Thứ Tư, 9 tháng 9, 2020

NÓI VỀ THƠ HAY CỦA NGÀN NĂM VĂN HIẾN THĂNG LONG - PHẠM NGỌC THÁI

 NÓI VỀ THƠ HAY CỦA NGÀN NĂM VĂN HIẾN THĂNG LONG

PHẠM NGỌC THÁI

      Nói về thơ hay ở đây, nghĩa là bài thơ đó phải được lưu danh sử sách trong văn

hiến của ngàn năm Thăng Long - Thí dụ: cao siêu là KIỀU của đại thi hào Nguyễn

Du, thuộc thể tiểu thuyết thơ. Các loại thơ ngắn hay xưa nay, trường cửu với thời

gian, như: 

      Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan (BHTQ) - Làm lẽ, Hồ Xuân

Hương - Thu điếu, Nguyễn Khuyến - Thương vợ, Tú Xương - Đây thôn Vỹ Dạ *

Mùa xuân chín * Bẽn lẽn, Hàn Mặc Tử - Tràng giang, Huy Cận - Tương tư,

Nguyễn Bính - Tương tư chiều, Xuân Diệu - Tranh lõa thể, Bích Khê - Say đi em,

Vũ Hoàng Chương - Hai sắc hoa tigôn, TTKH. - Thuyền và biển, Xuân Quỳnh -

v.v.... 

          Đó là những bài thơ hay thuộc hàng đỉnh của nền văn học nước nhà. Thơ hay

như thế của các nhà thơ đương đại hiếm lắm? Theo con mắt thơ của tôi: Các nhà

thơ của HNVVN hiện nay, chưa có ai vượt qua nổi bài thơ hay "Thuyền và biển"

của Xuân Quỳnh. 

    Vậy, Thế nào mới là một bài thơ hay của văn hiến ngàn năm Thăng Long? Dứt

khoát phải có hai yếu tố:

1.  Thơ của muôn đời, chứ không phải thơ chỉ một thời.

2.  Thơ phải thật viên mãn về cả nghĩa và nghệ thuật thi ca.

     a-  Viên mãn về nghĩa: Bắt buộc tình, ý trong thơ phải viên mãn. Nếu nghĩa thơ

không viên mãn? dù ngôn ngữ tinh túy, hình tượng đẹp... cũng chưa tạo được bài

thơ hay.

     b-  Viên mãn về nghệ thuật thi ca: Khi nghĩa bài thơ đọc lên đã viên mãn rồi -

Ngôn ngữ, hình tượng thi ca hay tới mức nào? Nó quyết định bài thơ hay đến đó.

            Nếu tất cả đều đạt tới đỉnh, thì bài thơ hoàn bích.

            ĐIỂM ĐÔI NÉT MẤY BÀI THƠ NỔI TIẾNG XƯA NAY

A/. " QUA ĐÈO NGANG" của Bà Huyện Thanh Quan (BHTQ) -  Đây là một

bài thơ thất ngôn bát cú, theo thể Đường luật rất mẫu mực ở nước ta. Ngôn ngữ,

nghệ thuật tinh hoa. Ta bàn về ý nghĩa bài thơ xem độ viên mãn thế nào?

     Bốn câu đầu chỉ là miêu tả để giới thiệu quang cảnh Đèo Ngang: Trên trời bóng

đã xế tà; quanh đèo cỏ cây, hoa lá mọc chen trong khe đá; dưới núi vài chú tiểu đi

kiếm củi... và mấy quán chợ lác đác bên sông - Nhưng đến hai câu giữa:

                 Nhớ nước đau lòng con quốc quốc


2

                 Thương nhà mỏi miệng cái gia gia

     Tương truyền, BHTQ rất thạo việc quốc gia: Khi ông Huyện đi vắng, bà vẫn

thay ông lên chốn công đường xử kiện. Đồng thời Bà Huyện còn là một phụ nữ rất

đảm việc nhà, để ông Huyện yên tâm làm việc nước - Vậy là, chỉ bằng hai câu thơ

(cũng vẫn là mượn cảnh vật), đã ôm bọc cả nỗi lòng bà: về nước, về nhà trong đó.

 - Mượn hình ảnh con chim cuốc ra rả kêu vào những tháng hè - Cái tiếng "gia gia"

ở đây là xuất xứ từ con đa - đa... gọi lái sang thành "gia gia"...  nói lên nỗi nước,

tình nhà của bà - Hình tượng, ngôn ngữ trong thơ thật là sâu xa, huyền thẳm.

