng nể. Gây được ấn tượng cho người đọc. Tuy vậy, dưới mắt những người làm thơ đôi khi vẫn thấy ông cũng khá tham lam bày tỏ “thi bất tận ngôn” dẫn đến thừa thãi và quên “ý tại ngôn ngoại”. Ngay cả ông trong bài thơ “Ta về” khá dài ông vẫn còn tiếc rẻ “Ta tiếc đời ta sao hữu hạn / Đành không trải hết được lòng ta”.
***
Một điều rất đáng tiếc, một giọng thơ ngoại hạng như Tô Thùy Yên vẫn chưa được các dịch giả quan tâm đúng mức dịch để chuyển ngữ, dịch giới thiệu ra với thế giới. Từ trường phạm vi phổ biến thơ ông cũng chỉ ở trong nước, đặc biệt là người Sài gòn. Năm 2005, lần đầu tiên trung tâm LiteraturWERKstatt và Viện Goethe có tổ chức một chuyên đề thơ "105 kinh độ đông" ở Đức đã mời nhà thơ Tô Thuỳ Yên (từ Hoa kỳ) và tôi (Việt Nam). Phần thơ của ông và tôi được các nhà nghiên cứu Sollozz, tiến sĩ Thái Kim Lan và dịch giả Hồ Phạm Huy Đôn chuyển ngữ. Dịp này ông và tôi có hai buổi giao lưu với khán giả yêu thơ ở Berlin và Munich. Bài thơ “Cánh đồng con ngựa, chuyến tàu” của Tô Thùy Yên được xem như bài thơ tiểu biểu của ông giai đoạn khởi đầu cùng nhóm Sáng tạo. Bài này có được ông chọn lại trong dịp một số thi phẩm của ông được chuyển ngữ. Chuyến đi khá ấn tượng vì chúng tôi có dịp được gần nhau. Tôi lại phát hiện thêm một mâu thuẫn kỳ lạ trọng tâm hồn thi sĩ Tô Thuỳ Yên. Ông nói bằng tiếng Anh và phản đối đến cùng chế độ toàn trị độc tài Cộng sản khi giao lưu với khán giả. Một chế độ cầm tù và làm nhục văn nghệ sĩ. Hoàn toàn khác với những bài thơ ngỡ đã đạt đến cảnh giới giác ngộ của ông, “Ta về khai giải bùa thiêng yểm / Thức dậy đi nào gỗ đá ơi / Hãy kể lại mười năm mộng dữ / Một lần kể lại để rồi thôi…”.
Ông nói với tôi “Thi sĩ, không ai có thể làm nhục được hắn ngoài chính nó”. Và đọc cho tôi câu thơ của W.Emest Henley: “I am the master of my fate, I am the captain of my soul”.
Vâng, ông đã đúng. Cái chết của ông cũng là một cột mốc gần như cuối cùng bị phá đổ bởi thủy triều thời gian nghiệt ngã dành cho một nền dân chủ Cộng hòa sớm tàn lụi. Như ngọn lửa danh dự mà ông đã giữ được đến phút cuối cùng. Ông làm chủ số phận mình, chữ nghĩa. Ông đã là và sẽ mãi là thuyền trưởng của hồn thơ, một con tàu thơ!
Nhớ đến Tô Thùy Yên, phút chốc mắt tôi nhòa lệ khi nhớ lại những ngày hai anh em lang thang giữa biên giới Đức và Pháp. Anh nói thân phận lưu vong làm anh luôn quay cuồng nhớ Việt Nam. Và nhớ đứa con tật nguyền còn mắc lại ở rừng núi Lộc Ninh không rõ sống chết thế nào? Tại sân bay Munich, không kiềm nổi lòng mình, anh ngửa mặt lên trời khóc lớn. Rồi buồn thảm kéo va-ly đi giữa tuyết trắng Berlin.
Rồi sẽ còn những câu thơ anh Tô Thùy Yên ạ! Như anh đã đọc câu thơ của Saint - Pol Roux mà em thấy hay quá nhờ anh chép lại vào sổ tay, anh nhớ không? “Cây thơ ca cắm rễ của nó vào tương lai!”.
(Sài gòn, 25.5.2019)
NGUYỄN HỮU HỒNG MINH
----------------
(*) Ông mất ngày 22/5/2019. Bài trong bản thảo "Những gương mặt thời đai - Tình yêu Cái chết & Quên lãng)
Thứ Bảy, 24 tháng 5, 2025
NHẤT GÁI LA HAI NHÌ TRAI ĐỒNG NGHỆ - MẠNH MINH TÂM
...TRAI ĐỒNG NGHỆ
Mạnh Minh Tâm
Từ lâu, câu thành ngữ : “Nhất gái La hai, nhì trai Đồng Nghệ” như đã ăn sâu vào tâm tưởng với những ai là con dân ở đất Đồng Xuân. Nhưng khi tìm hiểu và nhận diện đâu là nhất gái…cái gì, vì sao là nhì trai…Tui có trên 15 năm làm công tác văn hóa ở vùng đất này nhưng vẫn cứ lúng túng, thật khó khi tìm hiểu và lý giải vấn đề một cách cặn kẽ.
Nhất gái La Hai…
Vùng đất La Hai từ xa xưa đã là là trung tâm của huyện lỵ Đồng Xuân. Nơi một thời được mệnh danh là “thủ phủ” trên chặng đường thiên lý vào Nam, ra Bắc ở Phú Yên. Có lẽ vậy, La Hai được nhiều người biết đến và yêu mến vùng đất này, tất nhiên trong đó có “gái đẹp”. Gái đẹp thì ở đâu cũng có, nhưng cái đẹp của “nhất gái La Hai” thì có nhiều cách lý giải và chứng minh. Theo các cụ cao niên, nay tuổi đã trên dưới chín mươi. Định hình cái đẹp của gái La Hai, thông thường và dễ thấy, đó là những cô gái có sắc diện da trắng, tóc dài, má đỏ hây hây, mắt tròn đen láy…, Cái đẹp mà hễ bất cứ chàng trai nào vừa gặp lần đầu, hoặc chỉ thoảng qua đã thấy xao xuyến, quyến luyến, tim loạn nhịp, mắt thẩn thờ, chân không muốn rời xa…
Cái đẹp mê mẫn, hút hồn đó không phải thi thoảng mới thấy, lâu lâu mới gặp mà giống như: “ra ngõ là gặp gái đẹp”. Ai có lần đến và thử dạo bộ một vòng: Từ xóm Ga qua Long Bình, lội lên bầu Long Thăng, băng qua sông Bến Đá, ngược tới thôn Long Hà, rẽ về chợ Đồng Dài… sẽ gặp, đâu đâu cũng thấy gái đẹp. Cho nên, nhắc đến La Hai, điều đầu tiên người ta nhớ tới là vùng đất có nhiều gái đẹp. Theo cụ Kiệm ở Long Châu, TT La Hai, nay chín lăm tuổi. Ông nói như xác nhận, thời trẻ mình từng sống nhiều nơi, qua nhiều vùng miền nhưng chưa thấy nơi nào mà nhiều phụ nữ có nhan sắc mặn mòi, ưa nhìn, thấy là mê mẩn ngắm… như quê mình. Và theo cụ nhất gái La Hai là cách gọi ước lệ, tượng trưng, không chỉ bó hẹp ở đây mà nó còn lan sang các xã lân cận như Xuân Phước, Xuân Quang, Xuân Sơn… của huyện Đồng Xuân.
Cái nhất kế tiếp của gái La Hai là cái nết tìm ẩn, có lẽ chỉ có những chàng trai tinh tường, tiếp cận được với họ mới thấy. Một lần, khi tui tìm những người già để sưu tầm thơ ca dân gian huyện Đồng Xuân, gặp cụ bà Mạnh Thị Phận ở TT La Hai, bà kể chuyện: Tui thời trẻ, cũng được xếp vào hàng nhất gái La Hai, giờ đã trên 80 tuổi rồi, ngồi nghiệm lại, cái nhất của gái xứ này, đẹp đã đành nhưng cái ẩn chứa của phụ nữ ở đây, khi đã thương lấy ai là hết lòng, yêu mãnh liệt, chan chứa và mặn nồng. Đặc biệt, gái La Hai không chỉ có đẹp mà còn rất mê ca hát. Thời Việt Minh, ông Bầu Năm từ đất Bình Định lặn lội vào đây lập nên Đoàn tuồng Bậu Năm, đào kép thanh sắc vẹn toàn đều là người La Hai; nghệ sỹ Nhân dân Đàm Liên, nghe đâu là cháu ông ấy, nhưng sinh ở đất này và được đào luyện thành tài cũng từ gánh tuồng của ông.
Như đã nói, gái La Hai khi đã thương yêu ai, họ sẵn sang “theo trai” khó mà rứt ra; đố ai mà cấm cản được. Để chứng minh cho điều mình nói, bà Phận đọc mấy câu dân gian:
Tiếng đồn con gái La Hai
Mười sáu, mười bảy thấy trai chàng ràng
Đêm về, gánh hát Lạc Bang
Đến La Hai hát, nhiều màn rất hay
Làm cho các cổ (cô) mê say
Vấn vương, tơ tưởng đêm ngày lao lư
Cô Ngào, cô Diệu, cô Dư
Mê anh kép hát, thẩn thừ nhớ mong…
Bài thơ thể lục bát còn dài và kể lể chuyện một trong 3 cô bỏ trốn lên tàu lửa theo anh kép hát, rồi bị cha mẹ cho người đón nẻo bắt lại và bị cha mẹ la mắng, hàng xóm chê cười cho rằng là con bất hiếu và gái điếm đàng…
Không biết có phải vì vậy mà cụ Nguyễn Đình Tư, tác giả cuốn: Non nước Phú Yên – Xuất bản năm 1964; trong mục Nhân vật đã có đoạn viết “… Nhưng ở đâu cũng có kẻ tốt người xấu, kẻ hay người dở. Bên cạnh những cô gái thùy mỵ, nết na ấy, cũng có những nơi các cô gái lãng mạn, lẳng lơ khiến người ta phải than rằng:
Nhất gái La Hai
Nhì trai Đồng Nghệ (1)
Không biết, trước thập niên 1964, ông Nguyễn Đình Tư với nghề Địa chánh, ông đã có thời gian tìm hiểu kỹ về gái La Hai chưa? Theo tui, mấy dòng nhận xét, đánh giá trên để hiểu và nhận diện về “Nhất gái La Hai” hình như là thiếu sát thực, gây khó hiểu. Nếu nói về gái La Hai chỉ có vậy, thì không thể để gọi là "nhất".
Gái La Hai còn một điểm nữa để hội tụ cái “nhất” đó là sự tinh nghịch, sẵn sàng đốp chát, không dễ bị phỉnh phờ. Nói nôm na theo cách của dân mình, khi cần họ cũng “hung dữ” và “tinh quái” lắm, chứ không phải loại vừa, dễ bắt nạt. Người già kể rằng, tiếng đồn xứ La Hai gái đẹp nức tiếng lan rộng xuống Sông cầu, vô Tuy Hòa và nhất là ra tới Bình Định, Quy Nhơn. Thời trước 1945, hai tỉnh giao thương thuận lợi và cùng là dân “xứ nẫu” , thân tình tới mức châm chọc nhau mà không sợ giận: “Phú Yên ăn cá bỏ đầu/ Bình Định lượm mót xỏ xâu đem dìa” nên trai ngoài ấy thường vào Phú Yên làm ăn và kiếm vợ. Trong số những chàng trai Bình Định vào La Hai, có một số anh, tính tình “xà bát”, hay “cà chớn”, thấy gái đẹp cứ muốn tán tỉnh, chơi qua đường rồi “quất ngựa truy phong” chứ không thật lòng. Chuyện rằng, biết được ý đồ của những chàng trai không tốt, các cô gái La Hai đã lập mưu, giả vờ hẹn hò và đưa chàng vào đám mía để nói chuyện, tâm sự. Khi lừa được chàng trai vào sâu trong vùng mía bạt ngàn, không ngờ trong mía có nhiều cô đã núp sẵn, xúm vô xô ngã và lột quần áo, bắt trói để anh chàng cả đêm nằm giữa ruộng mía…Khi có người biết, cởi trói giải thoát, lần mò ra khỏi đám mía, chàng trai ấy tởn hồn và gây tiếng đồn gái La Hai dữ dằng, nên có câu: “Có ngon bắt cọp trong hang/ Chớ có làm tàng chọc gái La Hai”. Cũng từ đó, không chỉ trai ở phương xa mà cả trai làng phải dè chừng, sợ dính bẩy tình của các cô nhất gái La Hai.
Nhì trai Đồng Cọ…hay Đồng Nghệ
Đồng Cọ là một vũng trũng ở xã Hòa Thịnh, huyện Tây Hòa, một thời đường xá đi lại lầy lội quanh năm. Để diễn tả nỗi khổ của người dân vùng này vào mùa lũ lụt, người ta đã gọi đây là xứ sở: “Quần đùi trăm hai, quần dài tám chục”. Vì lẽ đó mà trai Đồng Cọ rất cứng cỏi, mạnh khỏe và cả chịu đựng gian khó…nên có thể sánh với gái La Hai chăng?...
Song khi xét chi tiết, nếu chỉ có thế thì không đủ thuyết phục. Ngẫu hứng người ta cũng có thể gán gái La Hai với trai Kỳ Lộ hoặc trai Xuân Thọ… thì sao? Trai vùng núi, vùng biển họ cũng rắn rỏi, mạnh mẽ và chịu nhiều gian khó không thua kém gì trai Đồng Cọ. Hơn nữa đây là vùng lân cận, trai gái có sự giao thoa nên dễ so sánh, đối chiếu. Còn Đồng Cọ vào thập niên 30, dám chắc dân La Hai có mấy người biết. Và gái đẹp không ai dại gì để ý tới những chàng trai ở vùng đất xa xôi, hẻo lánh mà đường xá đi lại chỉ bằng ngựa thồ và lội bộ. Vế “Nhất gái La Hai”, chắc chắn phải là người ở đây hay nói rộng ra phải là người của huyện Đồng Xuân tùy xướng nên họ phải tìm đối tượng tương xứng để đối ứng thì mới phải lẽ.
Vậy nên, câu nhất gái La Hai/ nhì trai Đồng Nghệ được Ông Nguyễn Đình Tư xác định, cẩn thận ghi chép trong “Non nước Phú Yên” là chính xác và đáng tin cậy nhất. (trang 133, Nhì trai Đồng Nghệ (1). Chú thích: Thuộc xã Xuân Sơn, quận Đồng Xuân).
