Thứ Hai, 28 tháng 9, 2020

CÁI XÁC TRÔI NGƯỢC - NHƯ KHÔNG

 CÁI XÁC TRÔI NGƯỢC

( Truyện ngắn này của Như Không đã được chọn để đưa vào bộ sách biên khảo có tên “ 108 các nhà thơ nhà văn Việt giữa thế kỷ XX “ do nhà thơ, nhà biên khảo Ngô Nguyên Nghiễm thực hiện và đã phát hành trong tháng 9 năm nay, 2020 )
... Khi vợ chồng ông Nhân về định cư ở ngôi làng xa xôi này, dân làng không có phản ứng gì. Đó là một làng chài ven biển sát chân núi, xế trên thượng nguồn có một dòng sông lớn đổ ra biển. Cả đời dân làng chài đầu sóng ngọn gió dựa lưng vào núi vào biển để sống, nhất phá sơn lâm nhì đâm hà bá có đủ, họ toàn là những người chơn chất, nai lưng đối chọi với thiên nhiên để kiếm cái ăn. Những người lương thiện và chất phác nhưng dũng cảm đó sống với nhau rộng lượng và nghĩa tình, trong số đó đã nhiều người từng trải sóng gió của biển khơi và cũng từng đương đầu với cọp dữ. Họ sống hồn nhiên và giản dị, hiếu khách và sẵn lòng giúp đỡ người khác. Vì thế mà khi vợ chồng ông Nhân và hai đứa con nhỏ một trai một gái đùm túm về đây, họ đã kéo nhau đến, tò mò hỏi han và tỏ ý giúp ông trong việc vào rừng đốn cây cất nhà. Nhưng rồi tất cả đàn ông – những người từng vào sinh ra tử - đều chờn chợn trước đôi mắt lạnh như băng của ông Nhân. Ông vẫn tươi cười cảm ơn họ nhưng từ chối tất cả mọi giúp đỡ. Miệng ông cười nhưng mắt không cười, cặp mắt lạnh băng lừ lừ của ông không hứa hẹn điều gì tốt đẹp cả. Cặp mắt của một người mà có lẽ trong quá khứ đã từng làm nhiều điều ác và không quen sống hòa thuận với người khác. Thằng con trai mười mấy tuổi mới lớn của ông – thằng Công – cũng có cách nhìn y như vậy. Con mắt của nó toát ra sự nghi ngờ, rất thiếu thiện chí và có vẻ ang ác. Dân làng kéo nhau ra về nhưng tất cả trong họ đều thấy có một cái gì đó rất không ổn về những người mới đến này. Không muốn giúp thì thôi. Nhưng sự tò mò của dân làng ngày càng lớn khi hơn nửa tháng sau, một căn nhà lợp cỏ tranh, rui kèo bằng những thân cây rừng bề thế đã được dựng lên. Sức một người và một thằng bé mới lớn không thể làm được chuyện đó trong thời gian ngắn như vậy. Họ ngạc nhiên bàn tán với nhau nhưng tới hỏi ông thì họ lại ngài ngại, cái vồng ngực nổi lên những múi thịt rắn chắc và hai cánh tay cuồn cuộn cơ bắp xăm rồng phượng, nhất là đôi mắt lạnh như mắt rắn của ông không hứa hẹn sự chân tình nào.
