Thứ Ba, 27 tháng 9, 2022

AI CHỦ TRƯƠNG DẠY VĂN TỐ CÁO CHẾ ĐỘ? - CHU MỘNG LONG

 AI CHỦ TRƯƠNG DẠY VĂN DẠY TỐ CÁO CHẾ ĐỘ?

Tôi dạy văn 30 năm. Có học trò chứng giám: tôi chúa ghét dạy văn dạy tố cáo chế độ này chế độ kia để tự ca ngợi chế độ mình. Gần đây nhất, một lần ngồi Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ, tôi phê bình học viên, rằng đó là nghiên cứu xã hội học dung tục. Nhiều giáo sư khi đưa tri thức thi pháp học vào nhà trường và mở hướng nghiên cứu mới, nhưng vẫn gà què khi không biết nói gì nữa, đành quay lại cái điệp khúc tố cáo chế độ cũ và ngợi ca chế độ mới. Cứ mở vô số các sách cũ giảng văn lẫn sách mới áp dụng thi pháp học ở Việt Nam ra xem chứ tôi không bịa.
Theo tôi, văn chương dẫu có "phản ánh hiện thực" đến thô thiển, cũng không là công cụ để chính trị lợi dụng. Mà nền chính trị nào lợi dụng điều đó, ắt đến lúc tự bắn đại bác vào chế độ của mình. Chỉ cần một tác phẩm miêu tả một cảnh đời đau khổ trong thực tại, với cách hiểu văn như vũ khí tố cáo chế độ, ắt cái bộ mặt chế độ thực tại bị bắn nát.
Tốt nhất, thưởng thức văn chương là thưởng thức những giá trị nhân văn, tức thông điệp thẩm mỹ mà tác phẩm mang đến. Thông điệp thẩm mỹ không phải là "cái hay", "cái đẹp" mà các giáo sư văn học nói một cách sáo rỗng mà phải hiểu là sự hòa điệu: hòa điệu giữa người đọc và nhân vật, giữa người đọc và nhà văn. Văn học cũng như mọi sáng tạo thẩm mỹ đánh thức tiềm năng cảm xúc ở mỗi con người, đúng nghĩa từ Aesthesis, tiếng Hy Lạp là sự rung động, nhạy cảm. Nhờ nhạy cảm, con người gắn bó với tự nhiên và chia sẻ với đồng loại, cụ thể là biết vui, biết buồn, biết hạnh phúc, biết đau khổ cùng người khác.
Thái Hạo, khi nói về cái chết của cô giáo ở thành phố Quy Nhơn và cái án tù của một người chồng tự tử không thành sau khi giết vợ để giải thoát bệnh tật và đói nghèo, đã dẫn chuyện Người con gái Nam Xương, chuyện Thúy Kiều, chuyện Lão Hạc... với những trang sách giáo khoa dùng các hình tượng ấy tố cáo tội ác của chế độ cũ để đặt câu hỏi: những chuyện bi thảm đang diễn ra trong hiện tại là tố cáo chế độ nào? Cách đặt vấn đề rất hay, lẽ ra làm nhột các giáo sư làm sách giáo khoa, giáo trình, nhưng bất ngờ là các giáo sư và nhiều trí thức chia sẻ một cách hả hê. Đúng là giáo sư mặt mo!
Trong sự kiện cô giáo tự vẫn để lại lời ai oán về công việc, về nghề nghiệp và đồng nghiệp trong bức thư tuyệt mệnh, điều tôi thật sự bất ngờ là ít có sự hòa điệu, chia sẻ, nhất là trong giới lãnh đạo và cả trong đội ngũ giáo viên. Quan trên trung ương thì im hơi lặng tiếng. Quan của tỉnh thì dửng dưng biện bạch: do cô giáo trầm cảm. Quan cấp phòng, sở thì đổ lỗi do hoàn cảnh gia đình, do phụ huynh côn đồ, do học sinh hư làm cho cô giáo trầm cảm. Lại còn chối đẩy đẩy, rằng công việc đầu năm của nhà giáo không có áp lực nào. Họ xem bệnh trầm cảm như là tự nhiên không thể chữa trị bằng nguồn chia sẻ, chứ không phải là nguyên nhân xã hội vậy. Thiếu hiểu biết tâm lý tối thiểu như vậy, nhưng họ vẫn làm quản lý, vẫn làm giáo dục thì quản lý và giáo dục không tệ hại mới là chuyện lạ.
Một cô giáo, hình như cũng dạy văn, có tên Lã Minh Luận, ngoài lời mỉa mai chính đáng vào cái nền giáo dục này, lại mỉa mai luôn cái chết của cô giáo. Đúng là sự vô cảm đã đến mức báo động. Khi chỉ biết dùng văn chương như vũ khí chống chế độ, con người đã trở nên lạnh lùng vô cảm. Bởi đã là "vũ khí" thì bản chất của vũ khí nào cũng lạnh lùng vô cảm. Vũ khí có thể giết giặc nhưng cũng tàn sát luôn cả đồng loại.
Tôi dám khẳng định, dạy văn ở Việt Nam đã hoàn toàn lạc hướng. Môn Ngữ văn, dù đã cải cách từ phê bình xã hội học sang thi pháp học hiện đại, nhưng cách giảng văn cũ và cách đọc hiểu văn bản mới như hiện nay đã giết chết tâm hồn con người. Từ dạy văn học như một thứ vũ khí tố cáo chế độ đến đọc hiểu văn bản một cách lý tính khô khan trừu tượng, môn văn xem như đã chết từ lâu. Người học văn không còn thấy trong văn chương tất cả những giá trị nhân văn đúng nghĩa. Chẳng hạn, một tấm lòng cao cả của vua Priam làm xúc động "người hùng" Achilles khi xin xác con mình là Hector và xin tha chết cho dân lành trong cuộc chiến thành Troia. Không ngẫu nhiên mà Achilles thốt lên: "Ngài là nhà vua vĩ đại nhất mà tôi từng biết". Giáo trình, giáo khoa chỉ dạy máu côn đồ được gọi là các anh hùng trong cuộc chiến giành đất, giành gái thời bộ tộc nguyên thủy. Người học văn không còn thấy sau cái chết của Romeo và Juliet là sự thức tỉnh của những người đang sống để hóa giải mọi định kiến và hận thù, nếu có chỉ là leo lẻo ở đầu môi chót lưỡi chứ không thực tâm. Cái chết của người con gái Nam Xương, hành vi tự vẫn của Thúy Kiều, cái chết của lão Hạc hay Chí Phèo được dùng như một vũ khí chống chế độ, thì chuyện một cô giáo hôm nay tự sát vì áp lực công việc hay quan hệ với đồng nghiệp, ắt cũng không thức tỉnh được ai.
Tôi không đánh đồng mọi chế độ để đi đến hòa cả làng. Một cách sòng phẳng, chế độ nào cũng có những mảng tối của những cuộc đời, những thân phận do những quan hệ xã hội tạo ra. Chức năng chính của văn chương là khơi lên cái phần tăm tối ấy để thức tỉnh lương tri đồng loại, để đồng cảm, chia sẻ. Chỉ vì các giáo sư động đến cái phần tăm tối ấy là biến thành vũ khí chống chế độ, nên giới cầm quyền mới siết chặt gọng kìm kiểm duyệt, đến mức nghiêm cấm hẳn, thực chất là che đậy hẳn cái xấu, cái ác và khuếch trương những thứ đẹp đẽ giả tạo để bịp bợm.
Văn chương là sản phẩm của tâm hồn trong cuộc kiếm tìm hòa điệu. Khuếch đại đủ thứ chức năng lớn lao của văn chương, trong đó có chức năng biến văn chương thành vũ khí, cũng làm cho nhà văn vô cảm, viết lên những câu văn khát máu mà nhầm tưởng mình vĩ đại.
Bài trước, tôi kêu gọi giới quản lý và các nhà giáo hãy thức tỉnh, bằng lương tâm và trách nhiệm, bằng những hành động cụ thể như dẹp ngay các trò cải cách làm loạn não cả thầy và trò, cải tạo quan hệ đồng nghiệp trong nhà trường, thay bằng hìa nhau gây áp lực là kích thích hứng thú trong công việc, may chăng mới hạn chế được những cái chết thương tâm mà gần đây đã diễn ra đến mức báo động. Nhưng xem ra khó. Bởi giới lãnh đạo không hề thấy mình là thủ phạm khi tạo ra những áp lực đẩy nạn nhân vào cái chết. Các giáo sư, trí thức thì dùng cái chết của nạn nhân làm vũ khí bắn ngược vào chế độ, dửng dưng đến mức không biết đó là tự bắn ngược vào chính mình. Một xã hội mà những người có trách nhiệm mất hẳn khả năng đặt mình trong hoàn cảnh của nạn nhân, tức mất hẳn trái tim hòa điệu hay đồng cảm chia sẻ thì còn nhiều cái chết thương tâm nữa sẽ diễn ra. Xem ra thằng cu Sơn Tùng nhạy cảm hơn tất cả khi quy mọi hành vi tự tử về một nguyên nhân: There is no one at all - không một ai chia sẻ. Sống không được chia sẻ, chết cũng không được chia sẻ. Nếu có, chỉ là những vòng hoa lòe loẹt, những điếu văn thơn thớt ngợi ca và phong bì giả tạo. Chung quy đều do giáo dục. Giáo dục, và đặc biệt là môn Ngữ văn, do các giáo sư tạo ra, lâu nay đã nhào nặn trái tim con người thành trái tim của loài thú dữ, hoặc không có trái tim, cho nên mới đẻ ra cái xã hội cầy cáo như vậy.
Chu Mộng Long

THƠ NÔM HỒ XUÂN HƯƠNG: ĐÔI ĐIỀU CẢM VÀ LUẬN - PHAN CẢNH MẬU

 Thơ Nôm Hồ Xuân Hương: Đôi điều cảm và luận

Phan Cảnh Mậu
Hồ Xuân Hương sinh ra và lớn lên ở thời kì phong kiến tuy đã suy tàn nhưng tư tưởng và lễ nghĩa Nho giáo còn nghiêm ngặt nặng nề. Trong bối cảnh ấy lại sừng sững, ngạo nghễ xuất hiện một nữ nhi làm thơ; làm thơ Đường thi mà lại khác lạ với Đường thi thường thấy.
1. Trong thi đàn Việt Nam văn học thời Trung đại, nữ sĩ Hồ Xuân Hương (HXH) là một hiện tượng còn nhiều ẩn số, thu hút sự quan tâm của người đời từ trước tới nay. Lai lịch nữ sĩ họ Hồ cho đến gần đây vẫn còn nhiều chi tiết chưa được minh định, chỉ biết rằng bà người gốc Nghệ An, sống ở Thăng Long, nhà ở bên Hồ Tây, gọi là Cổ nguyệt đường, còn nhiều điều khác vẫn còn là những tồn nghi, suy luận (về gia cảnh, gia thế, thời gian sáng tác thơ…). Thi phẩm của nữ sĩ bị thất tán, không rõ đâu là những bài thơ đích thực của HXH, đâu là những bài “gán” cho nữ sĩ, được dân gian hóa (như trường hợp thơ Bút Tre sau này), vì thế cho đến nay khi xác định thơ HXH, không ai dám chắc mà phải kèm thêm một diễn giải ước lệ mơ hồ: “Thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương”.
Theo công bố chính danh, số lượng các bài thơ Nôm HXH không nhiều, theo thể Đường luật nhưng bấy nhiêu bài thơ ngày nay ta có được cũng nhận ra một phong cách mới lạ về đề tài, nội dung phản ánh và nhất là ngôn từ, xứng đáng phong danh “Bà chúa thơ Nôm” (Xuân Diệu). Với những điều khác lạ trên, HXH là một hiện tượng văn học hiếm gặp. Từ cổ chí kim đã có không ít giai thoại, nhiều tìm hiểu, khảo cứu thơ HXH ở nhiều góc độ; các kiến giải, kết quả đánh giá về nội dung, phong cách, nghệ thuật thơ HXH là có tính hệ thống, định giá nhiều phương diện để tôn vinh nhân cách, bản lĩnh và tài năng thơ HXH. Nhưng qua đó cũng gợi mở hướng tiếp cận một số vấn đề cần tiếp tục bàn luận, lí giải các căn nguyên làm nên các giá trị cao đẹp và sức sống trường tồn di sản tinh thần quí giá mà nữ sĩ họ Hồ đã để lại cho đời.
2. Lẽ thường, người làm thơ, dù ở thời nào theo thể loại gì cũng phải tuân theo qui luật của sáng tạo nghệ thuật, trong đó ngôn từ, với tư cách là yếu tố thứ nhất của văn học, phải đảm bảo tính thẩm mĩ, chuyển tải được cả ý, tình và nhạc điệu. Thơ HXH cũng không nằm ngoài qui luật ấy. Nhưng thơ Nôm HXH còn tạo ra một dấu ấn riêng. Người ta đã bàn luận khá kĩ đến những đặc điểm liên quan đến vấn đề đó (1,2,3,4,5,6,7…); trong bài viết này, theo hướng tiếp cận từ góc độ ngôn ngữ, chúng tôi góp một tiếng nói làm rõ thêm vài điểm về phong cách và các giá trị căn bản của thơ Nôm truyền tụng của HXH.
2.1. Điều thấy rõ đầu tiên là qua thơ Nôm, HXH đã làm thay đổi cái không gian tĩnh sang “động” của thể thơ kinh điển này. Như ta đã biết, Đường luật là một thể thơ có sự chế định về luật, niêm và vần chặt chẽ; người làm thơ phải dùng ngôn từ lấp đầy, rải đủ, vừa vặn với cái khuôn mẫu mặc định ấy (số tiếng, số dòng, vần, nhịp, bố cục). Bản thể của Đường luật là tao nhã về ngôn từ, trang trọng về phong cách, tiết chế về thái độ và cảm xúc; thể thơ này do các nhà nho sáng tác, mang tính bác học, hợp với kiểu ngâm vịnh, thù tạc, tự trào, xướng họa… Những đặc điểm này làm nên đặc trưng phong cách của thơ Đường luật, có thể gọi đó là chất “đường thi” (đối lập với đó là chất “dân gian”). Ngày nay, do nhiều va đập với sự đổi mới như vũ bão trong đời sống xã hội và sự cách tân mạnh mẽ của các dòng thơ khác, chất “đường thi” của thể thơ này, do vậy đã có những vi chỉnh, nới lỏng ít nhiều (ở khía cạnh nội dung, đề tài, ngôn ngữ) nhưng về cơ bản nó vẫn phải giữ được căn cốt của “đường thi”.
