Thứ Ba, 15 tháng 9, 2020

MẸ VUA LÝ THÁI TỔ LÀ AI ?- VŨ BÌNH LỤC

 MẸ VUA LÝ THÁI TỔ LÀ AI?

I
Sử sách chép câu chuyện về sự ra đời của Lý Công Uẩn (vua mở đầu triều Hậu Lý, miếu hiệu là Lý Thái Tổ) khá ly kỳ. Và cũng nhuốm màu huyền bí. Sách VIỆT SỬ TIÊU ÁN của Ngô Thì Sĩ chép đại khái, bà Phạm Thị là một người con gái xinh đẹp, quê ở thôn Dương Lôi, hương Cổ Pháp (nay là thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh). Nhà nghèo, phải xin làm công việc vặt vãnh, như nấu ăn, quét dọn ở chùa Tiêu. (Chùa này bấy giờ do Thiền sư Lý Vạn Hạnh trụ trì-VBL).
Một hôm, Phạm Thị nằm mơ màng, thấy có vị thần bước qua người mình, sau có mang, sinh một cậu con trai tuấn tú. Đó là ngày 12-2 năm Giáp Tuất (974). Đứa trẻ ấy sau được giao cho ông Lý Khánh Văn nuôi, đặt tên là Lý Công Uẩn. Thiền sư Lý Vạn Hạnh cùng dạy dỗ.
Theo ngọc phả các vua triều Lê ở tỉnh Hà Nam và các di tích thấy được ở cố đô Hoa Lư, Thiền sư Lý Vạn Hạnh hàng năm vào kinh đô Hoa Lư diện kiến vua Lê Hoàn, thường đưa Lý Công Uẩn đi theo. Lê Đại Hành thấy Công Uẩn thì yêu thích lắm, liền cho ở lại Hoa Lư để theo học nghề võ. Sau đó, Lê Hoàn gả con gái Lê Thị Phất Ngân cho Lý Công Uẩn, rồi thăng quan chức, lên tới Điện tiền chỉ huy sứ, cai quản quân cấm vệ ở kinh thành. Chức vụ cực kỳ quan trọng này, chỉ giành cho những người trong hoàng thân, quốc thích mà thôi.
Lê Hoàn có 5 bà hoàng hậu, có cả hàng chục con trai, anh nào cũng muốn làm vua, cho nên mới nổi loạn tranh giành, giết nhau. Lê Long Đĩnh giết em cùng mẹ là Lê Long Việt, cướp lấy ngôi vua. Cuộc chiến còn kéo dài mấy năm mới dứt. Sử chép, khi Long Việt chết, không ai dám đến gần. Chỉ có Lý Công Uẩn ôm xác Long Việt khóc. Nhưng Long Đĩnh cũng tha cho. Long Đĩnh ăn chơi trác táng, lại mắc bệnh trĩ, khi thiết triều chỉ nằm thôi. Cho nên mới gọi là Lê Ngọa Triều.
Long Đĩnh chết khi mới 24 tuổi. Sử chép, bấy giờ Thiền sư Lý Vạn Hạnh và Đào Cam Mộc (con rể Lý Công Uẩn) đứng đầu việc hô hào các quan trong triều tôn Lý Công Uẩn lên làm vua, mở ra triều đại nhà Hậu Lý (1009-1225) huy hoàng, tồn tại hơn 200 năm. Sở dĩ gọi là Hậu Lý, là để phân biệt với Lý Nam Đế (Lý Bôn, hoặc Lý Bí), lập ra nhà nước Vạn Xuân, trước đó khoảng 500 năm…
Nhận xét về cuộc chuyển giao quyền lực từ Tiền Lê sang Hậu Lý, ở sách ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TIỀN BIÊN, Ngô Thì Sĩ có chút ngờ vực, cho rằng Lý Công Uẩn giết vua để đoạt ngôi. Tác giả này viết: “Lý Thái Tổ rất căm phẫn trước tội ác giết anh để đoạt ngôi của Khai Minh Vương (Lê Long Đĩnh-VBL chú), nhân lúc Khai Minh Vương bệnh tật, sai người đầu độc giết đi rồi giấu kín việc đó, nên sử không được chép”…
Tuy nhiên, ngoài giấy trắng mực đen được chép trong các sách và tư liệu có trên bi ký, ngọc phả, thần phả, xác định nhân thân của vua Lý Công Uẩn, cho phép chúng ta có thể xâu chuỗi các sự kiện, gạt bỏ lớp sương mù huyền ảo, để có thể nhìn thấy hình ảnh của sự thật.