Không biết khi sáng tác BHTQ viết là "con cuốc" hay "con quốc"? Người đời sau,

nhiều bản khi chép lại thơ của bà, đã viết thành con "quốc quốc"... để biểu thị cho

tính nước non. Hai câu cuối đẩy bài thơ đến hoàn toàn viên mãn:

                 Dừng chân đứng lại trời, non, nước

                 Một mảnh tình riêng, ta với ta

      Nỗi niềm tâm sự giữa chốn đèo hoang vu, chỉ mình ta với ta thôi - Một câu thơ

kết tuyệt bút!

B/.  HÀN MẶC TỬ -  Thi nhân Hàn Mặc Tử có một chùm thơ ba bài tuyệt hay:

Đây thôn Vỹ Dạ, Mùa xuân chín, Bẽn lẽn - Tôi nói ít nét về từng bài.

     1.  Đây thôn Vỹ Dạ: Bài thơ gửi gắm tâm tư về một mối tình đơn phương của

thi nhân với nàng Hoàng Cúc - Ba câu đầu của khổ thơ thứ nhất là cảnh của hồi

ức: Từ hàng cau, nắng mới, đến màu xanh mướt của vườn cây vào buổi sáng - Ông

nhớ về nơi ở của nàng Hoàng Cúc trong thôn Vỹ Dạ. Đến câu thứ tư:

                  Lá trúc che ngang mặt chữ điền

     Đã là câu thơ tượng trưng rồi: "lá trúc" là hình ảnh biểu tượng cho làng quê Việt

Nam - Còn "mặt chữ điền", theo cách nói cổ nho, ví cho gương mặt của người đàn

ông (biểu tượng cho chính thi nhân), giờ đây đã bị "chắn ngang": mãi mãi phải

cách xa, không gặp lại được nhau nữa. 

     Đến khổ thơ thứ hai, phát triển còn sâu hơn. Ta gọi là tư duy trong:

                  Gió theo lối gió, mây đường mây

                  Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay

     Nghĩa là:

                  Em theo đường em, anh đường anh

                  Tình của đôi ta có thế thôi

     Để nói về duyên phận của hai người phân cách đôi đường, không thể đến được

với nhau. Thi nhân cô đơn, ngồi nhớ người xưa: Lòng ông như dòng nước lặng lờ

chảy buồn thiu, với bông hoa bắp phật phờ lay ở bên sông - Những bài thơ tuyệt

hay của thi đàn xưa nay, nghĩa thơ thường được phản ảnh qua những hình tượng

sâu xa, tinh tế như vậy.


3


      Tôi chỉ phân tích một số nét đặc trưng để toát lên cái hay của bài thơ, chứ

không bình hết vì sẽ rất dài.

     "Đây thôn Vỹ Dạ" là một tuyệt tác thi ca! Có nhà bình thơ ở đương đại lại cho

rằng: Khổ thơ thứ hai chỉ là tả cảnh theo cảm xúc của nỗi buồn mênh mang - Hiểu 

thế sẽ không thấy được cái hay, độ sâu sắc trong tư duy về cuộc đời của nhà thơ?

Tình, ý trong thơ cùng ngôn ngữ thi ca phải thật sự viên mãn vậy, mới được gọi là

thơ hay! 

2/.  Mùa xuân chín:  Là bài thơ tả cảnh mùa xuân. Lúc này thi nhân đang phải

điều trị bệnh tại Gành Ráng, Qui Nhơn, biệt lập xa cách với sự sống con người. Thi

phẩm được rút ra từ trong thơ điên Hàn Mặc Tử (đề mục Hương Thơm). Nhưng

đọc "Mùa Xuân Chín" ta thấy chẳng những thơ không điên, lòng thi nhân thanh

tao, cõi hồn siêu thoát, tựa thể ông đang ngồi thụ cảnh thiên thai của bậc khách tiên

sa. 

       Hoài Thanh có nhận xét về thơ HMT như sau: “... Ta bắt đầu bước vào một

nơi ánh trăng, ánh nắng, tình yêu và cả người yêu đều như muốn biến ra hương

khói...". Cảnh thơ tựa bức gấm thêu, toát lên tấm tình tha thiết của thi nhân với nơi

thôn dã. Ngôn ngữ, nghệ thuật thơ sử dụng rất nhiều thi pháp của dòng thơ tượng

trưng châu Âu.