Điển hình như Qua đèo Ngang của Bà huyện Thanh Quan. Bước tới đèo Ngang bóng xế tà/ Cỏ cây chen đá lá chen hoa/ Lom khom dưới núi tiều vài chú/ Lác đác bên sông chợ mấy nhà/ Nhớ nước đau lòng con quốc quốc/ Thương nhà mỏi miệng cái da da/ Dừng chân đứng lại: trời non nước/ Một mảnh tình con ta với ta. Bài thơ như một bức tranh thủy mặc (cỏ cây, hoa lá, chim muông), cân chỉnh về niêm luật (phối thanh, hòa nhịp, gieo vần), tinh tế về ngôn từ (hàm súc, gợi tả, gợi cảm), mượn cảnh ngụ tình (trải lòng trước cảnh thiên nhiên tươi đẹp). Từng câu chữ dẫn ta đi vào một ngôi nhà cổ kính, bài trí cân đối, thanh tĩnh và mực thước đến mức “hiền lành”, đậm đà chất “đường thi”. Nữ sĩ họ Hồ sống cùng thời với Bà huyện Thanh Quan, cũng làm thơ thể niêm luật ấy, khuôn mẫu ấy nhưng ta lại có cảm giác mới; nó không mang điệu man mác tâm cảnh như Qua đèo Ngang hay các áng văn chương nổi tiếng của các nhà thơ khác (như Thu điếu của Nguyễn Khuyến, Thương vợ của Trần Tế Xương, Cảm xuân của Tản Đà…). Đi vào thơ của nữ sĩ họ Hồ, cảm giác như ta bước từ ngôi nhà chật chội ra khu vườn rộng rãi phóng khoáng, nghe rộn rã tiếng đời, thấy cái tươi mới, sinh động của cảnh vật tự nhiên, hàng rào kín cổng cao tường chỉ là ước lệ.
Xuân Hương cũng tả cảnh đèo (không phải đèo Ngang mà là đèo Ba Dội) nhưng cảnh trong thơ HXH là “động”: Một đèo, một đèo, lại một đèo/ Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo/ Cửa son đỏ loét tùm hum nóc/ Hòn đá xanh rì lún phún rêu/ Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc/ Đầm đìa lá liễu giọt sương gieo/ Hiền nhân quân tử ai là chẳng/ Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo. Cái “động” ở đây là do nhà thơ đã chọn lọc sử dụng các từ ngữ thuần Việt, hơn nữa đây là những từ ngữ phù hợp với lối văn trần thuật, miêu tả thực, gần gũi với khẩu ngữ bình dân. Đó là hệ thống các từ gợi hình (đèo, cửa son, hòn đá, cành thông, lá liễu), gợi tả (cheo leo, tùm hum, lún phún, đầm đìa) và gợi cảm (đỏ loét, xanh rì). Các từ đó ở trong hệ thống, tiếp nối nhau thành một thứ từ trường (về nghĩa). Cái “động” còn do cách tả đi đến tận cùng chót vót của mức độ vốn thường dùng trong khẩu ngữ (gió thì thốc, sương thì đầm đìa, đỏ thì đỏ loét, xanh thì xanh rì). Kiểu kết hợp xâu chuỗi như thế có tính cộng hưởng mạnh, như Heghel nói, tạo ra “khung kết cấu vang dội” của âm thanh và ý nghĩa.
Khi HXH tả vật (cái giếng, khung cửi, quả mít, quả cau) thì vật của HXH cũng không tĩnh mà “cựa quậy”: Cầu trắng phau phau đôi ván ghép/ Nước trong leo lẻo một dòng thông/ Cỏ gà lún phún leo quanh mép/ Cá diếc le te lách giữa dòng… (Cái giếng). Trong tiếng Việt, từ láy có tính gợi tả, khi ở trong các câu thơ làm các định ngữ nghệ thuật như thế (phau phau, leo lẻo, lún phún, le te) chúng không chỉ phát huy đặc tính vốn của từng từ có mà còn làm sinh động không khí của toàn bài. Hầu như bài thơ nào tả cảnh hay tả vật, nhà thơ cũng ưa dùng lối nói gợi tả, phóng túng, gây cảm giác mạnh như thế. Đến như chùa chiền, nơi vốn thanh tĩnh, HXH cũng làm “náo động” lên, nghe thấy trong đó: văng vẳng, cốc, om: Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom/ Oán hận trông ra khắp mọi chòm/ Mõ thảm không khua mà cũng cốc/ Chuông chùa chẳng đánh cớ sao om (Tự tình 1). HXH nhìn chùa, tả chùa mà “chơi chữ bằng nói lái” với giọng bông lơn, bỡn cợt: Quán Sứ sao mà cảnh vắng teo/ Hỏi thăm sư cụ đáo nơi neo/ Chày kình tiểu để suông không đấm/ Tràng hạt vãi lần đếm lại đeo (Chùa Quán Sứ).
Như thế, cái “động” trong thơ HXH không chỉ do các từ chỉ mức độ cao, các từ láy, mà còn do hệ thống các động từ chỉ động tác miêu tả các sự vật. Các sự vật, cảnh vật nói chung là tĩnh nhưng qua cách nhìn và dụng công ngôn từ, Xuân Hương đã cấp cho mỗi hình ảnh ấy một động tác, thế là các vật thể lại thành một sinh thể. Chẳng hạn: gió – khua lắc cắc, sóng – vỗ long bong, nước – xì xòm, quạt – phì phạch, giọng – hi ha… Khi đặt chúng trong câu thơ, những kết hợp ấy cộng hưởng nhau càng thêm phần sinh động. Các động tác mà HXH dùng tả cảnh, tả vật bao giờ cũng mạnh hơn một nấc so với lẽ thường. Xiên ngang mặt đất rêu từng đám/ Đâm toạc chân mây đá mấy hòn (Tự tình II), Con cò mấp máy suốt đêm thâu (Dệt cửi), Phì phạch trong lòng đã sướng chưa (Cái quạt), Gan nghĩa dãi ra cùng tuế nguyệt/ Khối tình cọ mãi với non sông (Đá ông chồng bà chồng). Trong bài “Quán Khánh”, đang nói đến cái rất tĩnh và tình tứ (Thú vui quên cả niềm lo cũ) thì đùng một cái, bà chuyển sang “động” rất là bất ngờ, bỡn cợt (Kìa cái diều ai nó lộn lèo)!
Với cách dùng như vậy, HXH đã thổi vào không gian “đường thi” không khí sôi động, ồn ã, phức hợp của cuộc sống xung quanh. Cần nhấn mạnh rằng, nếu các từ ngữ ấy ở trong văn xuôi, trong ca dao dân ca hay những thể thơ tự do khác thì hẳn là bình thường nhưng tác giả lại đưa chúng vào trong cái không gian “đường thi” thì quả là phải mạnh dạn, phải bản lĩnh mới thoát vượt ra được cái “vòng kim cô” ấy. Nếu nói nghệ thuật là sự sáng tạo – tạo ra sự bất ngờ, thậm chí là bất thường, phi lí – thì cách dùng ngôn từ mới mẻ, táo bạo làm thay đổi không khí “đường thi” như thế đích thị là sáng tạo nghệ thuật, do đó nhiều câu thơ, bài thơ của nữ sĩ họ Hồ đã tạo ra phong cách riêng và đậm dấu ấn cá tính. Những sáng tạo mới mẻ sinh động như thế cho thấy, mọi cảnh huống của cuộc đời qua con mắt nhà thơ đều để lại những dư ba; người làm thơ ở trong cuộc sống để trải nghiệm và ở trên cuộc sống để chiệm nghiệm. Thơ HXH thể hiện nhãn quan thực tại tinh tế, phản ánh hiện thực sinh động, đa chiều; những điều đó làm nên giá trị nhận thức sâu sắc của thi phẩm HXH.
2.2. Một điểm nổi khác cũng thể hiện rõ trong thơ Nôm HXH là chất “dân gian” đậm đà trong đề tài, nội dung và ngôn ngữ. Tuy vẫn dùng thể Đường luật nhưng thơ HXH đề tài đa dạng, nội dung phong phú, tình thái bộc lộ rõ, ngôn ngữ bình dân. Trong hơn 40 bài thơ Nôm truyền tụng của HXH, thử xếp loại thơ HXH căn cứ vào chất “đường thi”/ chất “dân gian” thể hiện trong thơ HXH thì có thể chia làm ba nhóm. Sự phân loại chỉ là tạm thời và tương đối cốt để thuận tiện cho việc phân tích một vài đặc trưng của thơ HXH.
Nhóm 1 là những bài còn giữ chất “đường thi” khá đậm đà, như: Một cảnh chùa, Tự tình I, Tự tình II, Bánh trôi nước, Cảnh thu… Đề tài vịnh, tả sự vật, tả cảnh thiên nhiên, về các mùa, nhất là mùa thu, khá quen thuộc trong thơ cổ, trong thơ Đường luật. Tả cảnh để ngụ tình, gửi vào đó nỗi niềm tâm sự. Cũng như các nhà thơ trước và cùng thời, thơ HXH có nhiều bài thơ về thiên nhiên. Cảnh thu là một trong những bài như thế. Thánh thót tầu tiêu mấy giọt mưa/ Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ/ Xanh um cổ thụ tròn xoe tán/ Trắng xóa tràng giang phẳng lặng tờ/ Bầu dốc giang sơn say chấp rượu/ Túi lưng phong nguyệt nặng vì thơ/ Ô hay! Cảnh cũng ưa người nhỉ/ Thấy cảnh ai mà chẳng ngẩn ngơ. Có thể thấy mùa thu trong thơ HXH cũng êm đềm lãng mạn, chứa chan tâm trạng của con người (thánh thót giọt mưa, xanh um cổ thụ, trắng xóa tràng giang). Toàn bài mang phong vị trang trọng của “đường thi”; có nét trầm của thời gian (mùa thu) và không gian (mưa, cổ thụ, tràng giang) thấm đẫm cái sinh động của cảm xúc (khen ai khéo vẽ, ô hay, ai mà chẳng…). Cả bài thơ thật là chuẩn chỉnh về đối ngẫu và ý tứ, trong đó ấn tượng nhất là Bầu dốc giang sơn say chấp rượu/ Túi lưng phong nguyệt nặng vì thơ. Trước thiên nhiên tươi đẹp, chủ thể bộc lộ tình thái theo cái cá tính rõ ràng, mạnh mẽ cố hữu, tuy vậy, bài vẫn “bảo toàn” được không khí, tâm cảnh đậm đà phong vị “đường thi”.
Nhóm thứ hai là những bài có thiên hướng hòa quyện giữa chất “đường thi” và chất “dân gian”; khi thì chất “đường thi” mạnh hơn chất “dân gian”, khi thì chất “đường thi” chỉ bàng bạc qua tả vật hay cảnh ngụ tình, còn chất “dân gian” lại trội hơn. Như bài Thiếu nữ ngủ ngày, Mời trầu. Có thể nói, Thiếu nữ ngủ ngày là một giai phẩm họa bằng ngôn từ hoàn mĩ nhất, dù nhà thơ chỉ mới chấm phá mấy nét tượng trưng. Mùa hè hây hẩy gió nồm đông/ Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng/ Lược trúc lỏng cài trên mái tóc/ Yếm đào trễ xuống dưới nương long/ Đôi gò Bồng Đảo hương còn ngậm/ Một lạch Đào Nguyên suối chửa thông… Hầu hết thơ HXH là “động”, ngôn từ phóng túng, “tung tẩy” các chiều, thế nhưng trong cấu tứ bài này, nữ sĩ lại nắn nót, chăm chút, tinh tế từng câu chữ, từng chi tiết và căn chỉnh bố cục rất hài hòa; giọng điệu chuyển từ “tông” mạnh mẽ ồn ã sang “tông” êm dịu nhẹ nhàng, tựa hồ như không muốn làm thanh động cái tĩnh lặng cho thiếu nữ say giấc nồng, để tôn vinh, trân trọng vẻ đẹp hình thể trong trắng nguyên trinh đến hoàn hảo mà tạo hóa đã ban tặng cho phái đẹp.
Nếu chỉ dừng lại ở 6 câu thơ như thế thôi thì bức tranh tố nữ cũng đã toàn bích và đậm chất “đường thi” lắm rồi. Nhưng thơ Đường luật còn có hai câu kết, đó là điểm nhấn của tình ý toàn bài. Chuyển sang hai câu kết này thì tình hình lại khác. HXH thấy thấp thoáng bên cạnh thiếu nữ (tĩnh) một hình ảnh động. Một chàng trai. Anh chàng này không mấy xa lạ, đã từng xuất hiện ở vài ngữ cảnh (trong các bài thơ khác) mà qua miêu tả, hình như HXH không mấy thiện cảm. Lần này nhân vật kia lại xuất hiện ở đây. Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt/ Đi thì cũng dở ở không xong. Từ ngữ ở hai câu kết này đã giảm đi chút ít tính trọng thị của “đường thi” mà có hơi hướng cách nói dân giã (dùng dằng đi chẳng dứt, đi thì cũng dở ở không xong). Chỉ từ dùng dằng thôi, HXH đã lột tả được cái “thần thái” (cử chỉ điệu bộ) của nhân vật. Tưởng như nữ sĩ đang quan sát hành tung thái độ của chàng quân tử với nụ cười ý vị, tinh nghịch (trước vẻ đẹp hình thể lồ lộ như thế ai mà chẳng…) nhưng pha chút bỡn cợt trào lộng rất “đáo để” của HXH.
Như vậy, Thiếu nữ ngủ ngày tạo ra một không gian thanh tĩnh, từ ngữ miêu tả tinh tế, thái độ trân trọng, đậm chất “đường thi”. Các chi tiết mang tính phồn thực, sự hiện diện và thái độ của chàng quân tử cùng tình thái chủ quan của tác giả (qua hai câu cuối) thì lại dường như ít thấy ở trong thơ cổ, trong thơ Đường luật chính danh vốn kín đáo, nghiêm cẩn. Ngay Nguyễn Du (trong Truyện Kiều phong tình lãng mạn là thế) cũng chỉ miêu tả vẻ đẹp hình thể của Kiều rất tượng trưng kín đáo (Rõ ràng trong ngọc trắng ngà/ Dày dày sẵn đúc một tào thiên nhiên), thi sĩ chỉ gợi chứ không tả như HXH. Đây đích thị là nữ sĩ đã đưa chất “dân gian” – vốn là điều ưa thích của tác giả – hòa điệu vào trong một thi phẩm mang đậm “chất Hồ Xuân Hương”. Với bài thơ này, thơ HXH không chỉ đặc tả hình ảnh sinh động mà còn khơi gợi ở người đọc tình cảm yêu mến, trân trọng cái đẹp nhân bản, ngời ngời giá trị thẩm mĩ.
Một trong những bài thơ được nhiều tác giả (Đỗ Lai Thúy, Xuân Diệu, Đào Thái Tôn, Trương Xuân Tiếu…) bình giải, phân tích là Mời trầu: Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi/ Này của Xuân Hương đã quệt rồi/ Có phải duyên nhau thì thắm lại/ Đừng xanh như lá bạc như vôi. Ở góc độ sử dụng ngôn từ theo phong cách, chúng tôi cũng xếp bài thơ này thuộc loại lưỡng tính: vừa có chất “đường thi”, vừa có chất “dân gian”. Chất “đường thi” thể hiện ở thể loại (thất ngôn tứ tuyệt), ở đề tài (tả sự vật) và ở nội dung (tả cảnh vật ngụ tình). Chất “dân gian” thể hiện ở việc mượn chất liệu dân gian (cau – trầu – vôi), lời mời trầu (phong tục dân dã quen thuộc – Miếng trầu là đầu câu chuyện). HXH đã khéo “mã hóa” ý tưởng qua câu chữ, việc “giải mã” bài thơ tùy thuộc vào điểm nhìn của mỗi người. Trên diện biểu kiến, có thể thấy, bài thơ thể hiện một nét đẹp văn hóa (mời trầu) và sự chân tình, khiêm nhường của người mời đối với khách (Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi). Nhưng tiếp đến hai câu sau thì bắt đầu ngờ ngợ (Có phải duyên nhau thì thắm lại/ Đừng xanh như lá bạc như vôi). Sao mời trầu mà lại như có lời nhắn nhủ, nhắc nhở? Hóa ra HXH nói chuyện trầu cau chỉ là cái cớ, bề mặt là “mời trầu” nhưng ở tầng sâu câu chữ còn có một tình ý khác, cần “giải mã” dựa trên phép ẩn dụ và cơ chế liên tưởng từ “thanh” sang “tục”.