II
SỰ THẬT ẤY LÀ GÌ?
1.
Mẹ Lý Công Uẩn là bà Phạm Thị Ngà, người thôn Dương Lôi, hương Cổ Pháp, nay là thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Nhà nghèo, Phạm Thị Ngà xin vào làm “nhân viên phục vụ” ở chùa Tiêu Sơn (Bắc Ninh). Sư việc như các sách sử đã chép. Khi được gặp “người thần”, Phạm Thị có bầu, rồi sinh ra Công Uẩn. Vậy thì bà sinh ở chùa Tiêu, hay ở đâu?
Bạn tôi là ông Nguyễn Huy Duật, quê làng Ninh Hiệp (làng Nành), thuộc Kinh Bắc cũ, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội. Ông Duật cũng được học ít nhiều chữ Hán khi còn là sinh viên khoa Ngữ văn. Nhưng sau khi ra trường, ông Duật say mê tự học chữ Hán, say mê điền dã nghiên cứu hầu như khắp các di tích lịch sử quanh vùng. Ông không viết sách, chỉ trầm tư suy nghĩ. Gặp tôi, ông Duật tha hồ nói chuyện. Tôi chỉ im lặng lắng nghe. Tôi cảm nhận ở bạn tôi một người có kiến văn sâu sắc. Hơn thế, ông còn có những kiến giải rất bất ngờ, hoàn toàn độc lập. Rất đáng nể.
Ông Duật bảo rằng ở gần chùa Tiêu có một di tích rất nhỏ, chưa thấy ai xếp vào loại di tích cấp gì. Nhưng đây lại là một di tích cực kỳ quan trọng. Đấy là ngôi chùa nhỏ, có tên là CHA LƯ. Nếu tra từ điển Hán Việt của Thiều Chửu, thì biết CHA LƯ có nghĩa là cái lều lợp bằng rơm. Cái lều rơm. Có thể bà Phạm Thị Ngà khi sinh ra Lý Công Uẩn, chính ở cái lều rơm này (CHA LƯ).
2. VẬY CHA LÝ CÔNG UẨN LÀ AI?
Nếu Lý Công Uẩn là con thần con thánh, con trời, thì tại sao khi lên ngôi vua, LẤY NIÊN HIỆU LÀ Thuận Thiên (Thuận theo ý trời), ngài lại truy phong cho cha ngài là HIỂN KHÁNH VƯƠNG, phong mẹ là ĐỨC THÁI HẬU, phong chú là VŨ ĐẠO VƯƠNG, phong anh ruột là VŨ UY VƯƠNG, phong em ruột là DỰC THÁNH VƯƠNG?...Đó là một điều vô lý. Mà các vị cha chú, anh em của ngài, cũng chả thấy mặt mũi đâu cả.
Người đời nay có thể suy luận rằng, cha Lý Công Uẩn chính là Thiền sư Lý Vạn Hạnh, trụ trì chùa Tiêu lúc bấy giờ. Vì những lý do tế nhị, nên Lý Vạn Hạnh gửi con cho người em của mình là Lý Khánh Văn nuôi. Sau Vạn Hạnh đưa Lý Công Uẩn vào chùa Tiêu để ngài trực tiếp dạy dỗ. Thấy con mình khôi ngô tuấn tú, có tướng đế vương, cho nên Lý Vạn Hạnh mới bắt đầu nghĩ đến một mưu toan lớn, có tính chiến lược. Ngài kiên trì bền bỉ thưc hiện từng bước chiến lược này một cách hết sức tinh vi, khôn khéo.