Thật may mắn, khi tìm về thôn Tân Long, xã Xuân Sơn Nam tui đã gặp được ông Lâm Ngọc Anh, sinh năm 1920, nay trên 100 tuổi. Ông đang ở trên vùng đất một thời người ta quen gọi là Đồng Nghệ. Tui có cảm giác cụ là người bẩm thọ và một trong những cụ cao niên nhất của đất Đồng Xuân. Hiện tại, sức khỏe tuy thường hay đau yếu nhưng đầu óc còn minh mẫn. Ông nói, không biết vì sao mình sống tới tận bây giờ. Hồi còn trẻ ông sống ở chùa, học Tam tự kinh nên thông thạo chữ Nho, biết coi tướng số, địa cuộc nhà ở…nên được dân làng tôn vào hàng “hay chữ”. Hiện giờ, ông sống với người con trai là giáo viên đã nghỉ hưu. Ông có thói quen không uống rượu bia; chỉ nghiện thuốc lá, cách nay vài năm, ngày đêm hút tới 2 gói, nay giảm lại còn 1 gói; không dùng nước trà, chỉ uống nước lã từ giếng, múc đổ vào chum sành có nắp đậy. 4 mùa chỉ tắm nước mát ở giếng, không đun pha nước tắm khi thời tiết đông lạnh.
Khi nghe tui nhắc trai Đồng Nghệ ông ôn tồn giảng giải: Đồng nghệ là khu đất trù mật từ Tân Long đến đầu Bầu vườn, ven mép sông cái Kỳ Lộ đổ về Ngân Sơn. Đất soi gần sông, hàng năm lũ lụt được phù sa bồi đắp nên đất xốp, tươi tốt hạp với việc trồng nghệ. Dân trồng nghệ thành vùng chuyên canh, trước năm 30 đến 1954 người ta gọi đây là xóm Đồng Nghệ chứ không gọi Tân Long như bây giờ. Ông nói, câu Nhất gái La Hai, nhì trai Đồng Nghệ đã nghe, biết từ lúc mình mới 12, 13 tuổi. Nhất gái La Hai, ai cũng hiểu đây là vùng có nhiều gái đẹp, còn nhất gì nữa thì ông không tường tận. Nhưng nhì trai Đồng Nghệ thì ông biết rất rõ.
Hồi xưa, Đồng Nghệ gần sông có một bến đậu, nơi giao thương rộn rịp, sầm uất có tiếng ở vùng này để thuyền bè dưới xuôi đưa hàng buôn bán lên bờ, rồi chuyên chở bằng đường bộ, rải về các vùng miền núi, tới tận Tây nguyên. Dân tình nhờ buôn bán, nhiều người tích tụ ruộng đất mà trở thành địa chủ, phú nông. Trong làng, nhà Chánh tổng họ Đỗ, (không biết tên, vì cụ Chánh mất lúc ông còn nhỏ) sinh ra được người con trai, đặt tên Đỗ Thừng. Nhà có của ăn, của để nên khi Đỗ thừng lớn lên, cụ chánh đã cho đi học võ ở Tây Sơn – Bình Định. Năm Đỗ Thừng tuổi chừng mười chín, đôi mươi đã nức tiếng khắp vùng vì võ nghệ cao cường. Đỗ Thừng chỉ cần một cú phi thân là có thể bay nhảy từ nóc nhà này sang nhà khác; khi ông chạy chỉ có ngựa bạch kim phi nước đại mới mong đuổi kịp... Và nếu dừng ở đó, Đỗ Thừng có thể là người hùng của xứ này rồi. Rất tiếc, Đỗ Thừng ỷ lại mình là con nhà giàu có, quan quyền nên sa vào ăn chơi trác táng. Đêm thường tổ chức đi ăn cướp, ngày gái gú, cờ bạc. Thành nếp, Đỗ Thừng lần lượt thu phục, tụ tập trai tráng Đồng Nghệ tập luyện võ nghệ và đám thanh niên ấy trở thành “tay chân, bộ hạ” biết bao vụ cướp bóc của những nhà giàu về ăn chơi và bố thí cho dân nghèo. Ông có tiếng là cướp của người giàu về cho người nghèo. Đỗ Thừng đã manh động, không có lối dừng, nhũng nhiễu nhiều năm; không chỉ ở đất Đồng Xuân mà còn lan qua các Tổng trấn: Tuy An, Sông Cầu, Tuy Hòa… Đầu những năm 1930, băng cướp Đỗ Thừng đã quành hoành, thao túng thành phần địa chủ, phú nông nghe tiếng trai Đồng Nghệ là “ớn lạnh”, sởn tóc gáy. Ông Đỗ Thừng còn được tiếng thơm là một tướng cướp: " Cướp của người giàu, san sẻ cho kẻ nghèo". Tiếng đồn, trai “Đồng Nghệ” thời ấy lẫy lừng, tai tiếng như một "băng đảng" bất trị, nghe qua ai cũng kinh hãi. Do vậy, trai Đồng Nghệ khi đi làm thuê, làm mướn đâu xa, không nhà nào dám cho trú ngụ nên thường ngủ bờ ở bụi, vì không ai dám chấp chứa.
Trước tình hình nhiễu loạn đó, chính quyền thời Pháp ở Đồng Xuân đã phát lệnh truy bắt tướng cướp Đỗ Thừng. Bị chính quyền ráo riết truy đuổi, buộc Đỗ Thừng phải lên núi ẩn dật. Đỗ Thừng lên núi, vào Bầu Năng, Xuân Sơn Nam nơi tiếp giáp với xã Sơn Long, Sơn Định, Tuy An ngày nay làm một nhà bằng đá ẩn mình trong đó, nhưng vẫn là thủ lĩnh của trai làng Đồng Nghệ với những vụ cướp đêm khét tiếng. Chỉ tới khi Đỗ Thừng lâm bệnh phong tình, (giang mai) ông mới lần mò xuống núi, thường lén lút về nhà chữa bệnh. Chính quyền đã mai phục và bắn chết khi ông nằm trên trổ máng nhà lá mái của cha mẹ mình ở Đồng Nghệ, Tân Long ngày nay.
Kể đến đây, cụ Lâm Ngọc Anh thở dài. Ông nói, “Nhì trai Đồng Nghệ” là thế đó, đừng nghĩ nó là tốt lành gì nhưng dù sao cũng vang dội một thời. Ông còn nhớ, phát súng kết liễu ông Đỗ Thừng, khi ấy ông chừng12 ,13 tuổi. Vì gần nhà, nên ông đã chứng kiến kết cục bi thảm về người hùng không “sổ sách”. Và ông dẫn tui tới phần mộ, nơi chôn chặt huyền thoại lừng danh của tướng cướp Đỗ Thừng, người một thời đã gây nên thanh thế “Nhì trai Đồng nghệ./.
La Hai 4.2017
Thứ Ba, 20 tháng 5, 2025
MẢ ÔNG ĂN MÀY - PHAN XUÂN LUẬT
Vui quá, lại có truyện ngắn đăng trên Văn Nghệ Quân Đội, số cuối tháng 5 hôm nay hôi hổi. Mả ông ăn mày, những ai từng đi qua đường 538, nay là Quốc lộ 7B, nhất là người Diễn Châu, Yên Thành thì không thể không biết, nhưng là truyện ngắn ạ! Cảm ơn nhà văn Đinh Phương đã biên tập, nhà văn, sư huynh đồng môn Xuân Ba và bạn cùng lớp ĐH- PGS Nguyễn Thị Yên dịch nghĩa đôi câu đối trong truyện ngắn.
Mả ông ăn mày
Truyện ngắn của Phan Xuân Luật
Chiếc xe 7 chỗ ngồi dừng lại bên bên lề đường cao tốc. Người đàn ông trạc ngũ tuần cùng vợ và mấy người bước xuống xe. Bây giờ đã giữa tháng Chạp, xế chiều, nắng hanh và lạnh. Người đàn ông nhìn một lượt như tìm chi rồi mở cửa xe lấy hộp giấy nhỏ. Ông cùng mọi người men theo từng bậc từ đường cao tốc xuống con đường Quốc lộ 7B, dừng lại trước một cồn đất sát lề đường ngay dưới chân cầu vượt. Cẩn thận mở hộp giấy, ông lấy ra một cái đĩa với chục con cua đồng rang muối đỏ rựng và một cút rượu nút lá chuối. Rồi ông trịnh trọng đặt đĩa cua, cút rượu trước mộ, thắp hương và cùng mọi người khấn vái: “Cháu lạy Cụ! Cụ sống khôn chết thiêng, mong Cụ tiếp tục phù hộ cho con cháu, cho khách qua đường!”. Ông đứng lặng hồi lâu rồi cúi xuống nhặt một hòn đất bên vệ đường nâng niu đặt vào nấm mộ. Mọi người cùng làm theo. Vâng, đó là nấm mộ, người dân vùng Đông Yên nhị huyện gọi là Mả ông ăn mày hay Mộ ông cố. Ngôi mộ đã hơn 1,2 thế kỷ, nằm bên vệ đường, trước cả khi người Pháp nâng cấp, mở rộng tuyến đường từ Ngã ba Chơ Sy- Cầu Bùng chạy xuyên qua huyện Diễn Châu và Yên Thành, nối Quốc lộ 1A với Quốc lộ 7 sau này.
* *
*
Người đàn ông tên Phúc, là chủ một doanh nghiệp lớn, quê Hà Tĩnh. Theo lời căn dặn từ ông nội đến cha ông, cứ cữ này giáp Tết, gia đình ông phải có người ra đây thắp hương cho Cụ. Gia phả dòng họ Phan Hà Tĩnh còn ghi: Cụ tên là Phan Tích, nổi tiếng hay chữ cả một vùng nhưng lận đận thi cử, mãi đến 40 tuổi mới đậu cử nhân. Dòng họ lâu lắm mới có người đỗ đạt, cả làng, cả họ vui lắm. Gia cảnh thường thường bậc trung, nhưng cả làng cả họ bàn nhau: Làng mình, họ mình dễ cả trăm năm rồi mới có người hiển vinh, không thể xuề xoà được, nên phải ăn mừng cho nở mày nở mặt. Nhưng ngặt nỗi làng nghèo, họ nghèo, đóng góp chẳng được bao nhiêu, vì thế cụ Cử nghĩ lắm. Cụ nghĩ, đằng nào rồi cũng làm quan, nếp nhà thanh sạch, không trông mong gì lộc quan, nhưng lương quan cũng cũng dư sức trả nợ. Và thế là cụ bảo cụ bà đi vay. Vay của cụ Chánh tổng giàu có nhất nhì vùng này để mổ bò khao họ, khao làng.
Đích thân cụ bà cùng người nhà đi mua bò. Chợ Nhe, cái chợ mua bán trâu bò lớn nhất vùng cũng không xa là mấy, đi độ non nửa buổi là đến. Người ta mua bán trâu bò để cày kéo, còn mua bò để làm thịt như nhà cụ là rất hiếm. Chợ chật những trâu bò, cụ bà hoa cả mắt. Đi sâu vào cuối chợ, ánh mắt cụ bà bất chợt dừng lại ở một con bò tơ độ chừng mới hơn 2 tuổi. Con bò thật đẹp, lông mượt, mông nở, mắt ướt nước. Cụ bà thấy thế thì bật cười: “Ngữ này là gái làng thì đa đoan lắm, lắm chàng lắm, lại mắn đẻ nữa”. Nghĩ thế, cụ bà tiến lại gần con bò. Ánh mắt cụ bắt gặp mắt nó, tự dưng nó cúi xuống, quay mặt đi. Cụ bà thích con bò cái tơ, cụ vuốt ve nó. Song mỗi khi cụ chạm vào nó, nó lại rùng mình, rúm người lại. Nó muốn nói điều gì mà không thể.
Rồi thì cuộc mặc cả cũng thành công, sau cái đập tay giữa người bán và người mua, cụ trả tiền. Nhưng khi người nhà dắt con bò đi, đột nhiên nó lồng lên như muốn chạy trốn. Giằng co mãi, cuối cùng cụ bà phải bỏ mấy tiền thuê thêm người áp tải, đến xế chiều mới dắt được nó về. Cụ ông nghe nói đã mua được bò về thì mừng lắm. Ngắm nghía một lát, cụ tỏ vẻ hài lòng. Cụ vỗ vỗ trên lưng rồi xoa xoa lông nó. Con bò lại rùng mình, chân dậm dậm. Chợt từ hai mắt nó rơm rớm hai giọt nước; nó ngước lên nhìn cụ rồi rống lên một hồi thật thảm thiết. Hình như nó van xin cụ điều gì đó. Cụ đang vui, cụ không để ý.
Tối hôm đó, mãi tiếp người làng người họ sang ăn trầu, uống nước chúc mừng, cắt đặt việc chuẩn bị mâm cỗ cho ngày mai, đến gần giữa canh ba, cụ ông mới chợp mắt. Vừa thiu thiu, cụ chợt thấy một người đàn bà còn rất trẻ, bụng chửa vượt mặt đứng cạnh giường. Người đàn bà nước mắt ròng ròng, quỳ xuống phía dưới chân cụ nức nở: “Con lạy cụ, con xin cụ thương mẹ con con với. Con đang có mang, chỉ dăm bữa nữa là đẻ. Xin cụ cho con đẻ xong rồi hãy giết thịt. Giết thịt rồi thì còn con con đấy, cụ nuôi mà lấy vốn”. Cụ ông choàng tỉnh dậy. Đã mời hết rồi, quan viên đã nhận lời hết rồi, thầy dạy cũng cho người đón rồi, sao mà hoãn được! Với lại là mơ, chỉ là giấc mơ thôi mà, lâu nay cụ vẫn thường mơ, có những giấc mơ thật hãi hùng, mà có làm sao đâu! Rồi cụ chặc lưỡi nằm tiếp. Giấc ngủ trằn trọc, đứt đoạn, lởn vởn hình bóng người đàn bà và con bò cái. Đến giữa canh năm, đang thiu thiu, cụ bỗng giật mình bởi một tiếng rống đau đớn, bàng hoàng, thảm thiết. Cụ bật dậy với chân tìm guốc, đi ra góc vườn. Dưới ánh đuốc và ánh trăng thượng tuần bàng bạc, con bò nằm duỗi cả bốn chân, mắt mở trừng trừng, hờn oán. Bất chợt cụ rùng mình, đang tiết trời tháng 6 mà người gai lạnh. Cụ không dám nhìn nữa. Đến mờ sáng, người nhà vào hớn hở: “Mừng lắm cụ ạ, con bò tơ thịt ngon mà dội. Thêm hẳn một con bê trong bụng. Bê cái cụ nhé!”. Tai cụ như ù đi. Ngày hôm đó, bữa tiệc ăn mừng cụ đỗ cử nhân thật tưng bừng mà lòng cụ sao lạnh lẽo. Cụ chỉ uống, hầu như không ăn. Uống nhiều, tối đó cụ say. Trong giấc mơ cụ thấy người đàn bà, lần này ẵm theo đứa con gái, đừng bên giường, trân trân nhìn cụ. Cụ vã mồ hôi lạnh, ngồi dậy, không ngủ được nữa.
Khoa thi Hương năm đó, trường Nghệ lấy đỗ 22 cử nhân, cụ xếp thứ 12. Cả năm đèn sách chuẩn bị cho kỳ thi Hội, nhiều đêm về khuya, trong cơn buồn ngủ, cụ vẫn thấy người đàn bà bồng con chập chờn sau ngọn đèn leo lét. Năm sau, vào kinh đô Huế thi Hội, hầu như tối nào cụ cũng không ngủ, cứ chập chờn hình bóng người đàn bà ẵm đứa con nhỏ. Hôm vào trường thi, lấy đề xong, bỗng nhiên bụng đau quằn quại, cụ không tài nào làm bài được. Nhìn mấy người cùng trường thi Hương lấy được phó bảng, tiến sỹ, cụ buồn lắm. Thôi thì phước nhà mình chưa đến được đại khoa, cử nhân cũng đã là vẻ vang lắm rồi, nghĩ thế, cụ về và chờ.