Quả thật, trong tín ngưỡng dân gian, cau tượng trưng sinh thực khí của nam, trầu tượng trưng sinh thực khí của nữ. Tục ăn trầu cau, bánh chưng bánh tét trong ăn uống, lễ tết của người Việt, bên cạnh phong tục sinh hoạt còn liên quan đến tín ngưỡng phồn thực. Cau cũng còn dùng tượng trưng cho vú nữ, một hình ảnh thường thấy trong núm chuông, núm cồng chiêng và trong thơ ca dân gian cũng có câu nói về điều nầy: Vú em chum chúm chụm cau. Cho anh sờ cái có đau anh đền) (5). Tất cả đều là “của Xuân Hương” (của là một từ nhiều cách hiểu: a) của là quan hệ từ sở hữu: áo của em; b) của là danh từ, có hai nghĩa: i) chỉ vật sở hữu (của cải, của nả), ii) chỉ bộ phận sinh dục (“của quí”). Vậy là, cau nàng, trầu nàng – của nả quí nhất của đời người con gái đã đến độ xuân thì, đã sẵn sàng (đã quệt rồi). Lời mời thể hiện vẻ lịch sự nhún nhường thực chất là bày tỏ tấm chân tình (mời gọi, đón đợi) từ phía chàng. Nhưng bằng cuộc đời mình, XH đã dự cảm sự trớ trêu; nàng đã mượn cách nói của dân gian (bày tỏ ý “cầu khiến”: Có… thì – Đừng… như) để lên tiếng “cảnh báo” vừa tế nhị vừa mạnh mẽ “rất Hồ Xuân Hương”: Có phải duyên nhau thì thắm lại. Đừng xanh như lá, bạc như vôi. (Người con gái trong ca dao cũng đã từng nói với chàng trai (với cái kiểu cầu khiến) như vậy: Có yêu thì yêu cho chắc/ Đã trục trặc thì trục trặc cho luôn/ Đừng như con thỏ đứng đầu truông/ Khi vui thì giỡn bóng khi buồn thì bỏ đi). Một tấm tình chân thành, chủ động, khao khát hạnh phúc như vậy mà không được đón nhận hoặc không có một tiếng vọng nào đáp lại thì thật là thất vọng, phí phạm. “Mời đấy, vun đắp đấy, hy vọng đấy, nhưng sao cứ tan vỡ, rạn nứt, mất đi” (7). Bởi thế, ẩn đằng sau lời mời (trân trọng) là một hàm ý khích kháy, châm chọc, vừa cảnh tỉnh (tự nhắc mình và chị em) vừa là cảnh báo đấng mày râu (Đừng xanh như lá bạc như vôi). HXH có một số bài về cùng chủ đề nói về thân phận của ngừời phụ nữ, xinh đẹp, chân tình nhưng nhiều cay đắng tủi buồn trước cuộc đời bất như ý, nhiều trắc trở (Bánh trôi nước, Làm lẽ, Sự dở dang, Nợ chồng con, Khóc Tổng Cóc…). Tuy vậy, xét về khía cạnh yếu tố “thanh – tục” thì bài Mời trầu này thể hiện rõ ràng, táo bạo và đậm chất “dân gian” hơn cả.
Nếu Thiếu nữ ngủ ngày đề cao giá trị thẩm mĩ thì Mời trầu lại thể hiện lòng nhân ái, tư tưởng nhân văn sâu sắc. Qua Mời trầu, HXH muốn chuyển tải nhiều thông điệp. Rằng, sống ở đời, nam và nữ là bình quyền, bình đẳng; ai cũng có quyền được sống, được yêu đương, có quyền bày tỏ khát vọng hạnh phúc; rằng tình yêu là sự chân tình, trung thực; việc bày tỏ trao gửi tình cảm đôi lứa là chân chính (chứ không phải Yêu nhau trao một miếng trầu/ Giấu thầy giấu mẹ trao sau bóng đèn (ca dao), được cái kín đáo, tình tứ nhưng lại nặng nề lễ giáo (nam nữ thụ thụ bất thân). Thông điệp còn tiếp rằng, hãy chân tình trong tiếp nhận và ứng xử ở đời, nhất là ở tình yêu, đừng bao giờ rẻ rúng, bỡn cợt với tình yêu, nhất là đối với tấm chân tình của người phụ nữ. Những thông điệp đó, phải chăng đã nói lên, Mời trầu là một thi phẩm thấm đẫm tính nhân đạo, nhân văn, chứa đựng sâu sắc minh triết giá trị giáo dục cho các thế hệ.
Loại thứ ba, là những bài thơ, theo chúng tôi, chỉ còn lại ở mặt hình thức của thể thơ Đường luật, chất “đường thi” đã phai mờ, cái không khí, tình ý bên trong lại đậm đà chất “dân gian”. Đó là những bài có bóng dáng ý nghĩa phồn thực, thể hiện tính dục được cấu tứ theo chế liên tưởng (từ “thanh đến tục”).
Cũng nói thêm rằng, dục tính là bản năng để sinh tồn của mọi sinh vật; đến con người thì tính dục nâng lên thành sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng (tín ngưỡng phồn thực) từ thời thượng cổ tới thời hiện đại. Nó được thể hiện trong các hang động, các tác phẩm nghệ thuật, các biểu tượng và trong các nền văn hóa nhân loại từ xa xưa đến ngày nay. Tính dục càng được thể hiện rõ trong sinh hoạt văn hóa của cư dân nông nghiệp lúa nước. Ở đó tính cộng đồng, cộng sinh được đề cao, đậm nét tư duy trực thể, trọng thị quan hệ tương cận thân tình. Trong lao động sinh hoạt bình dân, tếu táo, nghịch ngợm, chọc ghẹo, vui đùa khai thác yếu tố “tục” là thông dụng; văn học dân gian (truyện kể, truyện cười, ca dao dân ca, tục ngữ) cũng có một mảng đậm đặc về điều đó. Từ cách nói bóng gió ỡm ờ “thoang thoảng” (Em như quả khế trong chùa/ Cho anh anh nỏ lấy, bán anh nỏ mua/ Vì chưng thằng cu anh hắn dại, thấy của chua hắn sèm – dân ca Nghệ Tĩnh), Hỡi người đi đó xinh thay /Có khuôn đúc tượng, cho anh đây đúc cùng; Ban ngày quan lớn như thần/ Ban đêm quan lớn tần mần như ma, đến lối nói bỗ bã “sâu đậm” hơn, không kiêng dè (Bộ Binh, bộ Hộ, bộ Hình/ Ba bộ đồng tình bóp vú con tôi, Hôm qua em đi hái chè/ Gặp thằng phải gió hắn đè em ra/ Em xin mà hắn không tha/ Hắn đè, hắn nhét cái mả cha hắn vào; Của em tủm hủm mu rùa/ Cho anh một cái, đến mùa trả khoai, v.v…(Theo ww.vanchuongviet.org…).
Trở lại thơ HXH, mảng thơ được truyền tụng, chú ý nhiều là những bài mà có người gọi đó là có yếu tố “dâm tục”. Thực ra, công bằng mà nói, một số bài thơ HXH có tính phồn thực – phô diễn vẻ đẹp các bộ phận cơ thể người – rất ý vị và thanh cao, không hề có tính “dâm tục” theo nghĩa thông thường. Như hai bài Thiếu nữ ngủ ngày và Mời trầu đã phân tích trên. Còn nhiều bài khác, nếu cho rằng thơ HXH có tính dâm tục (thuật ngữ có tính thanh nhã hơn là tính “phồn thực”: phồn: nhiều, thực: sinh sôi nảy nở) thì quả thực là có “oan” cho nàng. Thơ HXH chỉ nói cái “thanh”, còn cái “tục” là tự người đọc suy diễn, gán cho, còn thơ nữ sĩ, trên giấy trắng mực đen, chỉ có “thanh” (trừ mấy trường hợp có “tục” (Kìa cái diều ai nó lộn lèo, Hỏi thăm sư cụ đáo nơi neo, Tràng hạt vãi lần đếm lại đeo) nhưng bà khéo ẩn bằng cách chơi chữ (nói lái).
Quả thật, bên cạnh những đề tài khác, HXH thích nói về những sự vật, cảnh vật rất gần gũi, dân giã xung quanh mình: trầu cau, quả mít, con ốc, cái quạt, cái trống, cái giếng, cái khung cửi, hòn đá, đèo, hang, lỗ… Và đều được HXH miêu tả thực. Tả vật: Cỏ gà lún phún leo quanh mép/ Cá diếc le te lách giữa dòng (Cái giếng), Chành ra ba góc da còn thiếu/ Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa (Cái quạt), Cửa son đỏ loét tùm hum nóc/ Hòn đá xanh rì lún phún rêu (Đèo Ba Dội). Tả hoạt động: Thắp ngọn đèn lên thấy trắng phau/ Con cò mấp máy suốt đêm thâu/ Hai chân đạp xuống năng năng nhắc/ Một suốt đâm ngang thích thích mau (Dệt cửi), Quân tử có thương thì bóc yếm/ Xin đừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi (Con ốc nhồi), Một lỗ xâu xâu mấy cũng vừa/ Phì phạch trong lòng đã sướng chưa (Cái quạt), v.v… Lối tả kể này nằm ở cái ranh giới cực kì mong manh giữa “thanh” và “tục”. Có lẽ HXH học hỏi, ảnh hưởng cách nói “ỡm ờ” tếu táo thường gặp trong khẩu ngữ và thơ ca dân gian (Cô kia, cô kỉa, cô kìa/ Người cô thế ấy, cái kia thế nào? Ra đường gặp ả hồng nhan/ Thằng cu nghển cổ nóng ran cả người, v.v…).
Đi vào “bếp núc” chi tiết của ngôn từ, thấy rằng, người ta nói thơ bà có tính “tục” thì quả thật là cũng có cái lí của họ. Bởi vì, khi ngôn ngữ hành chức (đi vào đời sống) thì nó tạo ra một ngữ cảnh (như trong một cụm từ, một câu, một bài thơ); trong ngữ cảnh ấy, các thành tố nảy sinh những quan hệ (ý nghĩa) nhất định; quan hệ này có nhiều chiều (trực tiếp, gián tiếp, rõ ràng, ẩn ý) thông qua thao tác suy diễn, liên hệ, liên tưởng của người nhận… Vậy mà thơ HXH lại tạo ra một hệ thống các ngữ cảnh có lí do để liên tưởng: Cỏ gà – lún phún, hòn đá – xanh rì lún phún rêu, con cò – mấp máy (gợi đến dương vật), cá diếc – le te, cử son – đỏ loét, một lỗ – xâu xâu (gợi đến âm vật), v.v… Tất cả những kết hợp ấy (cái tĩnh đi liền với cái động, cái tính chất ghép với sự vật) lại được nhân hóa như người, bản thể là người. Thế là từ đó nói “thanh” liên tưởng tới cái “tục” nhưng trong cái “tục” lại có cái “thanh”. Đây chính là nghệ thuật dụng ngôn – với thao tác chơi chữ, nhân hóa và trò chơi ẩn dụ – mà “Bà chúa thơ Nôm” đã dụng công “bài binh bố trận” đầy dụng ý. Cho nên, nhìn bề mặt thì chúng (cách nói, thái độ, từ ngữ) có vẻ khách quan, tưng tửng, vô tư, vô can (thơ tôi chỉ nói cái thanh còn người đọc nghĩ sao là quyền của họ). Cách nói bóng gió lấp lửng này chính là phương thức tạo hàm ngôn, làm cho người ta nói được những điều mà có khi dùng lời hiển ngôn trực tiếp chưa chắc đã diễn tả được hết. Nói hàm ngôn làm cho người nói “vừa có được hiệu lực của nói năng, vừa có được sự vô can của im lặng”(O.Ducrot). Nhiều bài thơ của HXH đều được tạo ra theo cái cách ý tại ngôn ngoại và cơ chế liên tưởng như thế.
Ở loại thứ ba này, thơ HXH có một xê-ri bài ít bóng dáng chất “đường thi” mà được dân gian hóa mạnh mẽ. Các yếu tố phồn thực, sự liên tưởng thanh tục chứng tỏ hồn thơ, tư duy thơ HXH từ nội hướng, với “ăng ten” bén nhạy, gần gũi với đời của mình, nữ sĩ “bắt sóng” rộng mở ra ngoại hướng, phản ánh nhiều mặt đời sống, không kiêng dè điều gì. Cái tính dục có vẻ “dâm tục” (các bộ phận sinh dục của nam nữ, hoạt động tính giao mà HXH đã cố ý nói bằng lối bóng gió, hàm ẩn) làm thơ bà gần với cách nghĩ, cách cảm của người dân lao động, mang tính giải trí cao. Mặt khác, mạnh dạn đưa tính dục vào thơ là một cách nữ sĩ phản kháng lại những thói rởm đời, đạo đức giả của thế thái nhân tình thời tao loạn (“Thạch Sanh thì ít, Lí Thông thì nhiều”). Đồng thời qua đó, nhà thơ cũng thể hiện thái độ đề cao, trọng thị mọi nhu cầu chính đáng và cái đẹp vĩnh cửu mà tạo hóa đã ban tặng cho con người. Tính dục ở con người là một phần của văn hóa, hơn thế nó còn là một giá trị – giá trị thẩm mĩ; nó cấp thêm những tri thức bổ ích và thú vị về tình dục mà rất nhiều thế hệ, nhiều thời kì văn chương đã né tránh, bỏ qua…
HXH sinh ra và lớn lên ở thời kì phong kiến tuy đã suy tàn nhưng tư tưởng và lễ nghĩa Nho giáo còn nghiêm ngặt nặng nề. Trong bối cảnh ấy lại sừng sững, ngạo nghễ xuất hiện một nữ nhi làm thơ; làm thơ Đường thi mà lại khác lạ với Đường thi thường thấy.
Qua phân tích sơ bộ trên diện biểu kiến các biểu hiện giữa tĩnh và động, thanh và tục, có thể thấy thơ Nôm HXH đã mạnh dạn đi theo hướng của mình, chuyển dịch từ chất “đường thi” tồn tại cố hữu hàng trăm năm (tao nhã, trang trọng, mực thước) sang một phong cách thơ được Việt hoá đậm chất “dân gian” (đời thường, bình dân, cá tính). Nói theo cách ví von là, trong cái bình cổ (của thể thơ Đường), bà đã pha chế một cách nghệ thuật và “đổ” vào đấy một thứ rượu mới (đề tài, nội dung, kĩ thuật dụng ngôn, cá tính) nên hương vị không còn là “mao đài” mà đậm đà, nồng nàn hương vị tự nhiên càn khôn nhật nguyệt. Điều đó làm nên thơ HX đậm dấu ấn cá nhân, không lẫn với thơ ai khác, cùng thể thơ, trước bà hay cùng thời với bà. Mỗi người có một vân tay không ai giống ai, thì “văn là người” – văn thơ cũng có “vân chữ”, thơ HXH làm nên một thứ vân chữ, đọc lên là cảm nhận được chủ thể HXH.