Thời bấy giờ, dân trí còn thấp, nên tin vào thần thánh. Các Thiền sư là những người học cao hiểu sâu. Họ đồng thời là những cố vấn chính sự cho các vị vua, phần nhiều xuất thân võ tướng. Lý Vạn Hạnh trí tuệ siêu phàm. Ngài tính toán bước đường tiến lên đỉnh cao cho Lý Công Uẩn theo “lịch trình” định sẵn.
Trước hết, ở vùng quê Cổ Pháp, ngài sáng tác những câu như kiểu “truyền đơn, tuyên truyền cách mạng”, gọi là những câu SẤM TRUYỀN, rồi cho người bí mật đem nhét vào các chỗ, ví như gốc cây đa, cây mít, nơi thường có người qua lại. Khi làm bộ sách GIẢI MÃ KHO BÁU VĂN CHƯƠNG, tôi đã dịch thơ và bình giải các câu SẤM này, đều vô danh cả. Là vì đấy là những lời tiên tri, là lời của thần thánh. Qua những câu “sấm truyền” ấy, người dân tin tưởng rằng tương lai sẽ có một cuộc đổi ngôi thú vị.
Lý Vạn Hạnh mỗi lần vào kinh đô Hoa Lư, ngài đều đem theo cậu “con trời” Lý Công Uẩn, để cho Công Uẩn từng bước được gặp vua Lê Hoàn. Lê Hoàn yêu thích, lại gả con gái Phất Ngân cho Công Uẩn. Thế là Lý Công Uẩn được tin cậy, được giao chức Điện tiền chỉ huy sứ, cai quản đội quân cấm vệ tinh nhuệ nhất, bảo vệ hoàng gia và kinh thành Hoa Lư.
Lý Công Uẩn là người tài cao đức trọng, lại là Phò mã đương triều, nên Lý Công Uẩn tập hợp được xung quanh mình những nhân vật chủ chốt, như Đào Cam Mộc, sau lại là con rể của Lý Công Uẩn…Và khi cơ hội đến, ngài Lý Vạn Hạnh nắm quyền lực vô hình cao nhất là tôn giáo (Phật giáo), Lý Công Uẩn và bạn bè ông giành được chính quyền một cách hợp hiến và “ngon lành”, không cần đổ máu.
3. THIỀN SƯ LÝ VẠN HẠNH LÀ AI?
Thiền sư Lý Vạn Hạnh (938-1018) quê ở châu Cổ Pháp, nay là thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Ngài tu theo Đại Thừa, pháp môn Thiền Tông, thuộc thế hệ thứ 7, dòng Thiền Tỳ - ni – đa – lưu - chi. Lý Vạn Hạnh từ nhỏ đã rất thông minh, học tinh thông cả Nho, Phật, Lão. Ngài còn nghiên cứu rất sâu về Phật giáo. Năm 21 tuổi, Lý Vạn Hạnh xuất gia tu hành, học thầy Thiền Ông ở chùa Lục Tổ (bắc Ninh). Khi Thiền Ông mất, Vạn Hạnh chuyên tu tập TỔNG TRI TAM MA ĐỊA, rất thông tuệ. Ngài được vua Lê Đại Hành (Lê Hoàn) rất kính nể, việc gì cũng hỏi ý kiến của Thiền sư Vạn Hạnh.
Bấy giờ, cũng có người đã nhìn thấy những hoạt động “ngầm” của Vạn Hạnh, nên muốn ngầm mưu sát. Nhưng Vạn Hạnh, bằng “tuệ nhãn” thiên tài của mình, đã biết kẻ ấy là ai. Người đó chính là Đỗ Ngân, một viên quan trong triều. Vạn Hạnh không sai người giết chết Đỗ Ngân. Thiền sư làm một bài thơ gửi Đỗ Ngân, chúng tôi cũng đã giới thiệu bài thơ KÝ ĐỖ NGÂN (Gửi Đỗ Ngân) ở cuốn thứ nhất, về thơ ca đời nhà Lý, trong bộ sách GIẢI MÃ KHO BÁU VĂN CHƯƠNG. Quả nhiên, Đỗ Ngân hiểu ý, liền từ bỏ âm mưu ám sát Vạn Hạnh.