Ngôi làng đó ngay chân núi có một khu mả Chệt, nó đã có ở đó từ bao giờ cũng không ai biết. Các cụ cao niên ngày trước cho con cháu họ hay rằng đó là khu mả của bọn quân tướng Chệt ngày xưa bị đánh bại và ngay nơi này thuở xa xưa là chiến trường với vô số người chết. Các cụ ngày còn sống và ngay cả khi qua đời vẫn dặn dò con cháu nhang khói cho họ, thôi thì nghĩa tử là nghĩa tận, nó sang cướp nước mình thì mình cũng đánh bại nó rồi, giờ xác chúng nó nằm ở đây thì cũng nên thơm thảo với lũ chúng nó, người Việt bao đời nay vẫn thế. Những ngày rằm tháng Bảy âm lịch hàng năm người làng vẫn nấu chén cơm quả trứng ra cúng bái, cái nhân cái nghĩa của con người chứ có phải là cầm thú đâu mà mang mãi thù hận trong lòng ? Thế rồi sau đó không lâu, có nhiều đêm người xóm Chài nhìn thấy những đêm trăng ông Nhân dẫn thằng con ra đó luyện võ. Thằng con còn nhỏ nhưng chắc người, hai cánh tay cầm cây trường côn múa vun vút toàn những miếng hiểm hóc. Dân làng có nhiều người cũng am hiểu chút võ nghệ cứ ngây người ra nhìn, đường côn đi mãnh liệt như bão toàn những đòn sát thủ. Ông Nhân lờ đi, làm như không thấy họ. Ông chỉ im lặng đứng nhìn thằng con đang luyện võ, chốc chốc lại gằn một tiếng : “ Sai rồi. Mũi côn phải thấp một chút mới đâm đúng vào tử huyệt được “. Khi ông quay lại nhìn, tự dưng đám đông dân làng đâm ra chờn chợn rồi họ lặng lẽ lảng đi nơi khác. Cứ thế, gia đình ông Nhân không kết thân với ai mà cũng không ai giao du với ông. Những ngày mưa to gió lớn ông Nhân và thằng con lại ra biển, hai cha con ngụp lặn với sóng dữ cho đến tối mịt mới trở về. Vợ của ông Nhân và con bé gái thì tối ngày ru rú trong nhà không nghe tiếng nói.
Có một lần nhà ông Nhân có khách và đó cũng là lần mà dân làng hiểu thêm về ông đôi chút. Một bọn non chục người không biết từ đâu đến thăm ông, chỉ nhìn thoáng qua cũng biết không hiền lành tử tế gì, ở họ toát ra một vẻ gì của những con người quen với phong sương, quen kiểu sống đầu sóng ngọn gió. Thế nhưng tất cả đều tỏ ra kính nể ông Nhân dù có người lực lưỡng hơn ông và cao hơn ông cả cái đầu. Buổi chiều hôm đó khi cơm no rượu say, có một người trong bọn ra ngoài thăm khu xóm Chài. Không biết có chuyện gì xích mích mà có một gia đình trong làng Chài kéo nhau cả bốn anh em ra đòi ăn thua đủ với người khách của ông Nhân. Cả bọn hùng hổ vây người lạ vào giữa và cuộc ẩu đả coi bộ khó tránh. Người khách lạ thản nhiên cười nhạt đứng giữa vòng vây, khoanh tay trước ngực thách thức cho đến khi có người chạy đến báo cho ông Nhân biết. Ông thong thả đi ra nơi đám đông đang chuẩn bị đánh nhau. Ông điềm đạm cất tiếng nói với người khách của mình :
“ Này. Thôi đi. “
Rồi ông quay lưng ra về. Vẻ hung dữ của nguời khách lạ biến mất, y vội vã theo chân ông Nhân như con chó cụp đuôi theo chủ khi bị mắng. Đám đông dân làng cũng tưng hửng quay về. Và họ lại xầm xì bàn tán với nhau về ông Nhân, về lai lịch con người bí ẩn này. Ngày hôm sau thì đám khách đã kéo nhau đi, cũng đột ngột và lặng lẽ như lúc họ đến. Vẫn không ai biết thêm gì về họ cho đến ngày thằng Công con ông Nhân đột nhiên mất tích. Trước đó khá lâu, dân làng đã thấy thằng Công suốt ngày ở trong khu mả Chệt. Lúc thì nó luyện võ, lúc lại xì xụp khấn vái cả ngày, lại có đêm nó thắp đuốc ngồi một mình ở đó. Chẳng ai hiểu có mối liên quan nào giữa nó và những cái xác chết của bọn giặc đã chết