Thơ Nôm HXH Việt hóa nhưng không đơn giản hóa, dân gian hóa nhưng không nôm na mách qué, sinh động nhưng không quá đà lố bịch, tính dục nhưng không tục tĩu thô thiển, phản kháng nhưng không phá phách, quyết liệt đáo để nhưng cũng rất dịu dàng, khiêm nhường… Với những đặc trưng như vậy, thơ HXH đạt tới tầm cao bằng sự giản dị, tạo ra một hệ giá trị văn chương hòa quyện vào nhau đến với mọi người, mọi thời. Qua thơ HXH, người đọc nhận thức được thời đại của nhà thơ đã trải (không gian xã hội, tâm lí thời đại, nhân tình thế thái), nhận chân được các giá trị thẩm mĩ đương thời (cái đẹp của cảnh vật, tình cảm đối với quê hương và nhân quần, nỗi buồn đau, thất vọng với cuộc đời đen bạc, khát vọng hạnh phúc, cái đẹp của sự bình dị tươi mới trong đời thường), v.v… Thơ HXH thấm đẫm lòng nhân ái, tinh thần nhân đạo, đưa con người hướng về thiện lương, về sự sáng tạo để vươn tới các giá trị hằng thường. Có thể nói, HXH là một người phụ nữ có phẩm chất đặc biệt, tư duy sắc sảo hiếm có, một tình cảm cháy bỏng và một tài thơ thiên phú, bứt phá vượt trước thời đại của mình, bám chắc vào cội rễ dân gian.
Những tác phẩm nghệ thuật lớn giống như cái bình đa diện, nhiều đáy, thậm chí là không đáy; nó vượt lên khỏi các qui chiếu cụ thể trong văn bản, tạo ra hệ quy chiếu mở trong không gian và thời gian, gợi ra nhiều chiều kích liên tưởng, từ cái hữu hạn của ngôn từ đến cái vô hạn của ý tình. Truyện Kiều của Nguyễn Du, thơ Nôm của HXH trong suốt hơn 200 năm qua và có lẽ mãi sau này đã và vẫn là như thế…
P.M.C

MỘT THIÊN CHỊCH LUẬN LẠI CÀNG NÃO NHÂN - ĐỖ ANH VŨ

 MỘT THIÊN CHỊCH LUẬN LẠI CÀNG NÃO NHÂN

(Bản Full, 18+, độc giả cân nhắc trước khi đọc)
Đỗ Anh Vũ
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cuộc sống của mỗi con người bình thường không thể thiếu các hoạt động. Các hoạt động ấy cũng là thước đo để đánh giá mức sống, chất lượng cuộc sống, vị trí xã hội, quyền lực cũng như giới hạn của mỗi cá nhân. Trong vô vàn các hoạt động khác nhau mà mỗi người phải tiến hành trong một ngày cũng như trong một đời của mình, không thể không kể đến bốn hành động được các cụ ta xưa xếp vào tứ khoái. Đó là: ăn, ngủ, đụ, ị. Bốn hoạt động này vừa là hưởng thụ cuộc sống mà cũng vừa là những hoạt động cơ bản nhất của tất cả mọi người. Bài viết này xin được tập trung bàn về hoạt động thứ ba, dựa chủ yếu vào dữ liệu ngôn ngữ và văn chương, hy vọng qua đây gợi mở ra nhiều vấn đề thú vị của văn hóa tộc người.
2. NỘI DUNG CHÍNH
2.1. KHÁI NIỆM
Trong tứ khoái vừa kể, nếu như các nhu cầu ăn, ngủ, bài tiết được xem là những nhu cầu có thiên hướng vật chất để duy trì sự sống tối thiểu cho một sinh thể thì nhu cầu còn lại – hoạt động tính dục – lại mang trong nó nhiều yếu tố của cảm xúc, của thế giới tinh thần mỗi con người. Theo Tử điển Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, hoạt động tính dục có thể hiểu theo một nghĩa rộng, bao gồm toàn bộ cách thức mà con người trải nghiệm và thể hiện tính dục của họ, bao gồm các hoạt động tình dục một mình (thủ dâm) đến các hành vi thực hiện trên người khác (tình dục đồng tính, tình dục khác giới với các cấp độ). Bài viết này, chỉ tập trung khảo tả vào loại tình dục khác giới – loại tình dục được coi là có tính truyền thống nhất trong lịch sử nhân loại, từ đó để duy trì nòi giống cho con người.
Hoạt động tính dục, đương nhiên, không chỉ mang ý nghĩa duy trì nòi giống mà nó còn gắn với một phạm trù có tính thiêng liêng, đó là TÌNH YÊU. Về cơ bản, hoat động tính dục theo phạm vi chúng tôi vừa nêu có thể được định nghĩa là sự giao tiếp bộ phận sinh dục ngoài của nam giới (giống đực) với bộ phận sinh dục của nữ giới (giống cái). Hoạt động tính dục được diễn ra cả ở người cũng như đa số các loài động vật. Trong tiếng Việt, so với các hoạt động sinh hoạt đời thường, tính dục có lẽ là hoạt động có nhiều hình thức gọi tên hơn cả.
2.2. CÁC ĐƠN VỊ GỌI TÊN HOẠT ĐỘNG TÍNH DỤC
Theo thống kê (có thể chưa đầy đủ) của chúng tôi, người Việt có tới 59 cách gọi tên hoạt động tính dục, sắp xếp theo thứ tự alphabet như sau: ăn, ăn nằm, ân ái, bắn pháo hoa, bem, bóc tem, chén, chịch, chiến, cưỡng hiếp, cưỡng dâm, dập xà lỗ, dùi, đá, đâm, đéo, địt, đóng, đóng gạch, động phòng, đụ, đục, giã, giao cấu, giao hoan, giao hợp, giao phối, hạ chày, hấp diêm, hợp hoan, hiếp, hiếp dâm, hủ hóa, khoan, lái máy bay, làm tình, làm nhục, làm thịt, mây mưa, múc, nện, ngủ, phá trinh, phang, phập, phệt, phi lõi ngô, phịch, sạc pin,xe chỉ luồn kim, tẩn, tỉn, thông, thụt, uỵch, xiên, xoạc, xơi, xúc than.
Đứng về mặt cấu tạo, có thể chia 59 đơn vị trên thành ba nhóm: nhóm từ đơn, nhóm từ ghép và nhóm cụm từ qua bảng sau đây:
Nhóm từ đơn: ăn, bem, bóc tem, chén, chịch, chiến, dùi, đá, đâm, đéo, địt, đóng, đụ, đục, giã, hiếp, khoan, múc, nện, ngủ, phang, phập, phệt, phịch, tẩn, tỉn, thông, thụt, uỵch, xiên, xoạc, xơi
Nhóm từ ghép: ăn nằm, ân ái, cưỡng hiếp, cưỡng dâm, động phòng, đóng gạch, giao cấu, giao hoan, giao hợp, giao phối, hạ chày, hấp diêm, hợp hoan, hiếp dâm, hủ hóa, làm nhục, làm thịt, làm tình, mây mưa, phá trinh, sạc pin, xúc than.
Nhóm cụm từ: bắn pháo hoa, dập xà lỗ, lái máy bay, phi lõi ngô, xe chỉ luồn kim.
Nhìn vào số liệu thống kê, có thể thấy nhóm từ đơn chiếm số lượng lớn nhất với 32 đơn vị (54%), tiếp đến là nhóm từ ghép với 22 đơn vị (37%) và cuối cùng là nhóm cụm từ với 5 đơn vị (9%). Trong ngôn ngữ sinh hoạt đời thường, có thể thấy người Việt có thiên hướng diễn tả hoạt động tính giao bằng một từ đơn. Trong 31 đơn vị từ đơn thống kê ở trên, theo chúng tôi chỉ có 3 đơn vị mang tính cổ mẫu (có thể coi là các đơn vị gốc), đó là đéo, địt và đụ. Các đơn vị còn lại là những đơn vị xuất hiện trong quá trình phái sinh, chuyển nghĩa của từ. Trong những đơn vị còn lại ấy, lại có thể chia thành các nhóm nhỏ hơn
- Nhóm coi hành động tính dục như một sự hưởng thụ giống như ẩm thực, bao gồm 3 đơn vị: ăn, chén, xơi
- Nhóm coi hành động tính dục như một quá trình tác động lực gồm 21 đơn vị: bem, chịch, chiến, dùi, đá, đâm, đóng, đục, giã, khoan, múc, nện, phang, phập, phệt, tẩn, tỉn (chúng tôi coi là một biến âm của “tẩn”), thông, thụt, uỵch, xiên, xoạc. Trong đó, có những đơn vị vốn xuất phát điểm là một tính từ mô phỏng âm thanh (uỵch), có những đơn vị mới xuất hiện khoảng trên dưới chục năm trở lại đây, bắt nguồn từ cách dùng của giới trẻ (chịch, xoạc). Có 4 đơn vị mang tiền giả định về vật tác động lực là vật có đầu nhọn: khoan, dùi, đục, xiên. Riêng động từ đá chỉ mang nghĩa hoạt động tính dục trong ngữ cảnh đá phò, tức là ngủ với gái điếm. Những đơn vị nói trên còn có một nét nghĩa ngầm ẩn nữa, đó là quá trình tác động lực được nhìn nhận chủ yếu từ phía người nam, chỉ có một đơn vị mang tính trung hòa là chiến. Điều thú vị là người Việt gần như không dùng từ “đánh” để diễn tả hoạt động tính dục dù từ “đánh” được xem là đơn vị gốc cho việc biểu thị ý nghĩa tác động lực. Vì thế, có thể thấy người Việt coi hoạt động tính dục là một quá trình tác động lực đặc biệt, mang trong nó nhiều cảm xúc riêng chứ không chỉ đơn thuần là tác động vật lý, tác động cơ giới như “đánh”.
- Nhóm coi hành động tính dục là một hoạt động bình đẳng như các hoạt động khác của một cơ thể sống, gồm 1 đơn vị: ngủ
- Nhóm xác định hoạt động tính dục ở đây có sắc thái cưỡng ép, không có sự đồng thuận của cả hai bên, gồm 1 đơn vị: hiếp. Đây cũng đồng thời là đơn vị có nguồn gốc vay mượn từ tiếng Hán.
Trong nhóm từ ghép, có tới 12 đơn vị vay mượn từ gốc Hán, trong đó có ba đơn vị chỉ hoạt động tính dục không đồng thuận (cưỡng hiếp, cưỡng dâm, hiếp dâm), một đơn vị nay đã trở thành từ cổ (hủ hóa), gần như không còn sử dụng trong tiếng Việt đương đại, còn lại 9 đơn vị khác được sử dụng tùy theo các hoàn cảnh khác nhau, trong đó giao cấu và giao phối chủ yếu dùng cho động vật, còn lại 6 đơn vị dùng cho người: ân ái, động phòng (dùng cho vợ chồng mới cưới, đêm tân hôn), giao hoan, giao hợp, hợp hoan, phá trinh. Trong các đơn vị thuần Việt của nhóm từ ghép, ăn nằm là đơn vị được cấu tạo và biểu nghĩa theo lối hoán dụ, dùng hai hành động thân mật để đại diện cho hành động tính giao, đóng gạch, hạ chày, xúc than, sạc pin là bốn đơn vị cấu tạo và biểu nghĩa theo lối ẩn dụ, trong đó hạ chày ngầm ví bộ phận sinh dục của người đàn ông như cái chày, đóng gạch tạo một liên tưởng đưa gạch vào lò, xúc than gợi không gian làm việc tối, ẩm và công việc nặng nhọc, sạc pin biểu thị hành động cắm đầu sạc vào lỗ. Bóc tem (tương đương với phá trinh) chỉ việc người đàn ông được ân ái với cô gái còn trinh trắng, mà từ bem được coi như một biến thể rút gọn của bóc tem, qua việc kết hợp phụ âm đầu /b/ với phần vần /em/. Hấp diêm là cách nói lái của “hiếp dâm”, mây mưa xuất phát từ điển tích Sở Tương Vương đến chơi đất Cao Đường, giữa ban ngày ngủ quên, bỗng nằm mơ thấy một người con gái tuyệt sắc, xưng là thần núi Vu Sơn, cùng nhau bày cuộc ân ái. Khi chia tay, nàng bảo rằng: “Thiếp ở trên núi Vu Giáp, nơi cao sơn, sớm làm mây tối làm mưa, sớm ở Vu Sơn tối ở Dương Đài”. Từ đó, người ta hay dùng từ “mây mưa” để chỉ việc trai gái giao tình ân ái với nhau.
Trong nhóm cụm từ, cả 5 đơn vị đều được cấu tạo và biểu nghĩa theo lối ẩn dụ. Bắn pháo hoa thực ra là một cách nói biểu trưng cho giai đoạn cuối của hành động tính giao, lấy giai đoạn đó làm đại diện cho toàn bộ quá trình hoạt động. Dập xà lỗ là cách nói xuất phát từ dân chơi thể thao, mô phỏng hành động tính giao như người chơi xà kép, lái máy bay chỉ việc người đàn ông ít tuổi có quan hệ tính giao với người phụ nữ nhiều tuổi hơn mình, phi lõi ngô là cách nói khẩu ngữ, ngầm ví bộ phận sinh dục của người đàn ông như cái lõi ngô. Xe chỉ luồn kim vốn là đơn vị mang tính thành ngữ, cũng là tên một bài dân ca Bắc Bộ nổi tiếng, được sử dụng linh hoạt trong trường hợp này với một so sánh ngầm: hai bộ phận sinh dục của nam và nữ giống như sợi chỉ và lỗ kim.
Trên đây là 59 cách diễn đạt/ gọi tên khá thông dụng và phổ biến trong đời sống sinh hoạt cũng như trong nhiều văn bản của người Việt. Bên cạnh đó, khi miêu tả về hoạt động tính dục của loài vật, người Việt có thêm những cách diễn đạt khác. Chẳng hạn khi nói về hoạt động tính dục của loài chó, người Việt sẽ dùng chữ ‘đi tơ”, khi nói về hoạt động tính dục của loài gà, người Việt sẽ có cách nói “nhảy mái” hoặc “đạp mái”.
2.3. BIỂU ĐẠT TÍNH DỤC TRONG VĂN HỌC DÂN GIAN NGƯỜI VIỆT
Hoạt động tính dục đã đi vào tục ngữ ca dao người Việt với nhiều biểu hiện sinh động. Trong nhiều đơn vị tục ngữ, ông cha ta không ngần ngại gọi thẳng tên các bộ phận sinh dục của nam và nữ:
Nhất ăn nhì mặc ba đút cặc vô lồn
Lồn nào mà chẳng có lông
Buồi nào mà chẳng muốn tông vào lồn.