Nhưng rồi cụ cứ chờ, chờ mãi mà chẳng thấy được gọi làm quan, trong khi các ông cử đều đã được bổ làm giám thụ kia, tri huyện nọ hết cả, cụ sốt ruột. Một hôm, cụ nhận được thư của một án sát. Ông này đỗ cử nhân cùng khoa thi với cụ, đỗ thứ 20, tức là thua cụ tới 8 bậc. Cụ trịnh trọng để thư lên hương án, thắp hương vái 3 vái, lại để xuống đất dậm chân 3 cái, rồi mới mở ra đọc. Có người hỏi tại sao cụ làm thế, cụ bảo là thư quan về, mình phải trân trọng thắp hương mà đón nhận, nhưng người này thi cử thứ bậc thua ta, nên ta chưa hẳn phục tài. Cái mộng làm quan trong cụ vẫn chưa nguôi. Sau này cụ cứ ray rứt mãi về điều phù du ấy.
Chờ mãi mấy năm mà chẳng được gọi ra làm quan, ruộng vườn bán hết để trả nợ, nhà cụ vốn chẳng phải là khá giả, bỗng lâm vào cảnh túng quẫn. Tối đó, cụ đang chập chờn giấc ngủ lại thấy mẹ con người đàn bà hiện lên. Người đàn bà nhìn thẳng vào mắt cụ mà nói rằng: “Ân đền oán trả, ông không chỉ lấy mạng tôi mà còn cướp mạng của con tôi. Ông phải trả nợ. Ông phải làm ăn mày, đến khi nào xin đủ tiền mua một con bò cái, đẻ được con bò con thì khi đó tôi mới tính tiếp”. Cụ tỉnh dậy bàng hoàng. Cụ nghĩ nhiều lắm. Rồi cụ ngồi dậy, mài mực, viết một bức thư để lại cho bà. Và tối hôm ấy, mới còn canh 3, cả làng đang trong giấc ngủ, cụ men theo lối cổng sau của làng, đi biệt tăm từ đó.
*
* *
“Yên Thành là mẹ là cha/ Đói cơm rách áo thì ra Yên Thành”, cụ nhớ đã từng nghe ai đọc câu ca dao ấy, vậy là trong đêm tối, cụ cứ phía Bắc mà đi, đi mãi.
Một người nghèo nhất làng Xuân Đồng ở phủ Diễn, trong khi đi bắt cua đã phát hiện ra cụ nằm bên vệ đường. Cụ nằm bất tỉnh vì đói và lạnh. Người đàn ông đem cụ về, đặt cụ vào ổ rơm, cạnh bếp lửa. Tỉnh dậy, cụ cảm ơn và hỏi đường lên Yên Thành. Ban đầu cụ nói dối là không vợ con, không nơi nương tựa, phải làm nghề ăn xin. Người đàn ông thấy cụ quần áo lành lặn, dáng người thư sinh, mặt mũi sáng sủa thì không khỏi ngờ ngợ, song vẫn bảo: “Từ đây lên Yên Thành chẳng còn bao xa. Đồng làng tôi đây cùng chung một cánh đồng từ Yên Thành xuống, nhà tôi tuy nghèo, chỉ hai vợ chồng và đứa con nhỏ, nhưng cũng xin mời ông ở lại cùng rau cháo qua ngày”. Cụ trầm ngâm bảo: “Tôi thật không muốn làm phiền bác tí nào, nhưng giờ cũng không biết đi đâu. Thôi thì được ông thương, tôi xin ở lại, nhưng xin thông cảm cho tôi một điều, là tôi vẫn làm nghề đi xin, nghiệp của tôi rồi, tôi không thể làm nghề nào khác”. Rồi cụ kể thật nông nỗi của mình cho ân nhân.
Từ đó người ta thấy vùng Đông Yên nhị huyện có một người ăn mày, một người ăn mày đặc biệt, độ ngoài 40 tuổi, dáng thư sinh, mũi cao, mắt sáng. Một người ăn mày bị gậy như bao ăn mày khác nhưng không hề cất tiếng ăn xin. Cụ cứ đi hết làng này làng khác, hiền lành đến chó cũng chẳng sủa. Ai cho gì nhận nấy, chân thành cảm ơn. Có người cho kèm theo lời ban ơn, có người không cho mà còn buông lời chê bai, mạt sát, cụ chỉ dạ dạ mà và không lấy làm buồn phiền. Gần thì sáng đi, tối về. Xa lên tận tổng Vân Tụ trên Yên Thành, có khi dăm ngày mới về, ngủ đình, ngủ chùa, ngủ miếu. Cụ nhớ nhất là lần ăn xin tại xã Tràng Thành, tổng Quan Hoá, Yên Thành. Hôm đó đã xế chiều, đang đứng trước ngôi nhà 3 gian gỗ lim còn mới, thì thấy một cụ bà trông rất phúc hậu đi ra. Bà ân cần mời cụ vào, xúc hẳn một đấu gạo gọi là biếu cụ. Đang trò chuyện với cụ bà thì cụ chợt nghe tiếng quen quen : “Hình như bác là…”. Cụ ngẩng đầu lên, giật mình lắp bắp: “Cụ Tú! Tôi không ngờ đây là nhà cụ!”. Thì ra họ là bạn nhau qua mấy kỳ thi hương. Cụ Tú hay chữ nổi tiếng cả một vùng nhưng thi cử lận đận, hết tú kép đến tú mền, sau cụ không theo đường thi cử để làm quan nữa mà chuyên tâm dạy học. Cụ dạy miễn phí cho tất cả con em người nghèo, lại hay xem ngày, xem đất, bốc thuốc chữa bệnh cho bà con trong vùng nên được mọi người kính nể. Học trò cụ rất đông, nhiều người đỗ đạt làm quan, thấy thầy nghèo bèn góp tiền góp công làm cho thầy ngôi nhà này để có chỗ dạy học.
Cụ Tú tha thiết mời cụ Cử ở lại chơi mấy hôm. Trong khi đàm đạo, cụ Cử bảo cụ Tú: “Tôi xem tướng của hai cụ thấy phúc trạch dồi dào lắm! Thật là vận với đôi câu đối của trò mừng thầy treo trên kia: Đường thượng hoa diên đào hiến quả/ Môn tiền thư đái thảo sinh hương (Trong nhà đào hoa đà kết quả/ Trước sân văn vẻ toả hương cây), còn tôi thì…”. Rồi cụ Cử kể lại sự tình vì sao mình lại phải đi ăn xin. Nghe xong, cụ Tú ngậm ngùi nói: “Nhà tôi tuy chẳng khá giả cũng có thể giúp cụ được một phần, hay là…”. Nghe đến đó, cụ Cử vội xua tay: “Cảm ơn cụ nhiều, nhiều lắm, nhưng cái nghiệp của tôi là vậy, tôi phải đi hết cái nghiệp để trả nợ, rồi may ra thì…Tôi chỉ có một nguyện vọng, mong cụ giúp cho thì tôi mới mãn nguyện. Là nhà tôi đang tá túc, vợ chồng nhà ấy lam lũ, nghèo khó nhưng rất chân thành, tốt bụng. Vợ chồng ấy có một thằng con trai học hành sáng dạ, tôi vẫn bảo ban hàng ngày. Cho nên, nhỡ tôi có mệnh hệ gì, xin cụ làm phúc, thay tôi dạy bảo cháu cho rạng đường khoa cử”. Cụ Tú gật đầu, nói mấy câu cho cụ Cử yên tâm rồi bùi ngùi đưa tiễn.
*
* *
Ngôi nhà ông Hạnh - ân nhân của cụ Cử là gia đình của một người ngụ cư từ đời cha. Ông Hạnh không biết gốc gác quê hương của mình, không biết vì sao cha mình lại trôi dạt đến đây. Ông sinh ra ở đây, trong ngôi nhà tre tềnh toàng trên miếng đất thừa thẹo cuối làng xen mấy ngôi mộ vô chủ. Không có vườn có ruộng, từ đời cha đến đời ông Hạnh làm thuê cuốc mướn, mò cua bắt ốc đắp đỗi qua ngày. Bữa ăn một phần cơm, ba phần khoai, đến mùa giáp hạt có khi nhiều ngày liền chỉ có cháo rau má. Cả năm không biết đến miếng thịt, nhưng bù lại cua ốc lại rất sẵn. Cả huyện Yên Thành và một vùng Diễn Châu là đồng chiêm trũng, cua ốc rất nhiều, nhất là cua. Những con cua béo múp, đầy gạch, không chỉ đổi gạo, đổi khoai, mà còn là nguồn thức ăn của một gia đình nghèo 3 người và thêm ông ăn mày. Cụ Cử góp gạo góp khoai xin được vào bữa cơm đạm bạc của gia đình. Cụ thích nhất là món cua rang chỏng ở vùng này. Con cua bắt về, tách yếm, khều gạch, bỏ vào nồi đất rang với muối, thêm chút mật mía đỏ rựng, vậy mà cụ ăn thấy ngon, còn ngon hơn bao bữa tiệc trong đời cụ từng được dự, cả cái hôm đậu Cử nhân được ban yến. Những đồng tiền lẻ xin được, cụ cất kỹ vào cái túi vải luôn giắt trong người. Gạo xin được, cụ dồn lại, đến lúc được ít cân, cụ bí mật đến chợ xa bán. Số tiền xin được, một phần cụ tích góp, một phần mua sách vở, bút mực dạy chữ cho thằng Quả, con ông Hạnh. Đó là một thiếu niên khoẻ mạnh, lễ phép và rất sáng dạ. Trừ những lần đi ăn xin xa, hằng đêm cụ Cử miệt mài dạy chữ cho nó. Thằng bé tiếp thu nhanh, nhớ lâu, cụ Cử hài lòng lắm. Cụ dặn vợ chồng ông Hạnh và thằng bé tuyệt đối không được tiết lộ việc này.
Đã bao nhiêu năm, cụ không còn nhớ nữa, đôi lần soi vào vại nước mưa, cụ thấy da dẻ mình đã nhăn nheo, râu tóc bạc trắng. Cụ không còn đi ăn xin xa được nữa, cái gậy ngày nào chỉ là vật dụng của người ăn mày thì bây giờ là vật bất ly thân, lững xững cùng cụ làng này xã nọ. Vợ chồng ông Hạnh cũng đã già đi, thằng Quả đã trở thành trụ cột trong nhà. Ngày đi làm thuê, cuốc mướn, đêm về dùi mài kinh sử, nó càng học càng tấn tới, cụ hài lòng lắm, và lại chạnh nhớ thằng con trai ở quê nhà.
Giữa khuya hôm đó cụ lại nằm mơ. Cụ mơ thấy mẹ con người đàn bà đứng trước ổ rơm cụ nằm. Ánh mắt không còn căm giận như thuở nào. Người đàn bà nói: “Lâu nay tôi vẫn thường theo dõi những việc làm của ông. Tôi biết là ông ân hận. Ông đã thành tâm. Bây giờ ông đã xin đủ tiền. Ngày mai, ông cứ theo con đường trước làng này mà đi. Ngược khoảng hơn 30 cây số thì đến một cái chợ trâu bò, ông sẽ gặp một con bò có chửa, ông nhớ mà mua về. Rồi thì ông đối xử với con bò ấy như thế nào là việc của ông”. Cụ định hỏi người đàn bà vài câu nhưng không thấy nữa. Cụ thức dậy, không ngủ được nữa. Cụ ngồi dậy viết một bức thư để lại cho vợ chồng, cha con ông Hạnh. Rồi cũng như cái đêm định mênh thưở nào, mới canh 3, cả làng đang trong giấc ngủ, cụ đi ra khỏi cổng làng rồi theo con đường trước làng mà đi. Lạ thay, không một tiếng chó sủa.
Cụ cứ đi như thế, vừa đi vừa nghỉ vừa hỏi đường, đến gần trưa thì đến chợ. Đó là cái chợ cạnh một ngã ba bằng phẳng, rộng rãi, quang cảnh mua bán còn tấp nập hơn chợ Nhe quê cụ. Cụ vừa qua khỏi cổng chợ thì chợt nghe một tiếng “bò…” rất to và dài. Cụ giật mình dụi mắt mấy cái. Thì nó chính là con bò hơn 20 năm trước cụ bà dắt về chứ ai! Giống không sai một ly, từ màu lông, cái yếm, cái xoáy đến đôi mắt, đẹp, ướt nước, và buồn thăm thẳm. Cụ tiến lại, con bò có vẻ mừng rỡ. Nó dụi dụi mõm vào ngực cụ. Cụ vuốt lưng nó, nó đứng yên, mắt lim dim. Cuộc ngã giả rất nhanh. Cụ trả tiền và dắt con bò về. Nó ngoan ngoãn đi theo cụ. Cụ đã già, vả lại không dám đi nhanh. Cụ tin chắc rằng nó đang có chửa. Cụ sợ đi nhanh nó mệnh hệ gì. Như cái hồi vợ cụ mang thai thằng con trai bây giờ, hai vợ chồng về quê ngoại, cụ đi rất chậm, đi sau cụ bà, đến khe suối, cụ đỡ cụ bà, dắt tay lội qua. Thì lần này cũng vậy. Cụ cứ có cảm giác như đang đang đi cùng người đàn bà đã sắp đến ngày mãn nguyệt khai hoa. Và vì thế, mãi đến nửa đêm, khi cả làng đã chìm vào giấc ngủ, cụ mới về đến làng. Nhưng cụ không vào làng. Cụ cột con bò vào một gốc cây, cạnh cái nơi hơn 20 năm trước, cũng vào tầm này, vì đói và lạnh, cụ đã té xuống, mê man bất tỉnh. Cụ nhìn con bò. Con bò thật đẹp. Lông thật mượt, mắt thật dịu, yếm thật dài, lại có cái xoáy rất tròn trước u. Người ta bảo đó là giống bò tốt nái, ai tậu được con bò có tướng như thế thì làm ăn phát đạt lắm. Rồi cụ nhìn vào làng. Ôi chỉ là quê người mà sao cụ thấy gần gũi thân thiết quá, chẳng khác gì cái làng nghèo nơi cụ cất tiếng chào đời, gắn bó đến quá nửa đời người và vẫn đau đáu suốt hơn 20 năm qua. Cụ nghĩ đến vợ chồng, cha con ông Hạnh. Đời cụ như vậy là vẫn còn có phước, gặp được những con người nghèo của cải mà giàu lòng nhân ái. Không ái khó ba đời, rồi đây thằng Quả, đứa con ông Hạnh mà cụ cũng coi như con đẻ sẽ đổi đời, có khi còn thành ông này ông nọ cũng nên. Cụ nhìn ra bao la ra cánh đồng, ra những làng mạc thấp thoáng xa xa. Cụ cảm ơn cánh đồng, cảm ơn cái vùng đất Đông Yên nhị huyện đã cưu mang, che chở, nuôi sống cụ đến hơn hai thập niên. Cụ nhìn về phương Nam, nơi đó có ngôi làng cụ, có vợ và thằng con trai, nơi không ngày nào mà cụ không đau đáu.