    Ta hãy nghe một đoạn thơ:

                         Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi 

                       Hổn hển như lời của nước mây…

                       Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc,

                       Nghe ra ý vị và thơ ngây…

          Không phải là "nước mây hổn hển" đâu? Chính là lòng thi nhân đang

"hổn hển". Hay những hinh ảnh: “tiếng ca vắt vẻo”, “sột soạt gió trêu tà áo biếc”,

"Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc"… đều là  biểu tượng của dòng thơ tượng trưng:

Bộc lộ một tâm tư, tình cảm về cuộc sống. Ngay cái tên đề "Mùa xuân chín" cũng

có tính tượng trưng rồi.

        Kết thúc thơ, lòng thi nhân trào lên một nỗi nhớ thương làng quê da diết:

                     Khách xa gặp lúc mùa xuân chín

                     Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng 

                             - Chị ấy năm nay còn gánh thóc,

                     Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?

       Sắc thái "...sông trắng nắng chang chang", vẽ ra cảnh trắng toát trên con sông

mộng. Cảnh thực trong hồi ức mà như ảnh ảo, đưa tình thơ viên mãn tới tột cùng.

Tả cảnh mùa xuân, nhưng lại chứa chất nỗi tình đời sâu sắc như thế... mới trở

thành một bài thơ hay!


4


      Tuy vậy, bài "Đây thôn Vỹ Dạ" hay hơn một chút so với "Mùa xuân chín": Chủ

yếu vì ngôn ngữ, hình tượng có phần ảo hơn, nên thơ huyền diệu và sâu lắng

hơn.  Như Chế Lan Viên đã từng viết trong Di Cảo, rằng:

                    Bên kia bờ hư ảo - bờ thơ  

3/.  Bẽn lẽn:

                Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu

                Đợi gió đông về để lả lơi

                Hoa lá ngây tình không muốn động

                Lòng em hồi hộp, chị Hằng ơi.

                Trong khóm vi vu rào rạt mãi

                Tiếng lòng ai nói? Sao im đi?

                Ô kìa, bóng nguyệt trần truồng tắm

                Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe.

                Vô tình để gió hôn lên má

                Bẽn lẽn làm sao lúc nửa đêm

                Em sợ lang quân em biết được

                Nghi ngờ tới cái tiết trinh em.

     Có người lại cho rằng, bài thơ "Bẽn lẽn" hay hơn "Đây thôn Vỹ Dạ"? Thực ra,

hai bài thơ này đều là thơ tuyệt hay thuộc hàng đỉnh của HMT - Về phong dáng,

tính chất, chúng đứng trên hai ngọn thi sơn khác nhau: Nhưng bài "Đây thôn

Vỹ Dạ"... "rất đời", nên dễ cảm hóa lòng người - Như câu châm ngôn của dân gian

"Chỉ có cây đời mãi xanh tươi". Gần gũi cuộc sống nên được nhiều người thích và

bình... mà nổi tiếng hơn.  

     "Bẽn lẽn" sở dĩ trở thành bài thơ rất hay: Bởi nó có những "câu thơ vàng":

                       Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu

                       Đợi gió đông về để lả lơi

     Hay:

                       Ô kìa, bóng nguyệt trần truồng tắm

                       Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe

     Là những câu thơ hay vào hàng kiệt xuất của thi đàn xưa, nay - Ngôn ngữ, nghệ

thuật thi ca thì khỏi chê rồi... Vậy, ta xem về tình, ý (tức là nghĩa bài thơ) có viên

mãn không, mà lại gọi là thơ hay?

    Bốn câu đầu, miêu tả cảm xúc của thi nhân với nguyệt trên trời, như một người

tình (đã được nhân cách hóa), xuống lả lơi "nằm sóng soãi" (như tấm thân trắng

ngần của người con gái) để... tình ái với Người - Cảm xúc đến mức độ: "hoa lá

ngây tình không muốn động", lòng người mới bồi hồi thốt lên gọi: "chị Hằng ơi"! 

          Ta hãy chú ý, Hàn Mặc Tử đã tả hai câu thơ sau đó:


5

                       Trong khóm vi vu rào rạt mãi

                       Tiếng lòng ai nói? Sao im đi?

     Hai câu thơ này thuộc về "tư duy trong": Lòng thi nhân bồi hồi, xao xuyến...