Câu chuyện tính dục trong những câu vừa dẫn được nói đến một cách tự nhiên như nhu cầu thường ngày của cuộc sống, đặt nó ngang tầm với chuyện ăn chuyện mặc. Nhu cầu về tính dục, mang trong nó tình cảm của con người, cũng có thể xem như một quy luật của tâm lý, của cảm xúc. Nhiều biểu hiện khác về hoạt động tính dục trong văn học dân gian còn mang sắc thái hài hước bông đùa:
Lồn này lồn chẳng sợ ai
Sợ thằng say rượu đụ dai đau lồn.
Trong quan hệ vợ chồng, hoạt động tính dục được xem là nhân tố quan trọng tạo sự hòa giải những căng thẳng xung đột, giúp vợ chồng dễ thông cảm và gắn bó với nhau nhiều hơn:
Mù u ba lá mù u
Vợ chồng cãi lộn, con cu giải hòa.
Vợ chồng trục trặc lấy cặc mà xoa
Tình dục là thước đo sức khỏe, tình cảm của người chồng:
Thương chồng nấu cháo bồ cu
Chồng ăn chồng đụ như tru phá ràn.
Ngay trong chuyện vợ chồng, không phải lúc nào người chồng có nhu cầu thì cũng được đáp ứng ngay bởi người phụ nữ ở nông thôn Việt thuở xưa đầu tắt mặt tối với bao chuyện đời thường. Bài ca dao bốn câu sau nói lên điều ấy:
Đang cơn lửa tắt cơm sôi
Lợn kêu con khóc chồng đòi tòm tem
Bây giờ lửa đã nhóm lên
Lợn no con nín tòm tem thì tòm.
Bên cạnh đó, tình dục trong con mắt người bình dân có khi còn là một hoạt động mang tính giải trí, thư giãn:
Các bác giàu, sâm nhung quế phụ
Chúng em nghèo lấy đụ làm vui.
Hoạt động tính dục đôi khi gắn với việc phê phán thói đa dâm, lẳng lơ, thiếu đoan chính của người phụ nữ:
Chữ trinh đáng giá ngàn vàng
Từ anh chồng cũ đến chàng là năm
Còn như yêu vụng nhớ thầm
Họp chợ trên bụng hàng trăm con người.
Cũng có khi, việc người phụ nữ có quan hệ với một người đàn ông khác ngoài chồng của mình chỉ là việc bất đắc dĩ, do những thúc ép của đời sống. Điều này cũng được phản ánh trong ca dao:
Có chồng thì mặc có chồng
Còn đi chơi trộm kiếm đồng mua rau.
Không chỉ quan sát và kể những câu chuyện về hoạt động tình dục của con người, người bình dân Việt Nam còn để ý tới cả hoạt động tình dục của loài vật. Câu tục ngữ Gà địt vịt đụ rõ là một tổng kết, quan sát của người lao động, nhận thấy con gà làm chuyện đó thì rất nhanh, còn con vịt thì làm chuyện đó lâu hơn con gà nhiều.
Hoạt động tính dục trong văn học dân gian đôi khi chỉ là cái vỏ bên ngoài, là phần nổi của vỏ ngôn ngữ. Cái đích thực lại nằm ở tầng nghĩa bên dưới. Đó là trường hợp những câu đố tục giảng thanh của người Việt, thể hiện cái nhìn hài hước, ngộ nghĩnh về thế giới xung quanh, cũng là một cách để giải trí, xua tan căng thẳng mệt mỏi sau những giờ làm việc:
Ba bà mà dạng chân ra
Một ông đứng giữa mà tra cặc vào
(Giải đố: cái gầu sòng tát nước)
Lù lù như mu lồn chị
Lị xị như đầu buồi tôi
Ngày thời đi khắp mọi nơi
Đêm đêm lại chui vào mu lồn chị
(Giải đố: con rùa)
Ông nằm dưới
Chổng cặc lên
Bà nằm trên
Rên ư ử
(Giải đố: cái cối xay)
Nhiều câu chuyện trong kho tàng tiếu lâm Việt Nam cũng đem hoạt động tính dục ra làm đề tài để tạo nên những tiếng cười sảng khoái cho người lao động.
Tóm lại, văn học dân gian người Việt đã bàn về hoạt động tính dục một cách khá thoải mái, tự nhiên, không hề có sự kiêng dè e ngại ngay cả khi gọi tên các bộ phận sinh dục của nam và nữ một cách chính danh. Trong con mắt người bình dân Việt Nam, tính dục là một hoạt động bình thường như bao hoạt động khác, họ có thể nói về nó như một hưởng thụ cuộc sống, lại cũng có thể đem nó ra để trêu đùa, mua vui, tạo nên những câu chuyện, những cách nhìn thú vị về đời sống. Dĩ nhiên, hoạt động tính dục cũng gắn với đạo đức của con người, vì thế cũng có những câu mang tính chất phê phán, lên án thói không đoan chính, bừa bãi lăng loàn trong quan hệ nam nữ. Sau cùng, hoạt động tính dục rõ ràng là thứ không thể thiếu trong việc duy trì hạnh phúc, sự êm ấm gắn bó của mỗi gia đình, mỗi cặp vợ chồng.
2.4. BIỂU ĐẠT TÍNH DỤC TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM
Miêu tả hoạt động tính dục từ văn học dân gian sang văn học thành văn kéo theo một thay đổi lớn lao về mặt thi pháp. Các bộ phận sinh dục sẽ không được gọi tên một cách chính danh nữa, thay vào đó sẽ là những miêu tả mang tính chất đường viền, giống như thủ pháp của điện ảnh sau này, từ đó làm nổi bật lên hoạt động trung tâm. Mặt khác, khi những miêu tả hoạt động tính dục đều gắn với cảm xúc tích cực, cụ thể là tình yêu nam nữ, thì những phân đoạn như vậy sẽ mang tính chất ngợi ca: ngơi ca vẻ đẹp thân thể con người, ngợi ca vẻ đẹp của tình yêu. Hoa viên kỳ ngộ (khuyết danh), được sáng tác cuối thời Lê, sau niên hiệu Cảnh Hưng (1940) được xem là tiểu thuyết viết về hoạt động tính giao táo bạo nhất trong lịch sử văn học trung đại Việt Nam. Tác phẩm kể về chuyện tình giữa Triệu Kiệu với Lan Nương và Huệ Nương – hai con gái của quan Ngự sử họ Kiều. Tác giả dành nhiều đoạn tả về cảnh ân ái của Triệu Sinh và Lan Nương, Huệ Nương, có khi cùng một lúc yêu cả hai nàng, rồi thêm cả những cuộc yêu với hai thị nữ của Lan Nương, Huệ Nương là Xuân Hoa và Thu Nguyệt. Xin được dẫn hai đoạn tiêu biểu:
“Trong khi giao hợp chỉ thấy sen vàng nửa dựng, mình ngọc sát kề, mắt lim dim mà đùi ngọc nhịp nhàng, hồn phiêu diêu mà lưỡi như vừa nhú, lòng hoa mới biết má nghiêng như Hằng Nga giữa tháng, miệng đào ngậm thơm, mày chau như Tây Thi lâm bệnh”
“Rồi đẩy ngã vào trong đệm, phỉ sức mây mưa. Xong rồi Sinh lại kéo Lan, Lan cũng không chống lại. Bắt chước theo hình dáng chim âu chim vụ, phỏng học theo tư thái uyên ương, quả là niềm cực lạc trong cõi nhân gian. Sau đó đến Xuân Hoa. Lúc Xuân Hoa giao hợp với Sinh, lòng xuân rạo rực, mặc cho Sinh muốn làm gì, không hề mảy may khó khăn. Sau đó đến Nguyệt, Nguyệt không chịu. Sinh nói: “Đất đai trong thiên hạ, mười phần ta đã có được tám chín, nay chỉ còn mảnh đất nhỏ bằng viên đạn, sao dám chống cự vương sư?”. Rồi bế vào trong đệm, mặc sức mây mưa. Hoa binh nguyệt trận, nhung mã tung hoành. Giao hoan xong, Sinh lại cùng hai nàng đối ẩm”.
Sang đến nửa cuối thế kỷ 18, Nguyễn Gia Thiều trong Cung oán ngâm khúc cũng dành những câu thơ để miêu tả cảnh ân ái giữa vua và cung nữ, khi người cung nữ mới vào cung, được vua sủng ái:
Cái đêm hôm ấy đêm gì
Bóng dương lồng bóng đồ mi trập trùng
Chồi thược dược mơ mòng thụy vũ
Đóa hải đường thức ngủ xuân tiêu
Cành xuân hoa chúm chím chào
Gió xuân thôi đã cợt đào ghẹo mai
Xiêm nghê nọ tả tơi trước gió
Áo vũ kia lấp ló trong trăng
Sênh ca mấy khúc vang lừng
Cái thân Tây Tử lên chừng điện Tô
Đêm hồng thúy thơm tho mùi xạ
Bóng bội hoàn lấp ló trăng thanh
Mây mưa mấy giọt chung tình
Đình trầm hương khóa một cành mẫu đơn.
So sánh giữa Cung oán ngâm khúc và Hoa viên kỳ ngộ, có thể thấy những miêu tả ân ái trong thơ có sự cách điệu nhiều hơn so với văn xuôi. Mặc dù vẫn có những từ khá trực chỉ như “mây mưa”, xong các hình ảnh ẩn dụ được sử dụng nhiều hơn: bóng dương (chỉ nhà vua), bóng đồ mi, chồi thược dược, đóa hải đường (chỉ cung nữ). Các hình ảnh như xiêm nghê tả tơi, áo vũ lấp ló là những miêu tả vừa hiện thực vừa gợi cảm cho một cuộc giao hoan.
Trong kiệt tác Truyền Kiều, đại thi hào Nguyễn Du cũng dành bốn câu thơ nói về việc Thúy Kiều bị thất thân với Mã Giám Sinh với bao xót xa bẽ bàng:
Thương thay một đóa trà mi
Con ong đã tỏ đường đi lối về
Một cơn mưa gió nặng nề
Thương gì đến ngọc tiếc gì đến hương.
Hồ Xuân Hương lại là một trường hợp rất đặc biệt của văn học trung đại Việt Nam với nhiều bài thơ có tính lấp lửng hai mặt. Vừa miêu tả một thực tại khách quan nào đó, lại vừa lấp ló chuyện trai gái, từ bộ phận sinh dục cho đến các hoạt động tính giao. Có thể chỉ ra một loạt các câu thơ trong những bài thơ tiêu biểu như: Ốc nhồi, Quả mít, Đánh đu, Đánh cờ, Dệt cửi đêm…, mà ở đó hoạt động tính giao là tầng nghĩa buộc độc giả phải liên tưởng:
Quân tử có thương thì bóc yếm
Xin đừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi,
Quân tử có thương thì đóng cọc
Xin đừng mân mó nhựa ra tay,
Cọc nhổ đi rồi lỗ bỏ không,
Chàng lừa thiếp khi đương bất ý
Đem tốt đầu dú dí vô cung,
Hai chân đạp xuống năng năng nhắc
Một suốt đâm ngang thích thích mau…
Tài năng ngôn ngữ và giá trị các tác phẩm của Hồ Xuân Hương là điều đã được nhiều người bàn tới, chúng tôi chỉ xin nhắc lại một tinh thần quan trọng mà Đỗ Lai Thúy là người đã nhiệt thành khẳng định, đó là các tác phẩm của Hồ Xuân Hương dựa trên một nền tảng triết lý mang đậm dấu ấn văn hóa cổ truyền: sự hoài niệm về tín ngưỡng phồn thực của cư dân bản địa.
2.5. BIỂU ĐẠT TÍNH DỤC TRONG VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM
2.5.1. GIAI ĐOẠN TRƯỚC 1945
Những miêu tả về tính dục nói chung, về hoạt động tính dục nói riêng, luôn là một mời gọi và thách thức đối với tất cả các tác giả sáng tác văn chương của mọi thời kỳ. Việc miêu tả những ái ân nam nữ, nếu nhìn trong suốt chiều dài lịch sử văn học Việt Nam, không phải không có ít nhiều những cấm kỵ bởi những quy định lễ giáo khắt khe cũng như các đặc điểm mang tính chất hệ hình thi pháp mà không phải tác giả nào cũng có thể vượt qua. Nói cách khác, những miêu tả hoạt động tính dục cần phải được thể hiện một cách có tính nghệ thuật, người nghệ sĩ cần biết huy động một lực lượng ngôn từ gợi cảm, mang tính gián tiếp để thể hiện những miêu tả ấy. Bước sang nửa đầu thế kỷ 20, khi làn gió phương Tây thổi đến một cách mạnh mẽ, sự giải phóng cá nhân được để cao, những miêu tả về tình ái trong văn chương được cởi mở hơn rất nhiều, song không phải ai cũng có đủ bản lĩnh và tài năng để đi đến tận cùng trong những miêu tả ân ái. Xét trong nửa đầu thế kỷ 20, chúng tôi muốn nói đến trước hết hai trường hợp: Tỳ bà truyện của Nguyễn Bính và Chí Phèo của Nam Cao.
Tỳ Bà truyện là một truyện thơ lục bát dài 1548 câu và cũng là tác phẩm có dung lượng đồ sộ nhất trong sự nghiệp thi ca của Nguyễn Bính. Tác phẩm tham dự Giải Văn học Nam Xuyên năm 1944 và dành giải Nhất. Nguyễn Bính viết Tỳ Bà truyện với cốt truyện mô phỏng từ vở tuồng Tỳ Bà ký của Cao Minh (đời Thanh), kể về câu chuyện Thái Bá Giai kết hôn với Triệu Ngũ Nương, nhờ nàng vất vả nuôi cho ăn học và sau đó lên kinh thi đậu Trạng nguyên. Thái Bá Giai sau khi đỗ đạt, ở kinh đô đã cưới vợ mới là Ngọc Nương, con quan Ngưu thừa tướng. Triệu Ngũ Nương về sau lên kinh đô tìm chồng nhưng chồng không nhận, nàng buồn rầu cắn máu tay viết một bài thơ lên bức tranh có hình cha mẹ chồng, nhờ sư ông chuyển bức tranh tới chồng mình là trạng nguyên Thái Bá Giai,còn bản thân thì xuống tóc đi tu và từ đó không ai nhìn thấy nàng nữa. Một trong những điểm độc đáo về nghệ thuật của tác phẩm là Nguyễn Bính dành tới ba đoạn để miêu tả các cảnh ân ái giữa Thái Bá Giai với Triệu Ngũ Nương, Thái Bá Giai và Ngọc Nương với một bút pháp đặc sắc. Chúng ta hãy cùng đi vào đoạn sex thứ nhất (20 câu) của Tỳ Bà truyện:
Bên ngoài mưa gió mùa đông
Lò than đã nguội sáp hồng sắp vơi
Màn the đôi cánh buông rồi
Chăn hương gối phấn một trời phấn hương
Mắt ngà men rượu yêu đương
Thái sinh dần rõ Ngũ Nương nõn nà
Tóc nhung viền suốt thân ngà
Nhụy hồng e ấp tình hoa đầu mùa.