Rồi cụ nghĩ đến cuộc hội ngộ với cụ Tú Tràng Thành và lời hứa của cụ Tú. Bất giác cụ mỉm cười và nằm xuống, từ từ chìm vào giấc ngủ, một giấc ngủ thật sâu, thật thanh thản và không bao giờ dậy nữa.
Lại nói, sáng hôm trước, ngủ dậy, không thấy cụ Cử đâu, chỉ thấy một bức thư để lại trên chõng tre, thằng Quả vội vàng cầm lên đọc. Trong thư cụ cảm ơn vợ chồng ông Hạnh cùng làng Xuân Đồng và vùng đất Đông Yên nhị huyện đã cứu vớt, che chở, nuôi nấng cụ. Cụ bảo đừng tìm cụ, cụ sẽ trở về trong hôm nay. Cụ bảo sáng hôm sau, hãy ra con đường trước làng sẽ thấy cụ nằm ở đó. Đừng ma chay phúng viếng, hãy chôn cụ ngay tại đấy, cúng cho cụ đĩa cua rang chõng và thắp cho cụ nén hương, hướng về phía Nam báo cho gia đình, tổ tiên của cụ là cụ đã mất. Bên cạnh nơi cụ nằm có một con bò. Con bò đang có chửa. Hãy chăm sóc cho tốt, đó là món quà cụ dành tặng gia đình. Nó sẽ giúp gia đình thoát nghèo. Riêng Quả, thầy đã coi con như con đẻ. Rất tiếc là thầy không còn dạy chữ cho con được nữa. Thầy mừng là con chăm ngoan, khiêm tốn, có lòng thương người. Con hãy lên cụ Tú Tràng Thành tiếp tục dùi mài kinh sử, rồi sẽ có ngày kết quả. Thầy cũng nhờ con, ngày này năm sau, hãy vào quê thầy báo cho gia đình thầy biết là thầy đã mất. Nhớ nói dùm thầy dặn là không được đưa xương cốt thầy về quê, hãy để thầy yên nghỉ nơi đây. Hằng năm có ra thắp hương cho thầy thì chỉ cần cút rượu và đĩa cua rang chõng là đủ, không được nhiều hơn. Thầy có thằng con hơn con 3 tuổi, học hành sáng dạ. Con cũng chuyển lời thầy dặn là dù trong hoàn cảnh nào cũng không được bê trễ việc học hành. Cả con và con trai thầy, nếu có đỗ đạt, tuyệt đối không được cỗ bàn linh đình và nhớ là phải rất ít sát sinh. Có làm quan thì phải thương dân, chăm dân. Có thương dân thì dân mới thương. Có tình thương thì có tất cả.
Nghe thằng Quả đọc thư, vợ chồng ông Hạnh không cầm được nước mắt. Và cũng từ đó, cạnh con đường cái quan từ ngã ba chợ Sy đi qua huyện Diễn Châu lên Yên Thành, có một ngôi mộ, có người gọi là Mả cụ cố, đa phần gọi là Mả ông ăn mày. Đồn rằng ngôi mộ rất thiêng, vì thế ai đi qua đây cũng thắp hương cầu khấn, đắp vào một hòn đất và đều linh ứng. Qua năm tháng, ngôi mộ cứ to dần. Khoảng hơn 100 năm trước, người Pháp cho mở rộng con đường thành tỉnh lộ, dù vậy khi thi công, họ vẫn chừa ngôi mộ ra. Qua nhiều lần nâng cấp, nắn đường, mở rộng, từ đường đất lên đá dăm cấp phối rồi đường nhựa, từ tỉnh lộ lên quốc lộ, ngôi mộ ông ăn mày vẫn đứng đó, ngày càng to thêm. Mới đây, tuyến đường cao tốc Bắc- Nam chạy qua đây, kỳ lạ là tuyến đường phóng tuyến đúng mả ông ăn mày, và mả ông ăn mày bây giờ nằm dưới mái cầu vượt như một mái nhà nên không bao giờ phải chịu mưa nắng.
Cũng từ sau khi cụ Cử mất, cả gia đình ông Hạnh ngoài Diễn Châu và bà Cử trong Hà Tĩnh đều làm ăn khấm khá dần lên, con cụ Cử và con ông Hạnh đều được theo học với thầy Đồ giỏi và đỗ đạt, được gọi ra làm quan và là những vị quan thanh liêm, chăm lo cho dân và được người dân yêu mến.
*
* *
Như thông lệ hằng năm, sau khi thắp hương cho Cụ xong, người đàn ông tên Phúc, là chủ doanh nghiệp lại vào làng. Ông đi tặng quà cho bà con trong làng, hỏi thăm mấy gia đình nghèo đã được ông hỗ trợ xoá nhà tạm và mấy em học sinh nhà nghèo vẫn được ông chu cấp tiền ăn học. Mỗi lần về đây ông rất vui, và ông cảm thấy như ở ngoài kia, trong ngôi mộ đã một trăm
Thứ Hai, 12 tháng 5, 2025
CHÙM THƠ HỒ THANH NGÂN
CHÙM THƠ DỰ THI CỦA TÁC GIẢ HỒ THANH NGÂN
--------------------------------
LỜI NGƯỜI LÀNG CHÙA:"Mất một mùa chữ, mất chín mùa người"
---------------------------------
BAY ĐI NHỮNG CƠN PHIỀN NÃO
Mở lòng tha thứ khoan dung
Bỏ đi những tính toán
Thay đổi một góc nhìn khác
Ôm ấp phiền não bằng trái tim từ bi
Yêu thương người khác là yêu thương chính mình
Tha thứ người khác là tha thứ chính mình
Khép cửa bỏ danh lợi địa vị quyền lực
Trở về nhà bình tâm bỏ tất ngoài cửa
Tập nhìn sâu vào đời sống vô thường
Buông bỏ thị phi buông bỏ hận thù
Làm một người mây đến mây đi
Rừng xanh còn đó lo gì thiếu cũi
19/03/2025
HÃY ĐỂ MẦM THIỆN LƯƠNG LÊN XANH
Trồng một đám cỏ dại đố kỵ
Trên mảnh đất tâm màu mỡ
Là một điều độc ác
Thành công của người khác thì ghen ghét
Thất bại của người khác thì hỉ hả vui mừng
Ta đang làm khổ đau thiện lương chính ta
Đừng đánh thức niềm vui độc ác
Đừng khơi dậy nỗi buồn trả thù
Cuộc đời này ngắn lắm tôi ơi
Hãy để mầm thiện lương lên xanh
20/03/2025
CẢM ƠN EM CẢM ƠN CUỘC ĐỜI DẠY DỖ ANH BÀI HỌC CUỘC SỐNG
Anh nhìn sâu vào đôi mắt em và nói
"Anh đang đau khổ em hãy cảm thông"
Em im lặng và đồng cảm
Bài học cuộc đời dạy ta là phải nhẫn nhục
Học cách rộng rãi bao dung của đại địa
Lòng em là đất tâm
Cho cây tâm hồn anh mọc qua ngày giông bão
Lặng lẽ tha thứ lặng lẽ bao dung
Dập tắt ngọn lửa Hoả Diệm Sơn trong lòng bằng chánh niệm
Tỉnh giác thân khẩu ý trong từng phút giây
Đau khổ được tưới tẩm bằng tình yêu thương
Nhìn sâu giận hờn
Hiểu và yêu vượt qua sóng đời
Mỗi ngày bình an vượt qua cám dỗ bằng tâm nhẫn nại
Cảm ơn em cảm ơn cuộc đời dạy dỗ anh bài học cuộc sống
12/09/2024
(ảnh dưới: tác giả Hồ Thanh Ngân)
BÌNH BÀI THƠ CŨNG MAY LÀ CÒN CỦA PHẠM ĐƯƠNG - HÀ HUY HOÀNG
Hà Huy Hoàng bình bài thơ "Cũng may là còn" của Nhà thơ Đương Phạm (Phạm Đương) trên Tạp chí Văn Nghệ Kon Tum số tháng 5/2025.
Xin chân thành cám ơn BBT nhiều nhiều ạ.
Trân trọng
12/05/2025
HHH
CŨNG MAY LÀ CÒN
Cũng may là còn sông Hương
để anh biết đường trở lại
những con bò bình yên gặm cỏ
chỉ lối anh về
những trái bí trái bầu
lớn lên lớn xuống
để anh còn một góc quê hương mà buồn
xạc xào vườn chuối ngày gió đông
không ồn ào chốn com lê cà vạt
gốc mai già trăm tuổi
để anh cúi đầu mỗi độ vàng bông
mà không thấy xấu hổ...
cũng may là còn sông Hương
để anh nhớ đường về
ngô đồng thẫm xanh chim phượng
à ơi chuột chạy cùng sào
ta đâu là con chuột
lũ lụt đẩy ta xa bụi trúc bụi tre
vẫn nén câu thơ ứ đầy trong ngực
muốn thét một tiếng cho vỡ giọng để còn kịp thở
cũng may là còn sông Hương
làm chiếc lông ngỗng
cũng may là còn có thơ
để anh tát cạn vui buồn trần thế
trong mơ gặp một con bò
bình yên gặm cỏ...
PHẠM ĐƯƠNG
................................
Lời Bình:
Cũng thuộc "trường phái" cách tân và đổi mới, có lẽ cũng ngót ngét ba mươi năm nay, nhà thơ Phạm Đương đã không mấy khi tản bộ trên con đường xưa cũ nữa.
Cái con đường xưa cũ mà tôi vừa nói ở trên chính là con đường của thi ca vần vèo, du dương, kể lể...
Chỉ có thể là thể thơ tự do mới hầu mong chuyển tải được trọn vẹn những tư tưởng cùng một hồn thơ phóng khoáng, mới mẻ và có gì trần trụi như cuộc đời vốn vậy.
Sở sĩ tôi nói thế bởi khi đọc bài thơ "Cũng may là còn" của anh, đã cho tôi cái cảm giác và ý nghĩ mà tôi vừa đề cập.
Mà thực ra, phía sau cái trần trụi, gai góc có phần thô ráp ấy là cả một "bầu trời thơ" trong veo, tình cảm và sâu lắng tình người.
"Cũng may là còn" - bài thơ của một người thi sĩ viết về một người thi sĩ - mà người thi sĩ được "hiện diện" ở bài thơ này thuộc bậc "trưởng lão" mà Phạm Đương vô cùng mến thương và ngưỡng mộ.
Tuy thế, bản thân người viết mấy dòng này từng chứng kiến, ngoài đời họ vẫn thân mật gọi anh xưng em chứ không hề "chú - cháu".
Mặc dù tác giả "Cũng may là còn" không có lời đề tặng, dưới cái cái tiêu đề đến cả nội dung bài thơ đều không nhắc nhớ đến tên người ấy. Tuy nhiên, cũng không khó để chúng ta nhận biết người thi sĩ đó là ai, tên gì và đã từng làm gì nơi chốn quan trường thời hoạn lộ.
"Cũng may là còn sông Hương
để anh biết đường trở lại
những con bò bình yên gặm cỏ
chỉ lối anh về
những trái bí trái bầu
lớn lên lớn xuống
để anh còn một góc quê hương mà buồn
xạc xào vườn chuối ngày gió đông
không ồn ào chốn com lê cà vạt
gốc mai già trăm tuổi
để anh cúi đầu mỗi độ vàng bông
mà không thấy xấu hổ..."
Người thi sĩ cao niên và nổi tiếng ấy, đồng thời cũng từng là một vị quan lớn của "triều đình" thời hiện đại. Khi đến tuổi "về vườn", ông không chọn nghỉ ngơi ở "Hà Nội băm sáu phố phường", mà quyết định về an dưỡng chốn cố hương, nơi có núi Ngự sông Hương đã tắm mát hồn thơ ông suốt một thời trai trẻ. Về với quê hương là ông có dịp ngẫm ngợi, sống lại bao ký ức cùng "Chiều Hương Giang" (*) một thuở buồn vui.
Vâng, những "Chiều Hương Giang" ấy không phải để người thi sĩ nhìn đền đài lăng tẩm, cũng không phải để ngắm những tòa biệt thự chọc trời hay bầu bạn với các đại gia, chức sắc. Mà đơn giản ông chỉ muốn "Mắt tôi nhìn trong suốt nước Hương Giang". Nhìn nước Hương Giang và bạn bầu với chú bò đang bình yên gặm cỏ. Thế mới thấy hồn thi nhân nó tĩnh tại và sâu lắng đến nhường nào.
Về với quê hương là về với mẹ. Không biết giờ đây khi mẹ đã khuất bóng rồi, ông có còn hoảng hốt khi sợ mình "vẫn còn một thứ quả non xanh"? (**)
Bỏ com lê cà vạt, những ồn ã nhênh nhang lại chốn quan trường, tác giả của "Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ" ngày mỗi ngày lắng nghe tiếng xạc xào của vườn chuối ngày đông, tiếng bụi trúc bụi tre vít cong ông mặt trời mỗi sớm mai thức dậy. Ngồi tịnh yên thả hồn dưới cội ngô đồng, cúi đầu trước gốc mai già trăm tuổi mỗi độ vàng bông... Tất cả, tất cả đã cho ông một "Cõi lặng" (***) diệu kỳ, một cái nhìn trong suốt nước Hương Giang...
Theo lẽ đời, từ xưa đến nay, bất cứ một vị quan nào khi về vườn, tội ít công nhiều hay tội nhiều công ít, lời ong tiếng ve, nếu có, cũng là điều hết sức bình thường.
Kệ, mặc ai nghĩ sao thì nghĩ, chỉ biết là với Phạm Đương, trước sau anh vẫn dành cho người thi sĩ ấy một tình cảm chân thành, yêu thương và trân quý. Đọc những dòng thơ "Cũng may là còn" tôi cảm kích và xúc động vô cùng. Tôi thật sự ngưỡng mộ nhà thơ ấy, đồng thời, tôi cũng vô cùng ngưỡng mộ và trân quý thi sĩ Phạm Đương.
"cũng may là còn sông Hương
làm chiếc lông ngỗng
cũng may là có thơ
để anh tát cạn buồn vui trần thế
trong mơ gặp một con bò
bình yên gặm cỏ..."
Chao ôi, cái lông ngỗng từ truyền thuyết tình sử Mỵ Châu - Trọng Thủy được thi sĩ họ Phạm khéo léo "cấy gài" vào đây thật hay và đắc địa.
May quá, cũng nhờ những chiếc lông ngỗng tâm thức ấy đã giúp người thi sĩ khi tuổi cao sức yếu vẫn nhớ đường về núi Ngự sông Hương, nhớ cái làng An Cựu là nơi ông đã oa oa cất tiếng khóc đầu tiên, nơi những vần thơ được hình thành thuở ban đầu cầm bút...