Người nghe như văng vẳng tiếng mời chào của ái tình đang dậy lên ở trong mình...

rồi lại lặng đi... nên hỏi: "Sao im đi"? Về nghệ thuật thi ca: Đây là cảm xúc nội tâm

đang chan chứa trong lòng thi nhân, đồng họa với tiếng gió thổi qua khóm cây

lau... nghe rào rạt - Về cấu tứ: Thơ được tư duy giống như trong bài "Qua đèo

ngang" của BHTQ hạ hai câu thơ ở giữa bài:

                        Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

                        Thương nhà mỏi miệng cái gia gia

      Hay như "Đây thôn Vỹ Dạ" của Hàn Mặc Tử, khi viết hai câu:

                        Gió theo lối gió, mây đường mây

                        Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay

      Để nói về nỗi đời chất chứa bên trong - Chính thế mà tình ý bài thơ mới được

diễn tả một cách sâu sắc để tiến đến sự viên mãn - Trở lại với bài "Bẽn lẽn", sau đó

thi nhân tả: 

                        Ô kìa, bóng nguyệt trần truồng tắm

                        Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe

     Hình ảnh bóng nguyệt in hình trong khe nước, nhưng chính là để tượng trưng

cho cái thiên thai của người con gái, qua đó hạ hai câu kết về chuyện trăng hoa trai

gái:

                        Em sợ lang quân em biết được

                        Nghi ngờ tới cái tiết trinh em

      Đây chỉ là cách nói mà HMT "ví chơi": nhưng để nhân cách hóa với hình ảnh

lấy làm biểu tượng về "cái ấy" của người con gái ở câu thơ trên: Ô kìa, bóng

nguyệt trần truống tắm /-  Mà tạo nên sự dung dị, hoàn bích của bài thơ. Bài thơ

chứa đầy những cảm xúc khao khát, vì nỗi tình quạnh vắng của thi nhân. 

      Đọc sâu về nội tâm bên trong của Bẽn Lẽn, ta thấy từ ngôn ngữ, hình tượng thi

ca... đến ý, tình của bài thơ đều quyện lấy nhau mà tuôn chảy theo dòng cảm xúc.

     Tôi bình đôi nét về một bài thơ hay ở thời hiện đại.

C/.  "THUYỀN VÀ BIỂN" của Xuân Quỳnh:  "thuyền", biểu tượng cho người

con trai - Và "biển", chính người con gái ấy!

        Biển và thuyền quấn quít với nhau trong tình yêu của đôi trai gái. Xuân

Quỳnh viết: 

                   Lòng thuyền nhiều khát vọng

                   Và tình biển bao la...

     Hay là:

                   Những đêm trăng hiền từ

                   Biển như cô gái nhỏ


6


                   Thầm thì gửi tâm tư

                   Quanh mạn thuyền sóng vỗ

      Về tính cách của tình yêu, cũng có lúc say đắm - khi lại giận hờn. Nữ thi sĩ diễn

tả:

                  Cũng có khi vô cớ

                  Biển ào ạt xô thuyền

                  Vì tình yêu muôn thuở

                 Có bao giờ đứng yên?

     Thơ được tư duy rất sâu sắc về nội tâm bên trong:

                 Chỉ có thuyền mới hiểu

                 Biển mênh mông nhường nào 

                Chỉ có biển mới biết 

                Thuyền đi đâu, về đâu...

      Thơ diễn đạt mọi chiều của tình yêu một cách rất lô-gích. Yêu đã thế, ngay cả

khi nói về sự xa cách, cũng được lấy hình ảnh của "thuyền - biển" làm tượng trưng

thật hay:

                Những ngày không gặp nhau

                Biển bạc đầu thương nhớ  

                Những ngày không gặp nhau

                Lòng thuyền đau - rạn vỡ...

     Hình ảnh "sóng biển bạc đầu"... trở thành sự "bạc đầu vì thương nhớ" của người

con gái - Sự rạn vỡ của con thuyền...  để nói về sự quặn đau trong trái tim người

con trai khi phải xa cô gái mình yêu.

     Đoạn kết thơ:  

                  Nếu từ giã thuyền rồi

                  Biển chỉ còn sóng gió

                  Nếu phải cách xa anh

                  Em chỉ còn bão tố...

     Nếu phải chia ly, cả đôi trai gái đều đau đớn và trái tim tan vỡ!

  -  Ý, tình bài thơ được đẩy tới viên mãn tột cùng. Ngôn ngữ hình tượng đẹp, tư

duy lô-gích và giàu cảm xúc - Chính vì vậy, "Thuyền và biển" mới đạt được là một

bài thơ hay, lưu mãi vào trong nền văn học nước nhà.

PHẠM NGỌC THÁI

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

BÀI MỚI ĐẮNG

Truyện ngắn: BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN _ NGUYỄN HẢI ĐĂNG

Bên cánh gà chánh điện phần 1 BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN Xe dừng lại với tiếng xột xoạt trên mặt đường, như bao chuyến xe đã ghé qua từ thuở ...