Rùng mình như nếm mơ chua
Cái tê tái muốn vỡ bờ hợp hoan
Nóng sôi ý phượng tình loan
Hỡi ôi! bó thắt đôi làn cánh tay
Thèm mà nín, khát mà say
Xốn xang nhựa mạnh tuôn đầy búp tơ
Mày cao hai má chín nhừ
Tân nhân ứa lệ hoen mờ mắt xanh
Thoắt mà đêm đã tàn canh
Sáng bong bóng cá qua mành mưa bay
Nhành hoa tươi ngại ánh ngày
Tiếng gà ướt mượt giọng đầy nước mưa.
Trừ 4 câu đầu mang tính chất “mở màn, dẫn nhập”, 16 câu sau đích thực tả một cảnh phòng the từ lúc mở đầu đến lúc kết thúc. Sự khác biệt cơ bản giữa dâm thư thô tục và văn học chính thống là ở chỗ nhà văn phải biết huy động ngôn từ như một trường cộng hưởng đồng thời thể hiện theo con đưòng gián cách mà tránh không được tả chân. Nguyễn Bính đã làm được điều đó trong đoạn thơ trên qua việc huy động một loạt các danh từ, động từ và tính từ chỉ bối cảnh cảm giác giao hoan: sáp hồng, chăn gối, màn the, phấn hương, men rượu, buông (màn), e ấp, rùng mình, tê tái, vỡ bờ, nóng sôi, bó thắt, thèm, khát, say, xốn xang, mạnh, tuôn, chin nhừ, ứa lệ, ướt mượt. Riêng 3 câu cuối còn dùng thủ pháp của điện ảnh, không quay trực tiếp hình ảnh trung tâm mà quay những cảnh ngoại biên để làm rõ tinh thần muốn thể hiện. Riêng cách diễn đạt “giọng đầy nước mưa” quả là một sáng tạo mang thương hiệu Nguyễn Bính. Và tiếp theo là đoạn sex thứ hai gồm 22 câu:
“Ngọc Nương môi mọng yên chi
Áo xiêm tuần tự biệt li thân ngà
Cổ tay nõn tháo vòng ra
Rút trâm tóc xổ màu da thêm nồng
Đường cong ôi những đường cong
Đến đong đưa đến não nùng đến hay
Cao cao thôi lại dày dày
Trắng trong màu tuyết tròn đầy gương nga
Thái sinh rạo rực tình hoa
Ôi con bướm lại lân la nhụy đào
Hoa xuân đêm mới nghẹn ngào
Người đen bạc lại đắm vào phấn son
Cành tơ nõn, búp xuân tròn
Mày cong nét liễu môi son hình thuyền
Khó khăn cũng thể lên tiên
Xót xa cũng thể thuyền quyên gặp chồng
Lụa đào xé lẻ hư không
Cái son mất mát cái hồng ngổn ngang
Chúa xuân sao nỡ vội vàng
Tình xuân gắn chặt cánh màn lan tiêu
Chán chường gối lệch chăn xiêu
Tay non rời rã nét kiều châu chan”.
Ở trường đoạn thứ hai này, ta thấy bút pháp của Nguyễn Bính tỏ ra bạo hơn, mạnh dạn hơn qua việc tả trực tiếp nhiều cận cảnh, nhiều vùng nhạy cảm trên thân thể một bông hoa biết nói: môi mọng, áo xiêm biệt li, cổ tay nõn, màu da hồng, những đường cong, cao cao dày dày. Nhưng nhà thơ cũng chỉ dừng tại đây mà không thể tả chân nhiều hơn nữa. Cánh diễn đạt lập tức chuyển sang nghệ thuật gián cách với những hình ảnh ẩn dụ, ít nhiều mang màu sắc ước lệ: tình hoa, con bướm, nhuỵ đào, hoa xuân đêm mới, phấn son, nét liễu, hình thuyền, tình xuân, màn lan tiêu. Hai câu cuối đoạn là đỉnh điểm của một cuộc phong tình, lại quay trở về với giọng tả thực song có điểm thêm vài từ hoa mỹ (non, kiều, châu chan), tạo nét nhã cho sự diễn đạt: Chán chường gối lệch chăn xiêu/Tay non rời rã nét kiều châu chan.
Và cuối cùng là đoạn thứ ba với 14 câu, như một “hiệp 2” của cuộc ân ái giữa Thái Bá Giai và vợ mới Ngọc Nương:
Đêm xuân ai bảo là dài
Đã tàn bóng sáp đã phai hương trầm
Má hồng là đá nam châm
Tu mi là sắt để nằm cạnh nhau
Bình cam lộ, ánh lưu cầu
Trộn chung hai suối một màu mây xanh
Não người những nét đồng trinh
Thân tơ lả lả lửa tình xiêu xiêu
Dâng lên như nước thuỷ triều
Hoa nuông ý bướm bướm chiều tình hoa
Sáp không ai nối nữa mà
Động phòng bỗng chốc chan hoà bóng đêm
Tiếng xô chăn gối êm đềm
Nhỏ to hơi ngắn giọng mềm lả lơi.
Bút pháp của đoạn thứ ba này chia ra hai phần, 10 câu đầu sử dụng ước lệ và các ẩn dụ mang phong cách cổ điển, kết hợp với một số diễn đạt theo kiểu so sánh. Có thể kể ra các từ ngữ gợi cảm điển hình như: bóng sáp, hương trầm, má hồng, tu mi, cam lộ, lưu cầu, hai suối, đồng trinh, thân tơ, lửa tình, hoa, bướm. Ở 4 câu tiếp theo, Nguyễn Bính từ bỏ bút pháp ước lệ, ông dùng phép tả thực nhưng khúc xạ tinh tế qua hai lăng kính, đó là thời gian và âm thanh. Thời gian lúc này thuộc về bóng đêm, khi sáp đã “không ai nối”. Âm thanh từ “động phòng” đã đi đến chỗ được miêu tả “cận cảnh” hơn với “tiếng xô chăn gối” và “nhỏ to hơi ngắn giọng mềm lả lơi”. Có thể hình dung hai câu cuối này được “thiết kế”, “sắp đặt” như một phép hoán dụ, qua đó, nhà thơ dùng âm thanh phòng the để tả cho một cuộc ái ân. Âm điệu dặt dìu của thể thơ lục bát khiến câu thơ như tình tứ hơn, quyến rũ hơn, chìm lắng mà miên man…Với ba đoạn thơ sex gồm 56 câu mà chúng tôi đã giới thiệu, Nguyễn Bính, có thể nói, là một trong những thi sĩ đã thể hiện những đóng góp, đổi mới rất táo bạo về mặt thi pháp trong thời kỳ Thơ mới (1932 - 1945), cụ thể là qua những miêu tả về sex, về tính dục trong thơ.
Còn với Chí Phèo của Nam Cao, những ai đã từng đọc thiên truyện kiệt tác này hẳn không thể quên đoạn miêu tả Chí Phèo làm tình với Thị Nở ngoài vườn chuối:
“Chí Phèo vẫn say say nhìn và run run. Bỗng nhiên hắn rón rén lại gần Thị Nở: lần đầu tiên hắn rón rén từ khi về làng…Và Thị Nở giật mình. Thị Nở mới kịp giật mình thì thằng đàn ông đã bám lấy thị (…) Thị vừa thở vừa vật nhau với hắn, vừa hổn hển: “Ô hay…Buông ra…Tôi kêu…Tôi kêu làng…Buông ra. Tôi kêu làng lên bây giờ”. Thằng đàn ông phì cười. Sao thị lại kêu làng nhỉ? Hắn vẫn tưởng chỉ có hắn mới kêu làng thôi; người ta lại kêu tranh của hắn, bỗng nhiên hắn la lên, kêu làng (…) Thị Nở bỗng nhiên bật cười. Thị Nở vừa rủa vừa đập tay lên lưng hắn. Nhưng đó là cái đập yêu, bởi vì đập xong, cái tay ấy lại giúi lưng hắn xuống. Và chúng cười với nhau…Bây giờ thì chúng ngủ bên nhau…Đứa trẻ bú no thì ngủ. Người ta ngủ say sau khi làm việc yêu. Chúng ngủ như chưa bao giờ được ngủ…”
Đoạn văn vừa dẫn dù chỉ chiếm một phần dung lượng ít ỏi so với dung lượng tổng thể tác phẩm nhưng lại mang ý nghĩa vô cùng quan trọng: dẫn dắt con đường tìm về lương thiện, trở lại nhân tính của Chí Phèo.
Vẫn trong giai đoạn trước 1945, còn phải kể đến các miêu tả tính dục trong các tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng. Nếu như ở các tác phẩm của Nguyễn Bính và Nam Cao vừa dẫn ở trên, ta bắt gặp các miêu tả về tình dục đồng thuận thì cho tới Vũ Trọng Phụng, ta gặp cả những miêu tả về tình dục không đồng thuận, cụ thể là vụ hiếp dâm của Nghị Hách với Thị Mịch trên xe ô tô:
“Giọng quan vẫn ngọt ngào: - Con im, không được cưỡng…- Giời ơi, lạy ông! Ông đừng làm hại một đời tôi! – Im ngay! Quan sẽ cho nhiều tiền…- Bỏ ra! Ái! – Im cho ngoan nào…- Ối giời đất ơi! Ối làng nước…Trong cái tối lờ mờ của hòm xe, một cái thân thể vạm vỡ giày vò trên một cái thân thể mảnh dẻ giãy giụa hết sức mà không được…Những tiếng động, những tiếng thở ì ạch như đánh vật…Sau chỉ còn có tiếng rên rỉ khe khẽ của đàn bà. Sau cùng thì là tiếng khóc, lúc sì sụt lúc rưng rức…”.
Vũ Trọng Phụng còn có những đoạn miêu tả ân ái khác giữa Mịch với Long, giữa Long với Tuyết trong Số đỏ, giữa Lưu và Huyền, Huyền và Tân trong Làm đĩ. Tất cả những phân đoạn ấy đều gắn với diễn biến tâm lý và số phận nhân vật, là một tất yếu logic phải đến trong quá trình diễn biến của tác phẩm.
Từ 1945 đến 1975, đất nước trải qua hai cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại, các tác phẩm văn học đồng hành cùng kháng chiến, có nhiệm vụ trọng tâm là phản ánh cuộc kháng chiến, thế nên những trang văn miêu tả hoạt động tính dục ít có cơ hội được xuất hiện. Những cởi mở trong các miêu tả tình dục, tình yêu chỉ trở lại ở thời kỳ sau 1975, khi đất nước đã hòa bình, đặc biệt là sau Đổi Mới 1986.
2.5.2. GIAI ĐOẠN SAU 1975
Nỗi buồn chiến tranh – cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của Bảo Ninh, đã được dịch và giới thiệu ở hơn 20 quốc gia trên thế giới, có thể nói là tiểu thuyết đầu tiên sau Đổi Mới đưa ra môt cái nhìn khác về chiến tranh, tô đậm những buồn đau, mất mát, khổ đau, bi kịch của con người. Và Bảo Ninh không ngần ngại trong những lúc cần phải miêu tả về tính dục. Phương, nhân vật nữ chính của tác phẩm đã bị hãm hiếp trong chuyến tàu Nam tiến, khi cố đi theo Kiên. Phương bị cưỡng hiếp trong sự bất lực của Kiên để rồi sau đó cô như trở thành một con người khác hẳn, bản thân Kiên cũng nhận lấy đầy thương tổn và buồn đau, muốn quên đi quá khứ mà không thể. Bảo Ninh trong toàn bộ tiểu thuyết này đã chọn một lối viết mà giới phê bình gọi là “dòng tâm tưởng”, tức là các câu chuyện, tình tiết, sự kiện không đi theo trật tự tuyến tính mà đan xen nhau tùy theo tâm trạng của người kể chuyện. Phân đoạn Phương bị hãm hiếp vì thế cũng bị cắt vụn ra chứ không miêu tả liền mạch. Và Bảo Ninh đã chọn cách miêu tả ngoại hình và trạng thái của Phương để nói về bi kịch mà cô vừa trài qua trước đó, chứ không đi vào miêu tả trực tiếp cảnh Phương bị hãm hiếp:
“Phương đang ngồi, có lẽ ngửa lưng dựa vào chồng bao gạo, hai chân co lại, mặt úp xuống hai cánh tay trần khoanh trên đầu gối, tóc xõa ra phủ kín vai (…) Phương ngẩng lên, hai má nhợt nhạt, như là gầy hóp đi – một gương mặt lạ lẫm hầu như không quen biết. Ngực áo cộc tay mở toang hết cúc, cổ bị những vết xước (…) Kiên đưa hai tay khép hai vạt áo của Phương lại, định cài, nhưng chẳng còn sót chiếc cúc nào, đứt cả rồi. Nịt vú trật ra, một bên dải đeo sa xuống. Sợ hãi, lóng cóng, run rẩy các ngón tay. Kiên kéo lại, cài lại, che lại cho Phương (…) Phương khép vội hai chân lại và nhìn xuống. Hóa ra máu chảy rất nhiều, ướt nhèm, tràn đỏ xuống lấp loáng trên bắp chân và xuống cả gót”.
Một tác phẩm khác, cũng là nhìn lại cuộc chiến đã qua, trong đó có những biểu lộ tính dục táo bạo, là truyện ngắn Họ đã trở thành đàn ông của Phạm Ngọc Tiến. Nhân vật nữ chính của truyện – một người phụ nữ không được đặt tên, đã tình nguyện hiến dâng đời con gái của mình cho người lính trẻ không hề quen biết trước đó, khi họ vừa trải qua một trận dội bom ác liệt, ranh giới sự sống cái chết chỉ mong manh như sợi tóc. Chị dâng hiến bởi sợ rằng người con trai ấy sẽ chết giữa chiến trường khi chưa kịp trở thành đàn ông, khi chưa hề có được hạnh phúc được ân ái với một người phụ nữ:
“Chị đột ngột quyết định. Chị vít mạnh đầu chàng trai áp vào ngực mình. Thực ra ý định dâng hiến sự trinh bạch của chị đã mãnh liệt ngay từ loạt bắn đầu tiên của kẻ thù.(…) Còn đắn đo gì nữa, biết đâu chỉ trong khoảnh khắc cả chị và người lính sẽ không còn. Chàng trai trẻ thế. Không em ơi, hãy nhận một chút ít tâm hồn chị để trở thành người đàn ông chân chính, để đừng phải mang niềm tiếc nuối đơn giản kia, nếu chẳng may em vĩnh viễn ra đi từ cuộc chiến tranh khốc liệt này. Người lính thoáng chút ngỡ ngàng. Rồi anh chợt hiểu. Anh run rẩy áp thân thể thanh xuân của mình vào chị. Tràn ngập trong cảm giác hạnh phúc đến mãn nguyện. Chị nín thở cố giữ thật lâu niềm hạnh phúc ấy”.
Nói đến hoạt động tính dục mà không phải chỉ đơn giản là miêu tả một câu chuyện bản năng. Thông điệp nhà văn gửi gắm lớn hơn nhiều lần, đó là sự hy sinh lớn lao của một người phụ nữ, là những rung cảm xúc động hết sức con người.
Tất cả những cây bút văn xuôi tiêu biểu tính từ sau Đổi Mới đến nay đều có những miêu tả về hoạt động tính dục trong các tác phẩm của mình. Từ Ma Văn Kháng, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Văn Thọ, Trần Thùy Mai, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh…Hoạt động tính dục không đơn giản chỉ là những chi tiết mà trong nhiều trường hợp nó còn đóng vai trò liên kết toàn bộ cốt truyện, chẳng hạn trường hợp truyện ngắn Giọt máu của Nguyễn Huy Thiệp với nhiều phân đoạn miêu tả hoạt động tính dục của nhân vật chính – Phạm Ngọc Phong với nhiều người phụ nữ khác nhau.