Vâng, xin thi sĩ hãy an yên trong lòng của quê hương để nhờ thơ "tát cạn vui buồn trần thế", hãy ném "câu thơ ứ đầy trong ngực" cho vỡ giọng, cho dễ thở bởi bao điều mà thời hoạn lộ, vì nhiều lý do ông không nói được. Và, để "trong mơ gặp một con bò/ bình yên gặm cỏ..." đi nào. Được thế cũng là hạnh phúc của một cuộc người trong cõi phù sinh này rồi ạ.
Đọc "Cũng may là còn" nói riêng và thơ Phạm Đương nói chung, ta thấy người thích cũng nhiều mà kẻ không ưa cũng lắm. Tôi tin là anh cũng không mấy bận tâm trước hai luồng ý kiến gần như trái chiều này. Riêng tôi, tôi cảm nhận thơ của người thi sĩ này thật hay nhờ trải nghiệm, giàu ý tưởng và sáng tạo không ngừng. Đặc biệt, Phạm Đương MỚI NHẤT trong thế hệ các nhà thơ đã trưởng thành từ sau 1975 và cho đến tận ngày nay của quê hương miền núi Ấn sông Trà.
HÀ HUY HOÀNG
(*) Tên một bài thơ nổi tiếng của nhà thơ xứ Huế
(**) "Tôi hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi/ Mình vẫn còn một thứ quả non xanh". (Hai câu thơ kết của bài "Mẹ và quả")
(***) Tên một tập thơ được ông xuất bản sau khi đã giã biệt chốn quan trường.
CÂY MỀM VÀ HOA ĐẸP - PHÙNG HI
Cây mềm và hoa đẹp
Cây mềm dễ bị gió uốn cong, cây cứng gió chừa ra. Anh là cây mềm trong một cơ quan cấp huyện, huyện đồng bằng.
Cây mềm tìm cách núp gió, còn anh không làm được vậy bởi anh là cây mềm biết suy nghĩ, một cây mềm có lương tri. Bằng chứng về đây mấy tháng anh chưa đến nhà chào ông bác đương nhiệm phó chủ tịch huyện, ông này có tên trong bản khai lý lịch của anh. Cây mềm cũng là cây, không phải cỏ rác, anh không muốn núp bóng ai.
Cây mềm càng vươn cao ngọn càng dễ gãy nên anh ráng làm bộ khù khờ, co vòi. Được cái này mất cái kia, người ta chê: “Cái thằng trông lù đù, chắc không được chuyện gì”.
Anh là cây mềm nên ai cũng muốn bẻ thử xem. “Cứ bẻ đi, đừng đào tận gốc trốc tận rễ tôi là được” - anh tự nhủ. Họ thích thú khi anh bị bẻ gãy và đương nhiên họ thấy mình mạnh lên. Hiếp kẻ yếu là đặc tính của sinh vật có chân lẫn không chân, đó không hẳn là tính xấu.
Cơ quan to lớn, nguy nga như cung điện. Hai tháng rồi anh vẫn chưa thuộc hết các phòng ban. Thuộc tên toàn bộ nhân viên chắc còn lâu. Có việc quái gì để làm mà đông đúc thế nhỉ? Phòng anh có năm người nhưng hết ba là lãnh đạo, thời của lãnh đạo, chuyên họp và viết báo cáo vì vốn dĩ các ban ngành ít tin nhau, chỉ có hai thằng thực sự làm.
Sáng anh chưa kịp pha trà, phó sếp rầy trong cuộc họp: “Thanh niên mà biếng nhác, không năng nổ, thiếu nhiệt huyết. Đất nước mong chờ gì ở các cậu”. Ô hô, đất nước đang cần người pha trà ư? Được, cứ dạy dỗ tôi đi rồi con cái các người sẽ trả.
Anh lửng trí không cọ bồn cầu, nữ trợ lý sếp la trong cuộc họp: “Tôi bắt quả tang cậu sống kém văn minh, vô cảm”. Mẹ kiếp, dốt ưa nói chữ, mụ hiểu gì chữ “vô cảm” mà gắn vô chuyện không cọ bồn cầu? Được, cứ dạy dỗ tôi đi rồi con cái các người sẽ trả.
Cờ tướng anh chơi ở hạng kiện tướng. Cờ vịt như sếp, anh quăng bớt một nửa xe pháo mã sếp vẫn chưa là đối thủ. Sếp oang oang: “Cờ tướng là thước đo trí tuệ. Cậu trình độ đại học mà đánh thua tôi”. Trời, trình độ đại học liên quan gì đến cờ tướng chứ. Những kẻ kém cỏi thường kiếm chuyện để hơn, uống bia giỏi chẳng hạn. Được, cứ hiếp đáp tôi đi rồi con cái các người sẽ trả.
Họ bảo anh đang tập sự, không được hưởng bất cứ phụ cấp gì ngoài lương. Lương của anh, nói theo ngôn ngữ kinh tế của Marx: “không đủ để tái sản xuất”. Nghĩa là năng suất làm việc của anh đến một ngày sẽ bằng 0.
Thế nhưng các khoản trừ vô lương: quỹ tình nghĩa, quỹ tình thương, quỹ mái ấm, quỹ khuyến học, quỹ khuyến tài, quỹ công đoàn, quỹ vì người nghèo, ủng hộ bão lụt, ủng hộ cháy chợ, ủng hộ trẻ em khuyết tật, ủng hộ hội người mù, nạn nhân chất độc da cam, ủng hộ xây cầu treo, góp tiền giúp sếp bị bệnh, góp tiền mừng con dâu sếp đẻ... (còn nữa nhưng xin ngưng vì sợ độc giả phát điên), tuyệt đối anh không thoát được đồng nào.
Tiếng là tự nguyện đóng góp nhưng ai đó chống thử xem, tai vạ khôn lường. Được, cứ ăn hiếp tôi đi rồi con cái các người sẽ trả.
Mẹ sếp chết, không biết sếp ăn ở thế nào mà láng giềng không ai giúp khiêng chôn. Anh chị em cùng phòng sếp tới khiêng, người nào trong bụng cũng hầm hầm nhưng mặt hiền như ma-sơ.
Sếp tới cơ quan rầy anh trong cuộc họp: “Cậu thiệt vô tình, cậu thiệt vô tâm, mẹ tôi có khác gì mẹ cậu, anh em cùng phòng với nhau mà. Cậu giúp tôi rồi cậu ngã ngửa ra chết sao. Cậu tính toán với tôi, tôi sẽ tính toán lại với cậu. Cậu không tốt với tôi, tôi sẽ không tốt với cậu”.
Kết hợp lời rủa xả, đôi tay của sếp bóp chặt như gọng kềm. Mẹ sếp tháng trước còn mặc váy đi xe tay ga, mẹ tôi mới năm mươi lưng đã còng, khổ sở tụng kinh đều đặn mỗi tối, giống nhau ư? Được, cứ dạy dỗ tôi đi rồi con cái các người sẽ trả.
Việc của một ngày anh có thể tích cực làm trong mười lăm phút. Vậy là cây mềm bị phó sếp chê: “Mi tự cao tự đại”. Nguy hiểm hơn bị cho là thiếu đoàn kết nội bộ. Cái bọn nịnh thiếu đẳng cấp thường giẫm lên đầu người khác khi được dịp. Chúng không đáng xách dép cho Hòa Thân, vị nịnh thần có cỡ bên China.
Những kẻ ton hót làm anh sợ lộ ra mình là kẻ có tài, đời gì kỳ quái thế. Công việc rập khuôn, cấm chỉ sáng tạo, chỉ ở mức dành cho người học xong lớp 9 thì anh lấy gì để chứng minh mình hơn họ. Hơn để chết à? Nhũn như con chi chi nhưng vẫn bị ghét kìa.
“Đại học hả, tưởng ngon, trị cho biết tay”. Khóc thôi, làm gì bây giờ? Anh đi học thiệt uổng cơm uổng gạo, không khóc sao được. Chừng nào con cái các người trả đây?
Ngày hai buổi, cây mềm cưỡi xe đi làm lượn qua khúc sông gấp cánh chỏ, nước đang hiền hòa chảy bỗng cuồn cuộn. Anh thấy ngộp ở lồng ngực tựa như người đứng trên lan can lầu cao, muốn nhảy ùm xuống sông chết phứt. Không hiểu cảm giác trước khi chết nó thế nào?
***
Hoa đẹp ai cũng muốn nhìn, thêm chút hương thì tuyệt. Em là hoa đẹp trong cơ quan. Và em biết rõ mình đẹp, quý ở chỗ đó.
Tốt gỗ hơn tốt nước sơn, cái nết đánh chết cái đẹp... Những câu nói giả dối, che đậy sự thèm khát cái đẹp, sở hữu không được thì tìm cách chối bỏ ấy mà. “Người đẹp và là đẹp nhất thì làm sao mà nết không đẹp kia chứ” - em tự nhủ. Một nụ cười duyên của em đem lại sự tốt đẹp gấp mười lần một cô gái kém nhan sắc nhưng tốt bụng.
Hoa đẹp ai cũng muốn nhìn, thêm chút hương thì tuyệt. Em là hoa đẹp trong cơ quan. Và em biết rõ mình đẹp, quý ở chỗ đó.
Tốt gỗ hơn tốt nước sơn, cái nết đánh chết cái đẹp... Những câu nói giả dối, che đậy sự thèm khát cái đẹp, sở hữu không được thì tìm cách chối bỏ ấy mà. “Người đẹp và là đẹp nhất thì làm sao mà nết không đẹp kia chứ” - em tự nhủ. Một nụ cười duyên của em đem lại sự tốt đẹp gấp mười lần một cô gái kém nhan sắc nhưng tốt bụng.
Cái đẹp tuyệt đỉnh, sản phẩm tuyệt hảo của tự nhiên hiển hiện trước mắt nhưng được coi là khó tin. Cái đẹp luôn ẩn tàng tội ác, ví như sự tồn tại của một viên kim cương lớn cướp đi sinh mạng biết bao người. Vậy là em được gán nhãn hiệu hồ ly, xuất hiện bất ngờ trong mắt các phụ nữ sắp hưu, đùi các ông chồng luôn lưu cữu những vết bầm tím.
Mới ba ngày nhận việc, em ra vào cơ quan như công chúa của hoàng cung. Đẹp làm phụ nữ tự tin chứ không hẳn do học vấn. Hèn chi xưa người ta không cho phụ nữ đi học không phải không có lý.
Hoa đẹp trẻ trung xinh như mộng. Em chả cần phải làm gì, sự có mặt của em đã là một giá trị. Giá trị khởi động ngày mới, giá trị kích thích sinh khí chẳng hạn. Phụ nữ quá xấu làm đàn ông không dám nhìn, nhưng bạn có tin không, em đẹp quá cũng làm vài kẻ yếu tinh thần không dám ngó, sợ cái “giá trị kích thích” kia đi quá giới hạn mà lòng phàm khó cản ngăn.
Đẹp nhất và xấu nhất, hai thái cực, đôi khi có những điểm tương đồng, ví dụ kẻ ngu muội và một học giả thực thụ đều an nhiên trước thời cuộc chao đảo.
Em là hoa đẹp, ai cũng muốn thò tay ngắt. Chính cái chỗ ai cũng ước mơ sở hữu nên em an toàn. Này cậu kia đừng có tơ tưởng coi chừng sếp đã chấm, liệu hồn mất việc về đuổi gà cho vợ. Bây giờ là thời của phụ nữ, phụ nữ đẹp càng được thời. Sắp thứ tự giá trị hiện nay: nhất lãnh đạo, nhì kiều nữ, ba đại gia, bốn mới đến kẻ sĩ.
Sáng, trời trong và mát, em đến cơ quan. Một bố vui tính: “Chào con gái, xinh quá, hôm nào đến nhà bố chơi. Bố giới thiệu thằng con trai tuyệt vời của bố, chủ một xưởng bóc hạt điều“. Hoa đẹp ngúng nguẩy cặp mông căng mọng làm bố xao động một hồi.
Hai cậu thanh niên cùng phòng, cạnh tranh tán:
“Chào em, chuyện em nhờ anh đã giải quyết xong, bao anh chầu cà phê chứ?”.
“Em trở thành người trong mộng của anh mất rồi. Em nghĩ sao nếu anh nguyện suốt đời đi bên em?”.
“Cha nội sến vừa thôi”. Cậu này đè bẹp cậu kia.
“Em mời cả hai anh cà phê” - em ngọt ngào.
Hai chàng giành nhau trả tiền trong một quán cà phê vườn thơ mộng, vẫn chưa đủ giá cho một nữ đồng nghiệp thông minh, xinh đẹp chịu ngồi nghe chém gió.
Hai sếp bàn việc công chuyển sang tư, không, vẫn việc công ấy chứ:
“Con bé xinh nhức mắt, học hành giỏi giang thế không biết nó có chịu làm với mình lâu dài không?”.
“Cơ quan ta có con bé, đem nhử mấy bác cấp trên đằng nào tiền đầu tư chẳng đổ về như thác lũ”.
“Ông biết con bé con ai không, mẹ nó cùng thôn vợ ông, và nó chưa biết ai là cha nó” (cười hóm).
“Thôi cha, cha cứ hăm như chuyện phim”.
Vợ sếp trốn việc đi ngang, xông vào:
“Á à, lão già dâm loạn, nó là con rơi ông à”.
“Cái bà này, vợ lãnh đạo mà hồ đồ thế”.
Một cơ quan hành chính không nhất thiết ai cũng làm được việc mà việc cũng không có nhiều để làm thường xuyên. Nó cần đến 80% nhân sự là các cây hài chọc cười cùng số người đẹp lượn lờ lên xuống các bậc cầu thang, xin chữ ký các sếp ở các phòng ban để anh em rửa mắt, “va quẹt” chút đỉnh, nhất là cặp mông.
Mỗi chiều hoa đẹp về với mẹ đang mót máy hái lượm trong vườn cây ăn trái, đi qua khúc sông gấp cánh chỏ, nước đục ngầu vì mưa ở thượng nguồn, đang hiền hòa chảy bỗng cuồn cuộn. Em chợt rùng mình như người đứng trên miệng vực, rất bất an.
***
Cứ thử đòi viên chức cấp huyện có bằng tiến sĩ, chắc chỉ sau một đêm ai cũng thành tiến sĩ mất. Nhưng chưa đến nỗi gấp thế, họ chỉ cần cử nhân, cử nhân hóa viên chức. Nhờ vậy cây mềm và hoa đẹp được về cơ quan tập sự. Hoa đẹp thỏ thẻ:
“Giúp em nhé, em lo lắm”.
“Không sao đâu, có tôi mà”. Cây mềm làm vẻ cứng hay tưởng mình cứng?
Hoa đẹp không ngờ nhan sắc lại hữu dụng chốn công đường đến vậy. Em nói với cây mềm:
“Anh có sức mạnh của tri thức. Anh vận dụng thử xem”. Hoa đẹp định nói như em đây nhan sắc hớp hồn các quan nhưng nghĩ thấy hai chuyện chẳng tương đồng. Ở đời, đâu phải mọi con vật có cánh đều biết bay. Vặt lông đối thủ, vặt lông kẻ hơn mình là cách mà những kẻ không có cánh ra tay trước, tiên hạ thủ vi cường.