từ cả hàng trăm năm trước. Nó như người điên, suốt ngày lang thang ngoài khu mả Chệt kéo dài đến tận chân núi, trên nữa là rừng già trải dài bất tận về phương Bắc. Nó thì thầm xì xụp với hết ngôi mộ này lại đến khu mộ khác, khi có những người dân làng nào đi săn về tình cờ nhìn thấy là mắt nó lại long sòng sọc nhìn họ, cái nhìn dài dại, hung dữ như loài ác thú tình cờ bắt gặp con người giữa rừng già. Toán thợ săn lặng lẽ bỏ đi vì cũng chẳng ai muốn dây vào cái gia đình quái đản này. Nhiều ngày sau khi thằng Công bỏ đi mất tích vào rừng, lần đầu tiên người ta thấy ông Nhân như có vẻ đổi khác. Ông đã nhiều ngày một mình đeo dao lặn lội vào rừng tìm thằng Công nhưng núi rừng mù mịt biết đâu mà tìm ? Khi ông thất thểu quay về, người làng cám cảnh đến hỏi thăm ông và ngỏ ý muốn giúp đỡ cho ông. Và đó cũng là lần đầu tiên họ thấy ông đã đổi khác, một ông già sắc diện thất thần, tiều tụy. Ông lễ phép cảm ơn những người dân làng Chài tốt bụng khi đứng lên tiễn họ ra về:
“ Tôi xin cảm ơn các ông nhưng các ông không giúp gì được tôi đâu ! “
Rồi ông hạ giọng : “ Quả báo …quả báo cả ! “ Ông lẩm bẩm như ông đang nói với chính mình. Nhiều năm lặng lẽ trôi qua nhưng thằng Công con ông Nhân vẫn biệt vô âm tín. Ông Nhân có khi bỏ cả tháng vào rừng tìm con nhưng lại về không. Trong xóm Chài, cuộc sống vẫn êm đềm trôi qua. Ông Nhân vẫn sống chừng mực, gặp ai cũng ân cần chào hỏi nhưng thân tình thì tuyệt đối không. Trong xóm có đám ma thì ông đến, ân cần thăm hỏi và ngày đưa đám thì ông đi theo, thắp cho người chết một nén nhang rồi lại quay về. Nhưng đám cưới thì không. Ông đến chúc mừng gia chủ, trao một món tiền mừng hậu hĩnh nhưng ở lại chè chén thì không bao giờ. Gần đây lại thấy ông lang thang nhiều ngày trong khu mả Chệt, săm soi từng tấm bia, từng viên gạch như tìm một điều gì đó, nét mặt lúc nào cũng ưu uất. Mấy hôm nay dân làng Chài lo âu xôn xao bàn tán về sự mất tích của cha con ông An. Trước đó gần tuần lễ hai cha con ông An chuẩn bị gạo mắm, dao mác để đi rừng. Theo lời họ hàng của ông kể lại thì ông đã tìm được một thân trầm lớn và trở về gọi con đi theo để mang về nhưng ông trễ hẹn đã mấy hôm. Vợ con ông nóng ruột gọi trai tráng trong xóm Chài vào rừng tìm hai cha con. Tình làng nghĩa xóm, họ vâng lời bà vào rừng tìm ông dẫu họ tin rằng một người như ông An, một người đi rừng lâu năm,võ nghệ đầy mình, đến con heo độc * đánh nhau với ông còn phải bỏ chạy, dễ gì thú dữ hại ông được ? Cả đoàn trai tráng mang dao mác vào rừng như đi chơi, họ nghĩ rằng cha con ông sẽ ngược chiều gặp họ trên đường trở về xóm Chài. Đến một cái trảng lớn cây cối thưa thớt họ bỗng nghe mùi thối xộc vào mũi. Cả đoàn người thận trọng dò dẫm từng bước tiến lên và kinh hoàng phát hiện ra xác chết của cả hai cha con. Ông Việt nằm ngửa, mặt hướng lên trời. giữa ngực có một vết thủng sâu hoắm dưới xương ức, vết thương trên ngực là một lổ thủng tròn lớn như bị một vật giống như một cành cây đâm vào bằng một lực rất mạnh. Xác con ông nằm sấp gần đó, xương cổ gãy đôi. Chung quanh không có dấu máu trừ chổ vạt cỏ nơi ông Việt nằm, máu thấm ướt qua lớp áo chảy tràn xuống cỏ từ vết thương trên ngực nơi xác ông nằm. Ông mở mắt trừng trừng nhìn trời như có vẻ kinh ngạc tột độ trước khi chết. Dao mác của hai cha con rơi gần hai cái xác nhưng các bịch lương thực mang theo mất sạch. Đoàn người đi tìm cho