Trong tiểu thuyết Mùa khát (NXB Hội nhà văn, 2018), Nguyễn Việt Chiến cũng dành nhiều trang với phong cách khá bụi bặm với ngôn từ đậm chất khẩu ngữ để miêu tả về những cuộc yêu của gã giang hồ Hậu Aka với các người tình:
“Hậu lôi nàng lên chiếc giường, uỵch luôn. Tiếng uỵch nhau mỗi lúc một rậm rực, làm chiếc giường như chao đảo trong cơn động đất. Nàng nghiến răng trong khoái cảm, thở hộc ra như một con bò cái rồi không chịu nổi, vừa rên vừa hú lên khá man dại”.
Một tay đàn em của Hậu Aka thì nói:
“Ông anh yên tâm, trên đường về mình rẽ qua mấy con mẹ bán đồ kích dục ở vỉa hè đầu phố Hàng Chiếu, mua mấy cái mắt dê lông rậm có đính vài viên bi, đeo vào mà tẩn thì con đượi kia chỉ chịu được một lúc rồi phải lạy như tế sao xin anh em mình tha thôi”.
Những từ chỉ hoạt động tính dục như uỵch, tẩn tưởng chừng chỉ có trong giao tiếp khẩu ngữ đã được đi vào trang văn một cách rất tự nhiên, phù hợp với phong cách của các nhân vật đang được miêu tả. Cuộc yêu của một gã giang hồ dưới ngòi bút nhà văn, hiện lên hẳn là phải khác cuộc yêu của những văn nhân tài tử, nó mạnh bạo và đầy chất hoang dại:
“Hôn hít mân mê một lúc lâu, thấy cô hàng xóm cứ mềm oặt người ra như chờ đợi, Hậu Aka xốc nàng dậy, ép vào cánh tủ đứng. Hắn bế thốc đôi mông nóng hổi của nàng lên. Cô hàng xóm ghì lấy cổ hắn, môi ghì nghiến lấy môi, tưởng ngạt thở. Cánh tủ rung lên bần bật, chiếc tủ tưởng chừng sắp lăn kềnh”.
Nếu như trong văn xuôi, như chúng ta vừa thấy, các nhà văn không ngần ngại khi viết về các hoạt động tính dục, góp phần làm nổi bật phẩm chất, tính cách, số phận của từng nhân vật với những biểu hiện đa dạng, phong phú; thì trong thơ, các nhà thơ có cách viết về hoạt động tính dục với tư duy hình tượng, tạo nên những rung cảm khác biệt với những hình ảnh, cách nói mang ấn tượng cao. Một trong những nhà thơ tiên phong trong việc thể hiện những biểu cảm tính dục là Vi Thùy Linh, từ những ước mơ tình tự cho đến những đoạn thơ miêu tả cận cảnh cuộc ái ân:
Muốn thêm một đêm anh trồng em
Muốn thêm nhiều đêm anh trồng em
Em thèm được sinh sôi như đất
Em thèm thở bằng hơi thở anh
Để là Linh
Miền đất cho anh toàn quyền lộng hành
(Bờ của chích bông)
Anh hạ trời xuống anh nâng đất lên
Anh bùng vỡ thanh xuân cuồng điên
Trên lưng anh, bơi mải miết ngón ngón em dài trắng
Môi em trườn đêm căng
Ruỗi chân dài, em nối những ranh giới những núi đồi, sông biển nhịp nhịp qua cầu đùi muốt
Vào lúc Anh lên Em lên Anh
Thụ tạo giấc mơ ấp ủ
Em đạt khát khao làm mẹ
(Nơi ánh sáng)
Phòng ngủ biển xanh mây bay thiên thanh
Chiếc giường đàn hương máy bay bằng gỗ
Dâng mình lên theo cơ thể ngụt ngàn
Dâng từng đợt mưa say đợt cắn
Anh trai tráng hệt như chưa lần nào
Em nữ tính nhiều mà sao vẫn thiếu
Đóa nhung đen nở mịn đường cỏ ấm
…Anh để dành cho em chiếc lưỡi
Da thịt dậy tình làm rơi xiêm áo
(Tình tự ca)
Có khi chỉ với một câu thơ, Vi Thùy Linh đã hoàn thành một tuyên ngôn về ái tình và tính dục:
Những cặp chân khóa chặt nhau khước từ chân lý
(Anh sẽ ru em ngủ)
Cùng với Vi Thùy Linh, một số tác giả khác cũng có những biểu đạt đầy táo bạo, mãnh liệt về tính dục trong thơ:
Yêu em nhiều hơn đi
Yêu em nhiều hơn nữa
Nàng không ngừng rót vào tôi luênh loang máu lệ ngông say và cơn thảng thốt đói lo khát sợ
Lạy Chúa! Nàng đam mê nhưng mong manh và bất trắc bao nhiêu
Tôi hôn lên những giọt máu tình yêu thì thầm lời xưng tụng
Uống miên man mùi mật ngây rực rỡ ướt loang chiều
(Yêu nhau ngày chảy máu – Phương Lan)
2.6. BIỂU ĐẠT TÍNH DỤC TRONG VĂN HỌC DỊCH
Sẽ thật thiếu sót nếu không bàn tới những biểu đạt tính dục trong văn học dịch, đặc biệt qua các tiểu thuyết nổi tiếng thế giới đã được xuất bản tại Việt Nam. Tìm hiểu thêm về biểu đạt tính dục qua các tác phẩm văn học thế giới, sẽ càng thấy rõ đây là một vấn đề mang tính phổ niệm của cả loài người, đồng thời sẽ có những tương đồng và khác biệt giữa các dân tộc, các nền văn hóa. Vì dung lượng có hạn của một tiểu luận, chúng tôi chỉ tập trung đi vào một số tiểu thuyết hiện đại, đại diện cho cả phương Đông và phương Tây. Đó là: Phế đô của Giả Bình Ao (Vũ Công Hoan dịch), Rừng Na Uy của Murakami (Trịnh Lữ dịch), Trở về Eden của Rosalind Miles (Lê Xuân Sơn và Nguyễn Thị Kim Hiền dịch), Tiếng chim hót trong bụi mận gai của Collen McCullough (Trung Dũng dịch), Trăm năm cô đơn của Marquez (Nguyễn Trung Đức dịch) và Bảo tàng ngây thơ của Orhan Pamuk (Giáp Văn Chung dịch).
Bút pháp miêu tả cảnh ân ái giữa Trang Chi Điệp và A Xán trong Phế Đô của Giả Bình Ao cho ta cảm giác gần gũi với bút pháp miêu tả trong văn học trung đại Việt Nam bởi những ví von so sánh, không đi vào miêu tả trực tiếp các bộ phận cơ thể mà tập trung làm nổi bật cảm xúc của hai người trong cuộc bằng cách huy động chuỗi ngôn từ tạo biểu cảm mạnh:
“Trong thời gian rất lâu, hai người ai cũng đốt cháy lên một niềm đam mê khác của con người, họ quên hết mọi đau khổ và buồn phiền, thể nghiệm những ngôn ngữ miêu tả trong tất cả các loại sách cổ điển, đồng thời nói ra những ngôn ngữ ấy. Sau đó mặc kệ mọi tiếng động, trong cảm giác, thì đây không phải ở trên giường, không phải ở nhà gác, mà là một quả bom nguyên tử đã tung họ lên tận trời cao và nổ tan tành trên tầng mây, là ở trên đỉnh Hoa sơn chót vót lúc mặt trời mọc, nhìn ánh sáng Phật xuất hiện trong biển mây mênh mang của khe sâu thẳm mà rún người nhảy thẳng xuống, cứ nhảy thẳng xuống. Mọi động tác của người nước ngoài đã từng nhìn thấy trong băng hình, tất cả mọi động tác của người thời cổ đã từng đọc trong Kinh Tố nữ, thậm chí còn học những động tác lang sói hổ báo, của chó lợn trâu dê đều được làm thử, đều được áp dụng, lại còn tự sáng chế ra hình thức mới khác hẳn, hai người dường như cùng một lúc lên tới đỉnh cao, lên tới cao trào”.
Có lẽ đây là một trong những đoạn văn tả cảnh ân ái đồng thuận mãnh liệt nhất trong văn chương thế giới đương đại, thể hiện tài năng ngôn ngữ của tác giả. Giả Bình Ao tạo một ấn tượng mạnh mẽ, dữ dội, thậm chí hoang dại bằng cách nhấn mạnh vào bốn tiêu điểm: âm thanh – sự thay đổi chiều kích không gian – yếu tố tâm linh/tôn giáo – thay đổi tư thế động tác. Đoạn văn vì thế tạo được một cảm giác mê cuồng, giống như trong điện ảnh khi máy quay được di chuyển liên tục không ngừng với tốc độ 24 hình/giây.
Sang đến Rừng Na Uy của Murakami, tuy Nhật Bản cũng là quốc gia phương Đông, ảnh hưởng nhiều văn hóa Trung Quốc và về đại thể, có nhiều nét gần gũi với văn hóa Việt Nam, nhưng trong những miêu tả tính dục lại gần với văn phong Âu Mĩ bởi những ghi hình trực tiếp các bộ phận cơ thể. Tuy thế, nhịp điệu, tốc độ của mạch văn lại thường nhẩn nha chậm rãi. Sau đây là phân đoạn miêu tả cảnh ân ái giữa Watanabe và Naoko:
“Tôi hạn bớt ánh sáng đèn và bắt đầu cởi quần áo nàng, từng thứ một với những động chạm nhẹ nhàng nhất. Rồi tôi cởi quần áo mình. Trời đủ ấm, cái đêm mưa tháng Tư ấy, để chúng tôi có thể bám chặt lấy sự trần trụi của nhau mà không thấy lạnh lẽo. Chúng tôi khám phá thân thể nhau trong bóng tối, không nói một lời. Tôi hôn nàng và nâng đôi vú mịn màng của nàng trong tay. Nàng siết chặt lấy sự cương cứng của tôi. Châu thân nàng mở ra nóng ấm, ướt át và mong ngóng tôi”. Và đây nữa là đoạn tả cảnh ân ái của Watanabe và Reiko: “Khi tôi đã vào sâu hết cỡ, chị run người lên và thở ra một tiếng thật dài. Vừa vuốt ve lưng chị, tôi vừa dịch chuyển qua lại sâu trong chị rồi bỗng nhiên tới đích với một chuỗi liên tiếp những đợt phóng dữ dội không thể kìm lại được. Tôi ghì chăt lấy chị khi tinh khí mình từng đợt trào sang miền nồng ấm của chị như không bao giờ dứt”
Với tiểu thuyết Trở về Eden, những phân đoạn miêu tả ân ái có khá nhiều sắc thái. Có những đoạn vừa mạnh mẽ vừa lãng mạn:
“Từ phía sau, hai tay Greg tóm lấy hai vú Jilly, sờ nắn đầu vú cương cứng vì ham muốn. Giằng khỏi Greg, cô ta quay mặt lại và gắn chặt vào môi anh ta một cái hôn thèm thuồng. - Ồ không, Greg rít lên trong cơn cảm khoái. Anh ta bế cô lên mang sâu trong chuồng ngựa rồi đặt xuống một đống cỏ phẳng mượt. Cô ta vươn hai tay ôm lấy mặt Greg, cô ta phủ đầy ngực Greg những chiếc hôn dịu dàng, nhẹ nhàng như sự đụng chạm của những cánh bướm (…) Cả hai tận hưởng giây phút khoái lạc vô biên mong đợi từ lâu. Sau đó, khi đã mệt mỏi, họ nằm rất lâu, vẫn ở trong nhau”.
Nhưng cũng trong tiểu thuyết này, chúng tôi bắt gặp cả những phân đoan ân ái mang tính bạo dâm/ khổ dâm, đấy là điều dễ gặp trong văn học Âu Mĩ mà hiếm thấy trong văn học các nước phương Đông như Việt Nam, Trung Quốc. Vẫn là miêu tả cảnh ân ái giữa Greg và Jilly nhưng đoạn sau đây khác hẳn đoạn trước:
“Giữ chặt Jilly, Greg tiếp tục đấm đá túi bụi. Đầu Jilly quay cuồng, thậm chí ả không chống đỡ. Trong cơn điên cuồng, y giật cái áo trên người ả ra, xé thành từng mảnh nhỏ. Dưới làn áo hầu như không có đồ lót: “Đồ khốn kiếp, mày chuẩn bị đến đây để thỏa cơn rửng mỡ, này thì nhận đi!” Y tiếp tục giật những mảnh giẻ còn lại trên người ả. Cuối cùng ả hoàn toàn trần truồng với đống giẻ tung tóe dưới chân. “Tốt lắm nhưng chưa phải bây giờ”- Y vẫn còn say máu lắm. Y xoay người ả lại và đấm như điên vào lưng ả. Cố gắng thoát khỏi cánh tay sắt của Greg, Jilly vừa vặn vẹo vừa gào thét, vừa cào vào ngực y, vừa cắn xé. Cổ y rách toạc ra, máu chảy ròng ròng. Ả cắn ngập răng vào cổ tay y. Bây giờ Greg quay ra chống đỡ, cuối cùng cuộc vật lộn trở thành một trò chơi còn kích thích hơn cả những thủ pháp gợi tình thông thường…Sau đó chúng nằm lăn trên sàn, xây xát, rướm máu, no nê như hai con vật”.
Cảnh ân ái giữa cha Ranfơ và Mecghi trong Tiếng chim hót trong bụi mận gai, một tác phẩm nổi tiếng của văn học Úc lại mang những màu sắc khác hẳn. Đó là sự vượt qua một ranh giới lớn lao giống như lời nguyền, vượt qua thành trì của định kiến và vươt qua chính bản thân mình:
“Hai tay Mecghi bay vụt lên quấn lấy cổ ông, hai tay ông lật bật xiết chặt lại sau lưng nàng, đầu cúi xuống, môi ông tìm môi nàng và đã tìm được. Môi nàng – sống động, ấm áp không chỉ còn là một hoài niệm tự dưng hiện đến, không đáng có. Hai tay nàng quấn lấy cổ ông, dường như không bao giờ buông ra nữa (…) Ông đã bế nàng đến giường hay hai người cùng đi? Ông có cảm giác là ông bế nàng, mà cũng có lẽ là không. Nhưng cả hai người đã ở trên giường. Và bằng hai bàn tay, ông cảm thấy thân thể nàng và hai tay nàng trên da ông. Ôi lạy Chúa! Mecghi của ta! Làm sao từ thuở bé dại người ta đã tập được cho ta quen nghĩ rằng em là xấu xa? Thời gian không còn tính từng giây mà ào tới cả một luồng thác và đổ ập lên ông, làm mất mọi ý nghĩ, chỉ còn lại độ sâu của một chiều đo trước nay chưa từng biết, cái độ sâu đích thực hơn thời gian thực. Ranfơ vẫn còn cảm giác được Mecghi, nhưng không phải như một cái gì riêng biệt, mong sao nàng sẽ triệt để và trở thành một bộ phận khăng khít của bản thể ông, thành một tổ chức mô duy nhất. Nó cũng là chính ông, chứ không phải là một cái gì gắn với ông mà dù sao vẫn là một cái khác, riêng biệt. Không bao giờ ông còn quên được sự đáp ứng cuồng nhiệt của bộ ngực này, cái bụng này, cặp đùi này, của tất cả những đường nét và nếp gấp thầm kín của tấm thân này.”