Cây mềm không nhận ra sức mạnh tri thức nhưng hoa đẹp thì nhận ra nhan sắc có thể làm mờ mắt những kẻ u mê nhưng lúc nào cũng huênh hoang rằng ta là người văn minh cần nâng niu cái đẹp. Sau một năm hoa đẹp mất kiên nhẫn, nàng tội nghiệp cho cây mềm: “Hiền như anh khó lòng che chắn phong ba cho em”.
Hoa đẹp tránh dùng: “Khờ như anh khó lòng che chắn phong ba cho em. Nghèo như anh khó lòng che chắn phong ba cho em. Thật thà như anh khó lòng che chắn phong ba cho em”. Thiệt ra hiền - khờ - nghèo - thật thà có dây mơ rễ má với nhau.
“Cô nói đúng đó”. Ôi trời, với cây mềm thì hoa đẹp như một thứ hàng hiệu xa xỉ, nó cần đến đúng địa chỉ người mua.
Cây mềm như trút được gánh nặng
Cái đ
Chủ Nhật, 11 tháng 5, 2025
NỖI NHỚ QUÊ XỨ TRONG THƠ NGUYỄN HỮU THỤY - TIỂU VŨ
NỖI NHỚ QUÊ XỨ TRONG THƠ NGUYỄN HỮU THỤY
Nguyễn Hữu Thụy làm thơ như một kẻ tha phương chống lại cơn quên. Ông viết để giữ lại một phần máu thịt đã từng lăn lóc nơi chốn cũ, để không đánh rơi những tên làng, con sông, mái trường, lũ bạn. Và hơn hết, để giữ cho lòng mình khỏi hoang vu trong cõi đời mưu sinh. Trong thế giới thi ca của ông, quê hương không phải là một điểm đến, mà là một vết hằn, một dằng dai ký ức, một vùng sáng nhòe ấm nóng vẫn luôn lặng lẽ cháy trong trái tim người đi xa.
Sinh năm 1954 tại Đại Cường, Đại Lộc, Quảng Nam, trưởng thành giữa chiến tranh và chia ly, Nguyễn Hữu Thụy rời quê từ rất sớm. Năm 1965, ông ra Đà Nẵng học trung học tại trường Đông Giang (nay là trường Hoàng Hoa Thám) sau đó chuyển sang trường Phan Chu Trinh. Sau khi lấy bằng tú tài toàn, năm 1972 ông rời quê vào Sài Gòn, mưu sinh bằng đủ nghề, từ dạy học đến làm báo. Suốt hơn nửa thế kỷ sống nơi đất khách, ông không bao giờ thôi ngoái đầu về phía núi. Cái quê trong thơ ông không chỉ là một nơi chốn địa lý. Đó là miền gốc rễ tinh thần, là điểm neo giữ căn cước, là nơi mà mọi giấc mơ, mọi mất mát, mọi vết thương dường như đều có thể gọi tên.
“Ta đã bỏ quê đi biền biệt
Máu và nước mắt chảy ngàn xuôi
Sông Thu ngầu đục dòng nước xiết
Thơ đẫm trầm luân những phận người”
Ở đây, thơ không còn là thú chơi chữ nghĩa mà trở thành chứng tích của một thân phận. Câu thơ dường như không được làm ra mà được sinh ra từ một trái tim nặng trĩu, từ những năm tháng sống xa quê mà lòng thì chưa bao giờ yên. Dòng sông quê trong ký ức ông không còn trong lành, hiền hòa, mà đã mang màu ngầu đục, bị cuốn xiết trong máu và nước mắt. Đó là cái nhìn của một người từng đi qua biến cố, đã nếm mùi mồ hôi và giọt đắng, đã biết rõ thơ là nơi trú ngụ cuối cùng cho những điều không thể nói thành lời.
Thơ Nguyễn Hữu Thụy không cần những cú đảo vần kỹ thuật, không cần hình ảnh ẩn dụ cầu kỳ. Ông chỉ gọi tên những gì đã từng chạm vào đời sống mình, một cách giản dị, chân thành mà cũng đầy đau đớn. Có lẽ vì thế, thơ ông không ồn ào trên báo chí, không xuất hiện nhiều trong các cuộc bình giảng, nhưng luôn âm thầm rút tủy người đọc. Mỗi câu thơ là một mảnh vụn ký ức được nhặt lại từ tro tàn của thời gian.
“Ta về thắp nén nhang
Trên bàn thờ cũ
Nơi cha từng nói:
‘Răng mi không về?’”
Người trở về trong thơ ông không mang dáng vẻ của cuộc thăm thú, mà là người đi muộn, mang trong lòng một tiếng gọi âm thầm không dứt. Câu hỏi của người cha như một lời nhắc nhẹ mà day dứt, một nỗi dằn vặt suốt đời. Những ai từng xa quê, từng trải qua một cái Tết không về, từng vắng mặt trong ngày giỗ cha sẽ hiểu vì sao chỉ một câu nói ấy cũng đủ khiến người đàn ông mang cả tuổi trẻ đi mưu sinh phải đứng lặng hồi lâu trước một bàn thờ phủ bụi.
Nỗi nhớ trong thơ ông không phải là một xúc cảm nhất thời, mà là một căn tính. Nó không vút cao thành khúc ca hoài cổ, mà rỉ rả như mạch nước ngầm, len vào từng con chữ, thấm vào từng nhịp thở. Đó là thứ nhớ không cần phải diễn đạt, nhưng vẫn hiện lên bền bỉ và âm ỉ, khiến người ta không thể ngoảnh mặt làm ngơ.
“Phước ba đời, ta nhờ chút ơn trên
Sống sót đến giờ làm thơ uống rượu
Giữ nguyên họ tên đi cùng tứ xứ
Thật lòng mình vì yêu chữ tự do”
Cái tự do mà ông nhắc đến không phải là tự do hình thức, càng không phải thứ tự do được mua bằng tiếng vỗ tay. Đó là tự do của người biết rõ mình từ đâu mà đến, tự do của kẻ không từ bỏ quê nhà dù phải sống như người xa lạ giữa phố thị. Trong một thế giới ngày càng ưa phẳng, khi nhiều người sẵn sàng xếp lại gốc gác để dễ sống hơn, thì sự khư khư giữ gìn một cái tên, một giọng nói quê mùa, một nếp nghĩ cũ kỹ, cũng đủ để trở thành một tuyên ngôn thầm lặng.
Không ít người làm thơ hôm nay vẫn mong tìm cho mình một vị trí bằng cách gia nhập các hội đoàn, xin một tấm thẻ hội viên, hoặc chí ít là một giải thưởng. Thơ, trong nhiều trường hợp, đã trở thành phương tiện để hiện diện, để khẳng định cái tên ngoài trang viết. Giữa xu thế ấy, Nguyễn Hữu Thụy lại chọn cho mình một lối đi khác. Ông không vào bất kỳ hội nào, cũng không màng danh xưng. Ông sống với thơ như sống với chính mình. Thơ không phải là cánh cửa để bước lên, mà là lối trở về của những gì từng bỏ lại. Với ông, thơ là nơi trú ẩn sau cùng của căn cước.
Nguyễn Hữu Thụy viết bằng một giọng nói riêng, không bị hòa lẫn, không cần khuếch đại. Thơ ông mọc lên từ đất, từ giọt mồ hôi lấm tấm trong ký ức người mẹ, từ tiếng gà gáy sớm bên hàng dậu, từ ánh lửa bếp chiều giữa những ngày giáp Tết, từ lời hò con sông quê cũ, và từ tiếng lặng thinh của người cha đã khuất.
Khi thơ đã rời bỏ sự trau chuốt hình thức để quay về với sự thật, với những điều làm người ta nghẹn ngào lúc một mình, thì nó mới đủ sâu để ở lại. Thơ Nguyễn Hữu Thụy chính là như thế. Không hào nhoáng, không ngụy tạo. Chỉ là những mảnh đời thật, nhưng mỗi khi đọc lại, ta thấy có gì nhói lên ở nơi tưởng đã hóa đá trong lòng.
Giữa một thời buổi mà thơ đang bị sử dụng để làm trò tiêu khiển, để phô diễn hoặc gây chú ý, tiếng thơ lặng lẽ của Nguyễn Hữu Thụy nhắc chúng ta một điều giản dị. Hãy làm thơ như thể còn một quê hương để trở về. Bởi thơ, suy cho cùng, không phải để được tung hô, mà để giữ lại một vùng ánh sáng lặng lẽ, nơi con người còn có thể được gọi đúng tên mình.
Và nếu có một điều gì thiêng liêng nhất mà một nhà thơ có thể làm được, thì Nguyễn Hữu Thụy đã làm điều đó, bằng chính sự thủy chung với tiếng gọi từ quê nhà.
----
T.V
ĐẠI CHÚNG HAY TINH HOA - NGUYÊN NGỌC
ĐẠI CHÚNG HAY TINH HOA?
NGUYÊN NGỌC
(TBKTSG Xuân) - Mấy năm gần đây tôi thường theo dõi các cuộc thi tú tài ở Pháp, vì thích thú, và cũng có phần muốn từ đó thử nghĩ lại thêm về giáo dục ở ta. Hình như vừa qua ta chú ý nói nhiều đến đại học, hẳn vì ở đây dễ thấy rõ sự quá lạc hậu so với thế giới, cũng lại là nơi liên quan trực tiếp đến việc đào tạo nhân lực cho xã hội. Song cũng có thể vấn đề chính của giáo dục còn ở chỗ khác, ở phổ thông, nơi ít được dư luận quan tâm hơn. Có vấn đề ở phổ thông rồi, tất đại học không thể không có vấn đề.
Theo dõi qua báo chí trên mạng, lại chỉ qua các kỳ thi, nên hẳn không thể biết hết mọi sự của người ta. Nhưng dù sao thấy người ta thi như thế nào, chắc cũng có thể đoán biết đôi chút họ dạy và học ra sao. Cũng để mà nghĩ lại mình.
Kỳ thi tú tài ở Pháp diễn ra một tuần vào đầu tháng 6, và có điều rất thú vị: ngày đầu tiên là thi triết học cho tất cả các ban khoa học, kinh tế và xã hội, công nghệ và văn học. Có vẻ như dư luận xã hội đặc biệt chú ý ngày thi này của các cậu tú cô tú (dự bị). Ngày hôm sau, các báo đưa lại các đề thi, và nhiều lần tạo nên những cuộc thảo luận rộng rãi rất lý thú. Thí sinh phải trả lời một trong hai câu hỏi bằng một bài luận ngắn, và viết một bài bình về đoạn trích một tác phẩm kinh điển được cho. Xin thử kể một số câu hỏi đã được nêu trong các kỳ thi hai năm vừa rồi (xem bảng).
Năm 2015
Cho ban khoa học:
1. Chính trị có được thoát ra khỏi sự bắt buộc của sự thật?
2. Có phải một tác phẩm nghệ thuật lúc nào cũng có một ý nghĩa?
Cho ban kinh tế - xã hội:
1. Nghệ sĩ đưa ra một điều gì để hiểu chăng?
2. Phải chăng ý thức của cá nhân chỉ là phản ảnh của xã hội trong đó cá nhân ấy sống?
Cho ban văn học:
1. Có phải tôi là con người mà quá khứ của tôi đã làm ra tôi?
2. Tôn trọng mọi sinh vật có phải là một bổn phận đạo đức?
Năm 2016
Cho ban khoa học:
1. Làm việc ít đi, thì sống tốt hơn chăng?
2. Có cần chứng minh để biết?
Cho ban kinh tế - xã hội:
1. Có phải bao giờ ta cũng biết được ta ham muốn gì?
2. Học lịch sử thì có lợi ích gì?
Cho ban văn học:
1. Các xác tín đạo đức của chúng ta có phải căn cứ trên kinh nghiệm?
2. Có phải ham muốn về bản chất là vô hạn?
Đọc qua mấy đề thi của người ta như vậy rồi, không biết các bạn có thấy thèm một cuộc thi như thế, hay đúng hơn thèm một nền giáo dục có thể ra những đề thi như thế cho những cô cậu đi thi tú tài, tức tương đương thi tốt nghiệp phổ thông trung học ở ta không? Tôi, thì thèm và buồn.
Nhìn qua, chắc có thể có ngay vài nhận xét:
Một là, đây đúng là kiểu đề thi mở. Người chấm không thể coi trả lời thế này là đúng, trả lời ngược lại là sai. Tỉ như hỏi: “Có cần chứng minh để biết?”, có thể trả lời: “Có chứ, có chứng minh thì mới biết được chứ!”. Mà cũng có thể trả lời: “Không nhất thiết đâu, có những điều ta biết chắc chắn mà chẳng tự chứng minh được chút nào cho chính mình nữa là. Chẳng hạn hỏi tôi có biết vì sao tôi yêu cô A mà không yêu cô B, có trời chứng minh! Tôi yêu, thế thôi, sét đánh mà!”.
Năm 2015, sau ngày thi triết, báo Le Figaro đã làm một việc thật hay: họ đem đề triết của ban khoa học “Chính trị có được thoát ra khỏi sự bắt buộc của sự thật?” đề nghị các nhà chính trị Pháp, gồm một số bộ trưởng và nghị sĩ thi lại thử coi. Nhiều người đã hăng hái hưởng ứng. Và họ gây nên một cuộc thảo luận sôi nổi, thậm chí căng thẳng. Aurélie Filipetti, cựu Bộ trưởng Bộ Văn hóa (đảng Xã hội), nói: “Tôi thấy đây là một đề hay. Là thời sự vĩnh cửu của chính trị. Đây là mối quan hệ giữa hành động và đạo đức. Đề tài đầy tính thời sự”. Jean Pierre Chevènement, nguyên Bộ trưởng, nghị sĩ, từng là ứng viên tổng thống, trịnh trọng: “Không, chính trị không được thoát khỏi sự bắt buộc của sự thật. Hãy nhớ lại cuốn sách của Pierre Mendès France, Sự thật dẫn đường cho những bước đi lớn của họ. Đấy là lịch sử của những nhà cộng hòa lớn đã làm nên nước Pháp hiện đại. Họ dựa trên một nền giáo dục tập thể chân chính và nhận được một sự ủng hộ vững chắc của nhân dân.
Sự thật, đấy là chọn lựa tốt, và không phải ai cũng ngang tầm được với nó”. Nhà báo Philippe de Villiers chặt chẽ: “Nếu chính trị thoát khỏi sự bắt buộc của sự thật, thì nó sẽ chết vì điều đó, và đấy đúng là trường hợp hiện nay. Chính trị, chính trị thật sự, phải được thiết lập trên sự tôn trọng đặc quyền đối với lợi ích chung.