người về làng chài báo tin, cắt cử người canh gác và qua đêm trong rừng. Hôm đó là một đêm trăng tròn, giữa khuya họ nghe tiếng hú rợn người từ trong rừng sâu vọng lại. Tiếng hú mơ hồ giữa khuya trong đêm rừng nghe nửa như tiếng người nửa như tiếng thú. Người lớn tuổi nhất trong bọn họ ghé tai người khác thì thầm: “ Con Xà Niên ! Con Xà Niên ! “ (** ). Cả bọn chong trắng mắt tới sáng rồi đẵn cây làm thành hai cái cáng khiêng xác hai cha con ông Việt về làng. Đêm đó cũng không ai ngủ được. Khi tắm rửa cho cái xác của ông Việt, họ đã thấy rõ vết thương trí mạng dười xương ức ông có hình tròn,lổ thủng xuyên suốt vào bên trong đến gần xương sống. Con vật gì mà có thể gây ra một vết thương như vậy ? Xác con ông cũng thế, xương cổ gãy đôi như có một lực rất mạnh đánh vào. Không có vết cắn, cũng không có dấu cào cấu nào do thú dữ gây ra và rất ít máu. Trăn rừng thì không thể. Quấn được mồi, chúng chỉ siết chặt cho đến chết rồi nuốt chửng. Beo hay cọp thì chúng đã tha đi mất xác. Cũng không phải là heo độc. Vết nanh do heo độc gây ra phải thấp hơn và không bao giờ chúng chỉ húc nạn nhân một lần. Vậy thì con vật nào đã gây ra những cái chết này ? Rồi gạo mắm hai người mang theo mất đi đâu ? Khi họ đang bàn tán cùng nhau thì ông Nhân bước vào. Ông cúi chào mọi người rồi bước lại gần hai xác chết còn chưa kịp tẩm liệm. Khi đang cúi người xem xét vết thương trên hai cái xác đột nhiên ông lùi lại, kêu Trời một tiếng rồi sắc mặt trắng bệch hẳn đi. Ông cứ thế lùi mãi ra cửa như chạy trốn rồi lảo đảo một mạch trở về. Dân xóm Chài không thấy mặt ông trong ngày đưa hai cha con ra nghĩa địa. Họ chôn xác hai người chết nơi khác vì người Việt làm sao mà nằm trong khu mả Chệt cho được ?
Nhiều ngày sau lại có một chuyện động trời khác. Một chiếc ghe chài ra khơi dài ngày, một đêm tối trời bỗng dưng có một con quái lông lá bù xù không rõ hình dạng bỗng từ dưới biển xốc lên, quắp lấy ông Nam là chủ chiếc ghe chài rồi lao xuống biển mất tích. Cái xác ông Nam sau khi được tìm thấy không có dấu vết gì, người bị con vật lông lá lôi xuống biển chết vì đuối nước. Người chết là người đi biển hàng chục năm nay, bơi lội như rái dễ gì rớt xuống biển mà chết được ? Bên hông ông Nam lưỡi dao nhọn mang theo đã mất, chỉ còn lại cái bao bằng da thú rừng. Khi đưa xác về, cả làng Chài co cụm lại hoang mang lo sợ như có giặc. Kiếm ăn trên rừng không yên, xuống biển cũng chết làm sao mà sống ? Khu mả Chệt dạo này nhiều đêm bỗng có tiếng hú rợn người vọng về, tiếng hú giống y như tiếng hú mà đám thợ rừng đã nghe giữa đêm khuya trong lần vào rừng tìm hai cha con ông An. Cả tháng nay không ai thấy mặt ông Nhân, có lẽ ông đã lại vào rừng tìm thằng con mất tích. Cuộc sống bình dị của làng Chài không còn yên ổn nữa từ ngày cha con thằng Công về đây,từ ngày nó ra ăn dầm nằm dề ngoài khu mả Chệt rồi mất tích trên rừng là cái làng nhỏ bé này liên tiếp xảy ra thảm họa. Mới hôm kia thôi, căn lều của hai mẹ con bà Năm gần khu mả Chệt bỗng dưng phát hỏa, may mà hai mẹ con chạy thoát được. Bà mẹ kể lại rằng nửa đêm bỗng nghe tiếng hú, tiếng cười sằng sặc hoang dại rồi cả căn nhà bỗng dưng phát cháy rừng rực. Bà chỉ kịp lôi đứa con gái nhỏ rồi chạy một mạch về làng, tiếng hú rợn người cứ đuổi theo sau lưng. Từ đó, bà con trong xóm Chài giúp bà làm một cái chòi lá nhỏ để ở vì bà không dám ở xa một mình như trước.