Tóm lại, Thiền sư Lý Vạn Hạnh là tổng công trình sư thiên tài, thiết kế và thi công, dựng lên triều Hậu Lý do chính con trai ngài làm vua (Lý Thái Tổ). Nhận thấy kinh đô Hoa Lư hiểm trở, sông núi bao bọc, tiện lợi cho việc phòng thủ quân sự, nhưng không phải là nơi có thể làm đế đô cho muôn đời con cháu, nên ngài đã “chỉ đạo” cho Lý Công Uẩn dời đô ra thành Đại La, đổi tên thành THĂNG LONG, tức Rồng bay lên. Lý Công Uẩn tôn vinh Lý Vạn Hạnh làm QUỐC SƯ. Ngài còn làm cây cột trụ vững chắc cho triều Lý ở giai đoạn đầu, đến khi viên tịch. Ngài để lại cho con cháu, cùng các đệ tử theo học Phật pháp bài thơ (kệ) THỊ ĐỆ TỬ (Bảo các đồ đệ), tuyệt hay.
Đời người như ánh chớp, sáng rồi vụt tắt,
Tựa như cây cỏ, mùa xuân tươi tốt, mùa thu thì héo tàn.
Mặc cho vận đời có thịnh hay suy, cũng đừng sợ hãi,
Cái sự thịnh hay suy mong manh như hạt sương treo đầu ngọn cỏ.
Dịch thơ
Đời người có có không không,
Cỏ xuân tươi tốt, khi đông héo tàn.
Sương treo ngọn cỏ mang mang,
Vận đời suy thịnh vô vàn, sợ chi!
(VŨ BÌNH LỤC-dịch)
Nhà Lý hưng thịnh, mạnh mẽ dần lên. Đến đời vua Lý Cao Tông thì bắt đầu suy tàn, kết thúc ở Lý Chiêu Hoàng. Nhà Trần thay thế, lại mạnh mẽ dần lên. Tháng 4 năm 1232, Thái sư Trần Thủ Độ, lấy lý do kiêng húy cụ Trần Lý (ông nội vua Thái Tông Trần Cảnh), đồng thời cũng có ý để thiên hạ dần quên đi ảnh hưởng của nhà Lý, nên cho đổi họ Lý thành họ Nguyễn và một vài họ khác. Vậy nên, thư tịch từ đời nhà Trần trở đi, đều ghi Lý Vạn Hạnh là Nguyễn Vạn Hạnh.
Đến đời vua Gia Long, lấy Huế làm kinh đô, nên đã hạ cấp Thăng Long xuống, cả về vị thế hành chính lẫn thực tế vật chất. Gia Long cho hạ thấp thành trì bao quanh. Chữ Long không còn là RỒNG nữa. Thăng Long chỉ là BẮC THÀNH, thuộc tỉnh Hà Nội mà thôi. Gia Long còn sai dỡ một số cung điện chuyển vào Huế. Thế nên, sĩ phu và dân chúng Bắc Hà nhìn Gia Long với con mắt không mấy thiện cảm. Nhìn Thăng Long hoang phế, các thi nhân bấy giờ đều đau lòng than thở, luyến tiếc một thời vàng son rực rỡ.
Tạo hóa gây chi cuộc hý trường,
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương.
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá cũng trơ gan cùng tuế nguyệt,
Nước còn chau mặt với tang thương.
Nghìn năm gương cũ soi kim cổ,
Cảnh đấy, người đây luống đoạn trường.
(Thăng Long thành hoài cổ-BÀ HUYỆN THANH QUAN)
Ảnh: VBL trước cổng đền thờ bà Phạm Thị Ngà (Mẹ Lý Thái Tổ).
Trong đền: Câu đại tự trên: THIÊN GIÁNG TIÊN NGA
Câu đại tự dưới: LÝ TRIỀU QUỐC MẪU
Lăng mộ bà Phạm Thị Ngà (LÝ TRIỀU QUỐC MẪU)- Thờ vọng thôi.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

BÀI MỚI ĐẮNG

Truyện ngắn: BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN _ NGUYỄN HẢI ĐĂNG

Bên cánh gà chánh điện phần 1 BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN Xe dừng lại với tiếng xột xoạt trên mặt đường, như bao chuyến xe đã ghé qua từ thuở ...