Trong các thời kỳ suy thoái, mọi thứ đều trở thành nói dối. Hãy nhớ hô ngữ nổi tiếng của nhà văn Nga Soljénitsyne: “Thôi, đừng nói dối nữa!”. “...Cũng có người hơi nước đôi. Trên Twitter, Fançois Fillon (người vừa dẫn đầu vòng 1 trong cuộc bầu cử ứng viên tổng thống của phái trung hữu chuẩn bị cho cuộc bầu cử lớn năm 2017) dè dặt: “...Tuy nhiên họ (các nhà chính trị) biết rõ về điều này: giữa sự thật và chính trị, các quan hệ thường rất căng thẳng...”. Benoît Hamon, cựu Bộ trưởng Bộ Giáo dục (thuộc đảng Xã hội cánh tả), tránh trớ, ông chỉ tỏ ý đối lập những người coi hành động chính trị phải “hướng đến cái lý tưởng, và do vậy dấn mình vào một cuộc tìm kiếm sự thật” và những người “nhân danh chủ nghĩa thực dụng, căn cứ vào thực tế” để bằng lòng (với một kiểu hành động) “thích hợp”. Tuy nhiên, cũng có người ít thận trọng hơn. Eric Woerth (đảng “Những người Cộng hòa”) cho rằng sự minh bạch (transparence) là không thể tuyệt đối: “Không phải mọi sự đều phải nói ra hết”. Duy bà Rama Yade, thuộc Liên minh Dân chủ và Độc lập, thì một mực dứt khoát: “Vâng, chính trị vượt ra ngoài sự bắt buộc của sự thật. Thậm chí tôi sẽ nói rằng nó từ chối điều đó (sự thật). Vả chăng đấy là điều tác động đến tôi nhiều nhất qua kinh nghiệm của tôi. Tôi công nhận và lấy làm tiếc về điều đó, ba lần than ôi!”. Bà còn hăng hái bộc lộ với phóng viên Le Figaro dàn ý bài bà sẽ làm nếu bà đi thi hôm nay. Trong phần thứ nhất bà sẽ đặc biệt nêu lên rằng: “Chính trị xử lý một đòi hỏi cao hơn đòi hỏi của sự thật; chẳng hạn ý tưởng về sự cân bằng xã hội”. Sau đó bà sẽ triển khai ý tưởng rằng: “Điều quan trọng không phải sự thật nói cho đến cùng, mà là sự thật của nó (của xã hội)”. Cuối cùng, trong phần thứ ba, bà sẽ bàn về những hệ quả của thực trạng ấy... Người chấm sẽ không coi nói thế này mới đúng, ngược lại là sai, mà chú trọng xem thí sinh biện luận như thế nào cho chủ kiến của mình. Tức cô hay cậu ta tư duy ra sao. Học phổ thông mười hai năm là để có cái tư duy đó. Độc lập, sáng suốt, sâu sắc.
Nhận xét thứ hai: Ta nhớ, đây là đề thi tú tài, cũng như ở ta thi tốt nghiệp, kết thúc bậc học phổ thông. Vậy ở Pháp người ta quan niệm thế nào là người “có trình độ giáo dục phổ thông”? Nhiệm vụ của bậc học phổ thông là gì? Tất nhiên, đây chỉ mới là một môn thi thôi. Song chắc cũng đã cho phép ta hình dung cách họ nghĩ về những điều đó. Theo họ, “phổ thông” nghĩa là như vậy đấy, là biết suy nghĩ và có cách trả lời của mình trước những câu hỏi như vậy đó. Nhiệm vụ của bậc giáo dục phổ thông là giúp cho con người có được trình độ đó. Đại học sẽ lo chuyện khác.
Thứ ba: Tôi có chú ý điều này: câu hỏi “Có phải một tác phẩm nghệ thuật lúc nào cũng có một ý nghĩa?” là cho thí sinh ban khoa học, câu “Nghệ sĩ đưa ra một điều gì để hiểu chăng?” là cho thí sinh ban kinh tế - xã hội, chứ không phải ban văn học... Thì ra, thế mới gọi là “phổ thông”, dù anh sẽ đeo đuổi khoa học chính xác hay làm nhà kinh tế. Là có trăn trở về ý nghĩa có nhất thiết có hay không của một tác phẩm nghệ thuật, về chuyện ông nhạc sĩ Beethoven với bản Giao hưởng số 5 của ông có định “đưa ra một điều gì để (cho ta) hiểu chăng?”...
Thứ tư: Mười hai năm phổ thông, người ta học không biết bao nhiêu là thứ, nào toán với đại số và hình học, hình học phẳng rồi hình học không gian, Euclide rồi phi-Euclide, học lý từ ông Newton đến ông Einstein, học hóa từ ông Lavoisier đến ông Mendéléev, học sử từ bà Jeanne d’Arc qua Napoléon đến tướng De Gaulle, Thế chiến I rồi Thế chiến II, học địa lý nước Pháp, rồi châu Âu, châu Phi, châu Á, châu Mỹ... bao nhiêu bao nhiêu là kiến thức rồi sẽ có thể có cái sử dụng trong đời, nhưng học bao nhiêu bao nhiêu thứ đó, còn quan trọng hơn, lại để mà biết rằng “có phải tôi là con người mà quá khứ của tôi đã làm ra tôi?” và “có phải ham muốn (của con người, cũng là của tôi) về bản chất là vô hạn?”, còn “các xác tín đạo đức của (tôi) có phải căn cứ trên kinh nghiệm?”... Không nghĩ và có trả lời của riêng mình về những điều đó thì chưa thể coi là một con người theo nghĩa “phổ thông” của một con người. Vậy các cô các cậu tú của ta ra sao đây? Mười hai năm phổ thông của ta chuẩn bị được gì cho họ thành người “phổ thông”?
Tôi nhớ thầy Hoàng Tụy có lần kể cho tôi suốt thời phổ thông trong nền giáo dục Pháp thuộc thầy cũng phải học đủ thứ như thế, để rồi khi đi thi tú tài toán ở trường Khải Định (nay là trường Quốc học) Huế, thì người ta lại “cắc cớ” ra cho thầy cái đề này, bắt thầy phải làm cả một bài luận dài viết suốt ba tiếng đồng hồ: “Thế nào là một con người có văn hóa?”. Ngày xưa, ở ta, dưới thời Pháp thuộc (và hình như ở Sài Gòn trước năm 1975) từng có một nền giáo dục như thế.
Tôi nghe có một trường đại học đã tuyên bố với học trò của mình: “Sinh viên là công dân đi học”. Nếu trẻ em bắt đầu đến trường vào 5 hay 6 tuổi, thì sau mười hai năm phổ thông, thi tú tài rồi, là họ chính thức trở thành công dân của đất nước. Vậy nói theo cách nào đó, nhiệm vụ của bậc phổ thông là chuẩn bị cho con người chính thức trở thành người lớn, trở thành công dân của xã hội, tức sẽ tự mình đối mặt với những câu hỏi hiện sinh và những câu hỏi xã hội, tỷ như một số câu hỏi vừa kể trên. Và cho phép tôi đưa ra định nghĩa của tôi về con người tự do, mục đích tối cao của giáo dục: con người tự do là con người biết tự đặt ra cho mình những câu hỏi như thế đó, và trăn trở trả lời chúng. Trở lại với ý đã nói ở đầu bài viết này: xem các đề thi của người ta, để có thể ra những đề thi như vậy, và biết rằng học trò có thể trả lời, chắc cũng đoán biết người ta đã dạy như thế nào và học như thế nào. Suốt mười hai năm, người ta đã dạy mọi thứ và bằng mọi cách để tạo ra con người độc lập và tự do, vì chỉ có những con người như vậy thì mới đối mặt được với thế giới thật luôn tiềm ẩn những câu hỏi đó. Theo chỗ tôi được biết, trong xã hội Pháp, tú tài là một danh hiệu thật sự được trọng vọng. Có được tấm bằng đó, thì chính thức được coi là một người có học (un homme cultivé, cũng có thể dịch là một người có văn hóa).
Chắc cũng không hề ngẫu nhiên đâu khi kỳ thi tú tài hàng năm ở Pháp đã có cái truyền thống tốt đẹp và đầy ý nghĩa: bắt đầu bằng môn triết. Tôi có lần nói với một người có trách nhiệm trong ngành giáo dục ở ta: Giá như ta có thể dạy môn triết cho học sinh phổ thông cấp ba, cứ đúng y như môn này đã được dạy ở cấp tú tài Sài Gòn trước 1975... Chắc khó lắm. Nhưng giải quyết được, thì có khi từ đấy có thể làm lay chuyển được nền giáo dục đang bí đường bây giờ...”. Có dám không, tôi xin chính thức hỏi.
Ít ra, thôi thì đầu năm, xin cứ thử đưa ra một gợi ý, nhân nhìn thiên hạ mà nghĩ lại mình. Hay cứ thử đưa ra một gợi ý, nhân nhìn thiên hạ mà nghĩ lại mình. Hay cứ bình chân ta là Việt Nam, ta quyết một mực khác với toàn thế giới?...
* * *
Tôi thuộc thế hệ cuối cùng có trải qua một ít nền giáo dục của Pháp ở Việt Nam, cụ thể là của thực dân Pháp khi nước ta còn là thuộc địa của họ. Tôi hiểu nền giáo dục ấy nhằm đào tạo những người làm việc cho chế độ đô hộ của Pháp ở nước ta. Nhưng tôi cũng nghĩ và qua chính mình tôi được biết nền văn hóa Pháp mạnh hơn rất nhiều ý đồ xâm lược và đô hộ của những người đi truyền đạt nó. Nó vượt qua họ. Tôi biết ơn nền giáo dục đã đưa nền văn hóa ấy đến cho tôi, bất chấp cả ý đồ của những người truyền đạt nó. Vì hoàn cảnh riêng, tôi cũng chỉ tiếp nhận được nó dở dang thôi, vậy mà nó vẫn kịp tạo cho tôi một cái nền và cái đà để rồi tiếp tục tự học suốt đời.
Một hôm tôi có tâm sự chút ít điều đó với một anh bạn trẻ hiện đang làm chủ nhiệm khoa ở một trường đại học cỡ quốc gia ở ta bây giờ. Anh ấy có vẻ không đồng tình lắm, anh chỉ ngay ra cho tôi rằng cái thứ giáo dục tôi có ý “tâng bốc” ấy chỉ dành cho một số rất ít người, còn thì vẫn để lại tuyệt đại đa số nhân dân trong vòng tăm tối, điều mà nền giáo dục mới của chúng ta đã khắc phục một cách anh hùng và tuyệt giỏi sau khi đã đuổi hết bọn cướp nước đi rồi. Tôi đồng ý với anh ấy quá. Tôi biết đó là một thành tích vĩ đại của giáo dục Việt Nam, giải phóng hơn 90% dân số ra khỏi nạn mù chữ nhục nhã, và ngày nay đang hàng ngày đưa nhiều chục triệu người đến trường ở tất cả các cấp học. Chắc chắn trong lịch sử lâu dài của dân tộc này, chưa bao giờ có nhiều người đi học đến thế. Có thể nói không quá lời, toàn dân đi học. Và do đó, một trong những khó khăn có thật và lớn khiến những người đang chịu trách nhiệm về giáo dục rất đau đầu là phải giải quyết thế nào cho đúng mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng. Ngày xưa, chỉ có một nhúm đi học, chỉ phải dạy có một nhúm, cho nên mới có thể chăm chút, tạo nên một nhúm tinh hoa như thế. So làm sao được với yêu cầu giải quyết giáo dục cho quảng đại quần chúng mênh mông bây giờ! Vâng, tôi cũng đồng ý... Nhưng đến chỗ này, thì tôi bắt đầu thấy hình như có điều gì đó phải nghĩ lại thêm đôi chút. Một là hầu hết các nước trên thế giới ngày nay, ít ra là ở các nước văn minh - mà ta thì cũng muốn được coi là một nước văn minh chứ sao - họ cũng phải giải quyết giáo dục cho toàn dân, chứ có phải chỉ “cho một nhúm” đâu. Vậy lấy cái lý đó để thanh minh cho chất lượng của mình nghe có vẻ không ổn rồi. Nếu chất lượng của ta có vấn đề (hẳn điều này chắc không cần dông dài để chứng minh) thì phải đi tìm nguyên nhân ở chỗ khác kia. Sở dĩ tôi đã chú ý đến các kỳ thi tú tài triết bên Tây và kể lể lại cả một số các đề thi của họ trong cái môn thi được bố trí vào ngay ngày đầu tiên cho cả kỳ thi nghiêm trang, thì phải nói thật là tôi có ý đấy. Rõ ràng họ muốn làm giáo dục cho một cái gì, vì một cái gì đó khác, rất khác ta. Thầy Hoàng Tụy đã nói tôi nhớ không chỉ một lần: “Không phải giáo dục ta lạc hậu đâu, lạc hậu thì ráng đuổi theo may còn kịp. Nó lạc hướng”. Người ta đi đường này, muốn đi đến chỗ này, ta thì cứ thản nhiên nhất quyết đi đường khác, muốn mưu tính chuyện khác. Người ta định làm ra những con người tự do, biết suy nghĩ độc lập và khác nhau (đã độc lập thì hẳn phải khác nhau, mỗi người tự đi tìm lẽ phải cho chính mình và chịu trách nhiệm về lựa chọn riêng đó). Còn ta thì ra sức tạo nên những con người đồng phục, rất kiêng kỵ sự khác biệt, không đồng nhất, chỉ tổ rắc rối ra. Vậy thì học và thi triết làm quái gì! Cứ thuộc lòng đúng những chân lý tuyệt đối đã có người chọn cho mình là xong. Bày vẽ lắm chuyện!...
Cho nên hẳn là có vấn đề khó khăn khi phải giải quyết cho số đông, nhưng cũng không hẳn đấy là nguyên nhân của tình trạng giáo dục ở ta bây giờ.
Vả chăng về chuyện số đông hay số ít, còn có thể có một điều khác nữa. Cứ nhìn quanh ra xa một chút mà xem, ngay cả ở những nước giàu có nhất và tiên tiến nhất thì giáo dục của người ta cũng không cứ một mực quyết đào tạo ra toàn những con người tinh hoa cho xã hội đâu. Không có xã hội nào toàn tinh hoa. Có tinh hoa, và có số đông. Đều cần. Văn hóa là vậy. Giáo dục cũng hẳn là vậy. Có cái đại chúng được học rộng rãi làm lực lượng. Và có bộ phận nhỏ tinh hoa dắt dẫn sự phát triển, và từng bước nâng cái số đông rộng rãi kia lên. Các nền văn minh, từ rất xa xưa, đều đã tiến hóa như vậy.
Có lẽ giáo dục ở ta chưa rõ được điều này. Ta chưa giải quyết đúng bài toán có thật về mối quan hệ giữa yêu cầu số lượng và yêu cầu chất lượng theo hướng này. Chắc đó cũng là nguyên nhân khiến ta lúng túng, loay hoay, như đang thấy.
Do số phận, tôi thường gắn bó với Tây Nguyên, mà ở Tây Nguyên thì quan trọng nhất là rừng. Bây giờ thì ai cũng biết rồi: rừng Tây Nguyên đã bị tàn phá đến kiệt quệ. Có một câu hỏi: Đã kiệt quệ đến mức ấy, rừng Tây Nguyên còn có cơ tái sinh được không? Có người bảo nước mình nhiệt đới gió mùa khí hậu ẩm, miễn đừng tiếp tục phá nữa, triệt để đóng cửa rừng lại như Thủ tướng vừa ra lệnh, sẽ tái sinh được thôi. Tôi có đi hỏi ý kiến một chuyên gia lâm nghiệp hàng đầu, anh ấy hiểu rừng và cây cũng như ta hiểu xã hội và con người. Anh bảo tôi: “Anh ạ, trong rừng không phải cây nào cũng như cây nào đâu, có những cây bình thường, và có những cây nòng cốt. Trong nghề chúng tôi gọi như vậy, tức là tinh hoa của rừng. Nếu ta diệt hết những cây nòng cốt đi rồi, mất hết gen của cây nòng cốt rồi, thì rừng sẽ không tái sinh”. Ở Tây Nguyên lâu, tôi được biết những con người sống gần, đắm đuối với tự nhiên, thường được tự nhiên dạy cho đức minh triết im lặng mà sâu xa. Anh chuyên gia rừng bạn tôi im lặng hồi lâu, rồi chậm rãi, rất chậm rãi, anh nói tiếp, rất nhỏ, như thì thầm: “...Mà anh nghĩ xem, xã hội cũng thế thôi... Có khác đâu...”.