Với Trăm năm cô đơn, một kiệt tác của Marquez và cũng là của văn chương nhân loại, những đoạn tả cảnh ân ái trong truyện đầy cuồng nhiệt, man dại nhưng nó có thêm một sắc thái đặc biệt khác, đó là cảm giác tội lỗi. Cả một dòng họ nằm trong bi kịch loạn luân và mãi mãi phải tự lưu đày vào chốn cô đơn. Đoạn trích sau đây tả cuộc ân ái giữa hai anh em ruột:
“Một chiều nọ, khi cả nhà đang ngủ trưa, cô không thể nán chịu được nữa đã mò đến phòng ngủ của Hôsê Accađiô. Cô thấy anh thức, mặc quần đùi, nằm dài trên chiếc võng được mắc vào những chiếc vòng sắt to với những sợi chão buộc tàu. Cái cơ thể để trần lực lưỡng của anh khiến cô cảm động lắm đến mức cô tự nhiên dừng lại định quay ra. "Xin lỗi"... cô chống chế, "em không biết có anh ở đây". Nhưng cô hạ giọng ngay để khỏi đánh thức người khác. "Vào đây nào", anh nói. Rêbêca ngoan ngoãn nghe lời. Cô đứng ngay cạnh chiếc võng, mà toát mồ hôi lạnh, mà cảm thấy trong bụng mình cứ nổi cục lên, trong lúc Hôsê Accađiô với năm ngón tay mơn trớn cổ tay cô, rồi bẹn, rồi mông và miệng thì thầm: "Ôi, em nhỏ bé. Ôi, em nhỏ bé". Cô gái phải lấy hết sức bình sinh để khỏi chết khi một sức mạnh cuồng nhiệt như dông bão nhưng lại rất nhẹ nhàng đã cầm lấy thắt lưng bế cô lên, rồi cởi hết áo váy cô và dằn ngửa cô ra như dằn ngửa một con chim bé bỏng. Cô chỉ còn kịp cám ơn Thượng đế đã sinh ra mình, trước khi lương tri bị chìm nghỉm trong mềm khoái lạc đê mê át cả cái đau đớn để giãy giụa ở trong lòng chiếc võng bốc hơi nghi ngút. Cái võng như một tờ giấy thấm đã hút ráo ngay máu trinh của cô chảy ra (…)Đêm tân hôn, Rêbêca bị một con bò cạp chui vào giày păngtúp từ lúc nào cắn vào chân. Cô bị cứng lưỡi nhưng không vì thế mà tuần trăng mật của họ kém phần vui vẻ đi. Hàng xóm giật mình trước những tiếng la hét khiến cả xóm phải thức dậy một đêm tới tám lần, một buổi trưa tới ba lần và họ cầu khẩn cho cơn cuồng say quá trớn ấy không làm kinh động những người chết đang yên nghỉ trong cõi thanh tịnh ở ngoài nghĩa địa.”
Với Bảo tàng ngây thơ, tác phẩm văn học thuộc một quốc gia có vị trí địa lý trải từ Tây Á sang Đông Nam Âu, những miêu tả ân ái của Orhan Pamuk (Giải Nobel Văn chương 2006) mang đến cho người đọc cả hai bầu không khí phương Đông và phương Tây:
“Vừa hôn nhau, chúng tôi vừa đi từ bếp qua phòng ngủ và ngồi xuống mép giường, rồi cứ thế chẳng hề e ngại – đúng là cả hai không nhìn vào mắt nhau – chúng tôi tụt bỏ gần hết áo quần và chui vào chăn. Tấm chăn quá dày, và cũng như hồi nhỏ nó xước vào da thịt tôi, thế là lát sau chúng tôi đẩy tấm chăn xuống, để lộ ra nửa tấm thân trần. Cả hai đều lấm tấm mồ hôi, và không hiểu sao điều đó làm chúng tôi yên lòng (…) Tôi hôn lên bờ vai mùi hạnh nhân của em, tôi đưa đầu lưỡi chạm vào đoạn cổ mềm mại, ướt mồ hôi của em. Tôi run lên khi thấy dù mùa tắm nắng chưa bắt đầu, đôi vú em đã trắng hơn các vùng cơ thể khác mang màu da vùng Địa Trung Hải (…) Như thể cả hai cùng vượt qua một trở ngại mà cuộc sống đặt ra cho chúng tôi. Vì thế tôi không ngạc nhiên dù em nhìn vào mắt tôi, nhưng không đáp lại những lời âu yếm của tôi và câu hỏi “Em có đau không?”, trong khi tôi ấn xuống, gắng đưa vào em. Tới lúc tôi gần em nhất, tôi cảm thấy toàn thân em rung lên, rất sâu (các bạn hãy tưởng tượng sự rung động gần như không nhận ra của những bông hướng dương trước gió nhẹ), như đau đớn của em là của chính tôi (…) Chúng tôi ôm nhau nằm trong sự yên tĩnh ấy, và cả hai thử quên đi những nghi lễ xã giao sơ đẳng cùng những chi tiết đáng hổ thẹn mà hết sức kích thích những nhà nhân chủng học xã hội khảo sát: tấm ga dính máu chúng tôi nằm, đống quần áo trút bỏ bừa bãi. Fusun lặng lẽ khóc và không để ý đến những lời an ủi của tôi. Em bảo em sẽ nhớ ngày hôm nay suốt đời, rồi em lại khóc một lúc nữa, cuối cùng em im lặng.”
Phân đoạn vừa rồi miêu tả cuộc ân ái của Kemal và cô em họ Fusun xinh đẹp, đây cũng là lần đầu tiên ân ái của Fusun, trao gửi sự trinh trắng của cô cho Kemal. Chất phương Đông vẫn còn đọng lại trong những trang văn của Orhan Pamuk qua những giọt nước mắt của Fusun. Những màu sắc văn hóa đặc trưng của dân tộc có thể thấy rất rõ qua cách miêu tả “bờ vai mùi hạnh nhân” , “mùa tắm nắng”, “màu da vùng Địa Trung Hải”…
So sánh cách viết của Orhan Pamuk, Rosalind Miles với các tác giả thời trung đại Việt Nam, có thể thấy người phương Tây rất chú trọng tới việc hôn bạn tình, đặc biệt là hôn môi, trong khi văn hóa người Việt truyền thống và thậm chí cả Trung Hoa, dường như không có điều này. Vì thế, từ Hoa viên kỳ ngộ cho tới Tỳ bà truyện và cả Vũ Trọng Phụng nửa đầu thế kỷ, ít thấy có sự chú trọng miêu tả về những nụ hôn. Các tác phẩm Âu Mỹ như Trăm năm cô đơn, Trở về Eden thường có xu hướng tô đậm thể lực, sức mạnh của người đàn ông trong cuộc ân ái, trong khi các tác phẩm phương Đông như Phế đô, Rừng Na uy lại chú trọng nhiều hơn đến cảm xúc của đôi bạn tình. Xét về nhân chủng học, người Âu Mỹ rõ ràng có thể hình nổi trội, to khỏe hơn người châu Á. Thế nên việc khoe sức mạnh cơ thể trong miêu tả những hoạt động tính dục có lẽ cũng là một tất yếu. Đó cũng là sự khác biệt tự nhiên giữa các cộng đồng cư dân được phản ánh vào mỗi tác phẩm văn học.
3. KẾT LUẬN
Hoạt động tính dục là một trong những hoạt động muôn thuở và cần thiết của loài người. Nó không chỉ giữ nhiệm vụ duy trì sự sinh tồn về nòi giống cho toàn thể nhân loại mà còn được cấp thêm những giá trị tinh thần, những ý nghĩa văn hóa, tác động mạnh mẽ đến cảm xúc của mỗi con người.
3.1. Dễ thấy vì sao có đến 59 đơn vị gọi tên hoạt động này trong tiếng Việt, dãy đồng nghĩa chỉ hoạt động tính dục lớn hơn gấp nhiều lần so với các hoạt động sinh tồn khác như ăn, ngủ, vệ sinh cơ thể. Điều ấy chứng tỏ một sự quan tâm đặc biệt, tầm quan trọng đặc biệt của hoạt động này trong đời sống người Việt, cũng là của mọi cộng đồng dân cư khác.
3.2. Từ ngôn ngữ sinh hoạt đi vào ngôn ngữ văn chương khi miêu tả hoạt động tính dục có những sự thay đổi, biến động lớn lao. Các từ ngữ mang sắc thái khẩu ngữ, suồng sã, thô tục phải có sự cân nhắc thận trọng mới được sử dụng, sao cho phù hợp với ngôn ngữ nhân vật, bối cảnh câu chuyện. Thay vào đó là các cách diễn đạt bằng hình ảnh, hình tượng, những thủ pháp miêu tả riêng của từng tác giả để nhằm nổi bật vấn đề/ chủ đề đang được hướng tới. Giữa ngôn ngữ văn xuôi và ngôn ngữ thơ cũng có những khác biệt đặc thù. Nếu như văn xuôi chấp nhận được nhiều chất liệu thô ráp cũng như cách thức tả chân, thì ngôn ngữ thơ luôn đòi hỏi một sự cách điệu nhất định để mỗi độc giả cảm nhận được sự thăng hoa trong cảm xúc.
3.3. Có thể nói hầu hết các tác phẩm văn học lớn cũng như các văn tài của Việt Nam và thế giới đều ít nhiều có miêu tả hoạt động tính dục trong tác phẩm của mình. Họ không những không lảng tránh điều đó mà có lẽ còn coi đó là một thử thách để vượt qua, để mình phải thể hiện cho thật thành công những phân đoạn ấy mà không để tác phẩm sa vào dung tục, đồi trụy. Sự khác biệt giữa văn học dân gian và văn học thành văn, giữa văn học trung đại và văn học hiện đại, giữa văn học Việt Nam và văn học thế giới là những tất yếu, mang trong nó những khác nhau về quan điểm lịch sử, thời đại, thi pháp; mang trong nó những khác biệt về văn hóa, nhân chủng, phong tục, địa lý, khí hậu của mỗi vùng miền.
3.4. Về đại thể, có thể chia hoạt động tính dục làm hai loại lớn là loại đồng thuận và không đồng thuận (hiếp dâm, cưỡng bức). Trong từng loại lại có thêm sắc thái [ + chủ ý] hoặc [– chủ ý]. Chẳng hạn cuộc hãm hiếp của Nghị Hách với Thị Mịch là [+ chủ ý] nhưng cuộc gặp gỡ rồi ân ái giữa Chí Phèo và Thị Nở nơi vườn chuối lại hoàn toàn là [- chủ ý]. Trong tình dục đồng thuận lại có thêm những sắc thái chủ động/ bị động gắn với từng đối tượng, chẳng hạn khi Trương Kiệu ân ái với hai chị em Ngọc Nương, Lan Nương thì Trương Kiệu là người chủ động nhưng khi nhân vật nữ trong truyện ngắn Họ đã trở thành đàn ông, hiến thân cho những người lính trẻ thì người nữ mới là người chủ động. Tất cả những sự khác biệt ấy góp phần hình thành đặc điểm, tính cách nhân vật, đồng thời gửi gắm những thông điệp riêng của tác giả, những ý nghĩa, vai trò, giá trị của từng tình huống.
3.5. Trừ trường hợp tình dục không đồng thuận là câu chuyện cần phải lên án, bởi nó chà đạp lên danh dự và phẩm giá con người, tình dục đồng thuận luôn luôn là một vẻ đẹp hiện lên qua từng trang viết. Tình dục không chỉ là câu chuyện của bản năng, nó còn là câu chuyện của đôi lứa, của khát vọng và lý tưởng sống, của nhân cách mỗi con người. Các nhà văn thông qua những miêu tả hoạt động tính dục bao giờ cũng gửi gắm những thông điệp sâu sắc, những ý nghĩa nhân văn, ca ngợi tình yêu và lòng chung thủy, lên án và tố cáo những gì chà đạp lên quyền sống và hạnh phúc của con người. Tất cả những điều ấy làm nên vẻ đẹp của tình dục, tính dục trong mỗi thiên lương.
NGUỒN NGỮ LIỆU TRÍCH DẪN
A. Văn học Việt Nam
1. Nguyễn Bính toàn tập . NXB Văn học, HN, 2008.
2. Nam Cao. Tuyển tập truyện ngắn. NXB Văn học, HN, 2015
3. Nguyễn Du. Truyện Kiều (Nguyễn Thạch Giang khảo đính và chú thích). NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, HN, 1972
4. Nguyễn Xuân Kính (chủ biên). Kho tàng tục ngữ người Việt. NXB Khoa học Xã hội, HN, 2002.
5. Nguyễn Xuân Kính (chủ biên). Kho tàng ca dao người Việt. NXB Khoa học Xã hội, 2002.
6. Vi Thùy Linh. Đồng tử (thơ). NXB Văn nghệ, Tp. HCM, 2005.
7. Bảo Ninh. Nỗi buồn chiến tranh. NXB Hội nhà văn, HN, 1990
8. Vũ Trọng Phụng. Giông tố (tái bản). NXB Văn học, HN, 2013.
9. Nguyễn Gia Thiều. Cung oán ngâm khúc (Kiều Văn giới thiệu, chú thích). NXB Đồng Nai, 1995.
10. Phạm Ngọc Tiến. Họ đã trở thành đàn ông (Tập truyện ngắn, tái bản). NXB Văn học, 2011.
11. Viện nghiên cứu Hán Nôm. Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam (tập 1, Trần Nghĩa chủ biên). Hoa viên kỳ ngộ tập. NXB Thế giới, HN, 1997.
B. Văn học dịch
11. Giả Bình Ao. Phế đô (Vũ Công Hoan dịch). NXB Văn học, HN, 1999
12. Collen McCullough. Tiếng chim hót trong bụi mận gai (Trung Dũng dịch). NXB Trẻ, Tp. HCM, 1988.
13. G. Marquez. Trăm năm cô đơn (Nguyễn Trung Đức dịch, tái bản). NXB Văn học, HN, 2000.
14. Murakami Haruki. Rừng Na Uy (Trịnh Lữ dịch). NXB Văn học, HN, 2006.
15. Orhan Pamuk. Bảo tàng ngây thơ (Giáp Văn Chung dịch). NXB Văn học, HN, 2014.
16. Rosalind Miles. Trở về Eden (Lê Xuân Sơn và Nguyễn Thị Kim Hiền dịch). NXB Hà Nội, 1993.
(Bản trích lược đã được in trong Viết và đọc mùa thu 2022, NXB Hội Nhà văn)

BÀI MỚI ĐẮNG

Truyện ngắn: BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN _ NGUYỄN HẢI ĐĂNG

Bên cánh gà chánh điện phần 1 BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN Xe dừng lại với tiếng xột xoạt trên mặt đường, như bao chuyến xe đã ghé qua từ thuở ...