Trong tự nhiên cũng như trong xã hội, có một quy luật về mối quan hệ giữa tinh hoa và đại chúng, như vậy đấy.
Tôi có quen với một người làm lý luận văn học đang ở nước ngoài, cách đây mấy năm anh viết một bài có cái tên rất khiêu khích: Tính đại chúng: kẻ thù của văn học. Trong văn chương, có cái lối được gọi là “thậm xưng”, nghĩa nói quá lên đôi chút để nhấn mạnh hơn một ý đúng. Tên bài viết của anh bạn tôi vừa kể có phần thậm xưng, nhưng nó đã khiến ta giật mình về một điều sai mà vì ngại ngùng này khác bao nhiêu năm ta cứ nghiễm nhiên chấp nhận và để cho nó gây hại. Tôi đồng ý với anh ấy rằng đặt vế “Đại chúng” trong phương châm “Dân tộc, Khoa học, Đại chúng” cho văn hóa là không đúng. Nó đã khiến cho, trong suốt gần thế kỷ, về văn hóa, thay vì phải gắng nâng dần cái đại chúng lên hướng tinh hoa, ta lại ra sức kéo cái tinh hoa xuống tầm đại chúng. Một nền văn hóa, một xã hội không chăm lo xây dựng lớp tinh hoa cho mình, sẽ chìm dần xuống tầm thường và tàn lụi.
Có lẽ trong việc đặt thi môn triết vào đầu kỳ thi tú tài và ra những câu hỏi cật vấn đến cái cao cả trong con người cho những người sắp chính thức bước ra xã hội như những công dân độc lập và tự do như ta đã thấy ở Pháp, là họ tỏ rõ ý hướng đến cái tinh hoa tốt đẹp đó.
Tạo ra và gìn giữ những trí thức tinh hoa cho dân tộc, coi đó là mục tiêu lớn trong khi chăm lo cho số đông, để phục vụ cuộc phục hưng dân tộc sau chiến tranh và đổ nát, là nhiệm vụ của giáo dục.
Đừng quên.
----- Hết -----
Thứ Sáu, 9 tháng 5, 2025
DẤU CHÂN NHẸ KHÓI - NGUYỄN HẢI ĐĂNG
" Dấu chân nhẹ khói " Tôi viết bài thơ này khi người tôi yêu thương đang sống bằng từng hơi thở ngắn ngủi, giữa cơn bạo bệnh tàn nhẫn trôi đi quá nhanh… Mỗi câu , mỗi chữ như một nhịp tim thắt lại, là cách tôi giữ lấy họ...dù chỉ bằng ngôn từ. Có những nỗi đau không cần gọi tên, chỉ cần lặng im cũng đủ khiến tim người ta nghẹn lại... Chỉ mong thời gian trôi chậm lại một chút, để kịp giữ lấy điều quý giá đang dần xa...
DẤU CHÂN NHẸ KHÓI
Chỉ còn một vài hơi thở thôi,
gió không kịp chạm vào lưng trời,
một đời khép lại trong lặng lẽ,
như sương tan giữa buổi rong chơi.
Thời gian chẳng nói điều gì cả,
chỉ đưa người đi tựa bóng mây,
ngắn như một lần ta nhắm mắt,
mà dài như tiếng nấc chia tay.
THIÊN LỆCH - NGUYỄN HẢI ĐĂNG
THIÊN LỆCH
Tôi từng nuôi một con dao
Bằng máu nóng
Bằng tiếng gào lúc nửa đêm.
Tôi gọi nó
Như cách người ta gọi điều không thể với tới
"Ước mơ".
Nó không sáng như lời hứa
Chỉ loé lên mỗi khi lòng tôi tối.
Tôi giấu nó sau lưng,
Mỗi khi cha gõ cửa trái tim tôi
Bằng tiếng thở dài
Mỗi khi ánh mắt cha trở nên sợ
Điều tôi đang thành.
Có hôm tôi rút ra
Chém ngang định kiến
Xước tay.
Rỉ máu, nó vẽ lên đời tôi một nét
Tự khúc.
Tôi không biết mai này mình có trở thành
Một tên sát thủ giết chết tuổi thơ
Hay chỉ là một thằng nhóc
Dám chém gió vào mặt đời.
( Nguyễn Hải Đăng )
Sđ : 11/4/25 âl
( Ảnh dưới là ai ? )
Thứ Bảy, 3 tháng 5, 2025
TÂM SỰ CỦA NGUYỄN HẢI ĐĂNG 2
NGU DỐT CỘNG NHIỆT TÌNH LÀ CÔNG THỨC CỦA PHÁ HOẠI
Tôi từng nghe một câu tưởng chừng nặng nề nhưng lại rất đúng với đời sống hôm nay:
"Ngu dốt cộng nhiệt tình là công thức của phá hoại."
Nghe có vẻ chói tai, nhưng sự thật vẫn là sự thật.
Ở làng quê ta, trong những chợ cá, quán nước, hay bên luống rau, tôi vẫn thường nghe những câu nói đại loại như:
"Về kiếm cây đó uống đi, trị bệnh này hay lắm, thần dược đó!"
Người nói có thể là cô bán cá, bác trồng rau, chú xe ôm , hay một người từng uống rồi khỏe.
Họ nói với lòng tốt. Họ nói bằng sự thương người. Nhưng sự thương không có hiểu biết, chính là sự phá hoại ngọt ngào.
Không ít người, nghe theo, rồi uống... xong không chỉ không khỏi, mà bệnh cũ chưa lành, bệnh mới đã sinh.
Con người không phải cái máy, và thân thể không phải chỗ để thử nghiệm những truyền thuyết chưa được kiểm chứng.
Cơ thể người là một tổng thể hoàn chỉnh – lục phủ ngũ tạng ( tim, gan, tỳ, phế, thận ) tương sinh tương khắc, âm dương điều hòa.
Trong đó, mỗi vị thuốc như một nhạc cụ: có cái làm chính âm, có cái hỗ trợ, có cái dẫn đường, có cái điều hòa.
Chính vì vậy, không bao giờ có một vị thuốc duy nhất có thể chữa trọn vẹn một căn bệnh mà không để lại hệ lụy.
Một người gan yếu, nghe lời ai đó uống một loại lá rừng có tính hàn, tưởng mát gan , cuối cùng lạnh tỳ, hư thận.
Một người đang suy nhược , uống nhân sâm theo lời khuyên vô thức , sinh nhiệt, động huyết , phát bệnh nặng hơn.
Người xưa đã dặn:
"Bốc thuốc như làm thơ. Mỗi vị là một chữ, mà bài thơ thì phải đủ khổ, đủ vần, đủ nhịp mới thành nghĩa lý."
Một bài thuốc phải có ít nhất 9 vị – quân, thần, tá, sứ, phối hợp chặt chẽ. Đó là đạo lý nghìn đời của Đông y.
Vậy mà nay, người ta lại tin vào một lá, một rễ, một vốc – rồi gọi đó là thần dược.
Hỏi rằng:
- Nếu một cây thuốc sau vườn có thể chữa hết bệnh, thì bệnh viện còn cần không?
- Nếu lời truyền miệng đủ thay toa thuốc, thì bao người cần học y, nghiên cứu dược làm gì?
- Nếu ai cũng có thể kê đơn bằng miệng, thì tại sao một lương y phải học cả đời, trả giá bằng từng xác người?
Tôi không trách người dân, vì họ không học. Nhưng tôi xin tha thiết: nếu không chắc, xin đừng khuyên.
Vì chữa bệnh là cứu người, nhưng khuyên sai thuốc, chính là hại người.
Hãy để người có hiểu biết, người có chuyên môn, người có đạo lý y học, họ sẽ phối 9 vị thành 1 thang đúng cơ địa, đúng căn nguyên, đúng căn gốc bệnh.
Một thang thuốc chỉnh thể , không chỉ chữa ngọn, mà còn bồi gốc, điều tạng, quân bình khí huyết.
Xin đừng biến lòng tốt thiếu hiểu biết thành con dao vô hình.
Vì mỗi thân thể là một ngôi đền, không phải chỗ để lời đồn cắm cờ.
TÂM SỰ CỦA NGUYỄN HẢI ĐĂNG
GỬI ĐẾN BẬC PHỤ HUYNH ĐANG YÊU THƯƠNG CON THEO CÁCH RIÊNG CỦA MÌNH.
“Cha mẹ là bầu trời, nhưng con cũng là cánh chim cần được bay theo hướng riêng của mình.”
" Đừng vì vài vết đen mà phủ nhận cả một bầu trời đầy ảnh sáng "
Tôi xem xong clip ấy, và tôi biết – người lớn nói không sai khi nhắc đến tình thương cha mẹ. Không ai phủ nhận rằng cha mẹ là người hy sinh âm thầm, nuôi con bằng cả cuộc đời, không đòi hỏi báo đáp. Tình thương ấy là thiêng liêng, là gốc rễ.
Nhưng điều khiến tôi bức xúc, là cách người lớn nói về tụi trẻ bọn tôi như thể tất cả đều hỗn láo, ăn chơi, vô ơn. Còn người ngoài thì chỉ biết “thương để lợi dụng”. Câu nói ấy mang nặng định kiến và quy chụp – làm tổn thương rất nhiều người trẻ đang sống tốt, đang cố gắng từng ngày.
Tôi xin hỏi: Người ngoài là ai?
Là thầy cô nâng đỡ học trò mình khi vấp ngã?
Là người bạn ngồi bên cạnh khi ta rơi nước mắt?
Là một người yêu tử tế, biết tôn trọng và đồng hành trong học tập, trong cuộc sống?
Nếu tất cả họ đều là kẻ lợi dụng, thì trên đời này còn đâu tình người?
Chúng tôi – thế hệ trẻ – không phải ai cũng sống buông thả. Có những bạn học giỏi, sống có trách nhiệm, vẫn biết yêu thương cha mẹ, và cũng biết rung động chân thành với một người khác. Chúng tôi đâu phải sai khi biết yêu? Và lẽ nào chỉ vì yêu mà bị cấm đoán, hăm dọa, rồi gán cho cái mác “bất hiếu”? Có bạn từ khi bị cấm yêu đã rơi vào khủng hoảng tinh thần, học hành sa sút, sức khỏe đi xuống. Trong khi điều các bạn ấy cần có khi chỉ là sự lắng nghe, thấu hiểu, một sự tin tưởng nhỏ nhoi từ người mình gọi là “gia đình”.
Thương con – không phải là ràng buộc, ép buộc.
Thương con – là đồng hành, là lắng nghe, là hướng dẫn mà không làm tổn thương.
Thương con – là tin rằng con mình đủ bản lĩnh để lớn lên, đủ trí tuệ để chọn đúng, và đủ dũng khí để sửa sai khi vấp ngã.
Clip ấy chỉ nhìn một chiều. Đúng – nhưng chưa đủ.
Và cái nhìn rằng “người ngoài chỉ thương để lợi dụng” thì càng sai.
Tôi mong cha mẹ – những người từng là đứa trẻ – hãy cho con mình cơ hội để được sống thật với cảm xúc, để được yêu, được sai, và được trưởng thành theo cách của riêng nó. Có như vậy, tình thương mới trọn vẹn. Có như vậy, những bài học cuộc đời mới không trở thành vết thương.
Chúng con không cần một tình thương răn đe, chúng con cần một tình thương dẫn đường.
TÔI — MỘT NGƯỜI CON ĐANG LỚN VÀ ĐANG HỌC CÁCH HIỂU CHA MẸ , ÔNG BÀ !
GIỮA RỪNG CÂY THUỐC - NGUYỄN HẢI ĐĂNG
GIỮA RỪNG CÂY THUỐC
Một nắm lá,
Một chút rễ khô,
Mùi cỏ cháy
Hòa cùng hơi gió thở…
Thang thuốc Nam
Chẳng ồn ào khoa bảng,
mà âm thầm như mẹ nấu bữa cơm quê.
Không màu mè,
Không lời khoe khoang
Chỉ lặng lẽ đưa người qua cơn bạo bệnh.
Nơi góc bếp lửa reo bên ấm đất,
Cả trời thương
Nằm gọn giữa trầm hương.
Một thang thuốc
Một niềm tin sống sót,
Cho những ai gục ngã giữa vô thường.
Cây cỏ cũng có tâm,
Nếu người sắc thuốc bằng lòng nhân hậu.
Nước sôi lên – như lời cầu nguyện,
Từng ngụm nhỏ
Chứa cả mùa xuân.
Thang thuốc Nam
Không chỉ để lành thân,
Mà còn chữa những vết đau thầm lặng.
Có ai từng cúi xuống,
Ôm một nhánh cỏ ven đường
Và nghe trong đó
Một nhịp thở nhân sinh?
Giữa rừng cây thuốc ẩn bao điều màu nhiệm
Như Phật tánh
Chẳng cần tô vẽ lung linh.
Thầy y sĩ,
Không mang gươm báu
Mà tay cầm một bó lá vừa hái sau mưa.
Người lặng lẽ
Ghi chép từng vị đắng,
Hỏi han từng nỗi khổ người xưa…
Thang thuốc Nam
Không bán ở phố thị,
Mà được sắc bằng chánh niệm – từ tâm.
Không hương liệu,
Chỉ có tình và đạo,
Chữa thân đau,
Và cả nghiệp âm thầm.
Người bệnh đến,
Người đi – người sống,
Không ai nhớ tên người đun lửa hôm qua.
Chỉ còn thơm
Một mùi cây cỏ, vẫn cháy âm thầm
Trong ấm nước quê nhà.
( Nguyễn Hải Đăng )
Sđ : 15/4/2025
Đăng ký:
Nhận xét (Atom)
BÀI MỚI ĐẮNG
Truyện ngắn: BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN _ NGUYỄN HẢI ĐĂNG
Bên cánh gà chánh điện phần 1 BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN Xe dừng lại với tiếng xột xoạt trên mặt đường, như bao chuyến xe đã ghé qua từ thuở ...
-
Chuyện của chị Linh giò chả (Truyện ngắn Đặng Xuân Xuyến) * Hôm trước, lâu rồi, chả hiểu duyên cớ gì, chị Linh giò chả tự dưng “bắt ...
-
NHỮNG NGƯỜI PHỤ NỮ Tôi lên Cà Mau, hè này coi thi học sinh t.h.p.t tốt nghiệp. Làm giáo viên thì phải coi thi làm nhiệm vụ bắt ...