Vào một buổi chiều mặt trời đỏ rực sắp lặn trên ngọn những bóng cây rừng xa vươn lên bầu trời, người trong xóm Chài thấy ông Nhân trở về, một tay cầm cây mác, tay kia cầm một thanh dây mây già buộc vào cổ một con quái vật nửa người nửa thú trở về. Con vật như bị thương, khập khiễng vừa đi vừa bò theo chân ông. Gần đến làng bỗng dưng con vật lồng lên, quay đầu chạy về phía rừng. Ông Nhân quát lên một tiếng dữ dội, tay vẫn lăm lăm ngọn mác : " Nghe ! “
Tay ông giật mạnh sợi dây mây rừng, con vật văng bắn trở lại. Con quái lông lá nhũn người theo ông về nhà. Khi ông Nhân lấy ra một sợi xích sắt xích chân con vật vào một cậy cột to tướng trong nhà gần bàn thờ, con vật bỗng vùng lên, vung mười ngón tay chụp vào mặt ông. Ông Nhân khoát cánh tay trái nửa vòng tránh cú chụp chết người, tay phải hất một cái, cú hất nương tình vừa đủ để con quái ngã ngửa ra sau. Ông lại quát lên một tiếng đanh như tiếng súng:
“ Nghe ! “
Người trong xóm Chài xúm đen xúm đỏ chen chúc nhau đến xem, ai cũng ngờ ngợ cho rằng đó là con xà niên, một loại nửa người nửa thú mà từ cả trăm năm nay không còn nghe ai nói tới. Khi ông Nhân quay lại, lời nói vẫn lễ độ nhưng cái ánh mắt lại lạnh như thép y như ngày ông mới đến:
“ Xin các ông bà về cho. Chuyện của tôi, hãy để cho tôi tính “.
Mà đúng là chuyện của ông thật, mấy ngày sau khi có người đi ngang qua nhà ông, họ đã nhìn thấy con xà niên sau khi được ông Nhân cắt bỏ lớp lông lá đã hiện ra một khuôn mặt người nhưng cũng không còn là người. Thằng Công !
***
Vậy là từ hơn mười năm nay, vì một lý do bí ẩn nào đó không ai biết - kể cả ông Nhân – thằng Công vẫn còn sống trong rừng. Nó sống bằng cách nào thì không ai biết nhưng nó đã dần dần thích ứng với cuộc sống mới. Lông lá mọc đầy trên người , nó sùi bọt mép ra khi nhìn thấy người lạ, dùng tay bốc thức ăn bỏ vào miệng như loài dã nhân. Thỉnh thoảng ông Nhân vào rừng săn thú, lúc ông về lủng lẳng con mang con chồn trên vai thì thằng Công như phát cuồng. Nó phóng vút người vồ lấy con thú còn dính đầy máu tươi trên vai ông rồi với một cú xé mãnh liệt, nó đã xé con vật ra làm hai rồi ngốn ngấu những mảng thịt tươi đầy máu. Ông Nhân tuyệt vọng nhìn thằng con. Nó không còn là người, là con của ông nữa. Nó là người rừng, nó phải thuộc về rừng. Loài người không phải là đồng loại của nó. Sợi xích sắt to và nặng buộc nó vào cái cột gỗ rừng kiên cố trong nhà và với bản năng của một con thú, nó biết rằng nó đang bị khuất phục bởi một con vật mạnh hơn nó: Ông Nhân. Lờ mờ trong ký ức còn sót lại, nó hiểu rằng người đàn ông vạm vỡ kia có gì đó liên quan đến nó và chắc chắn mạnh hơn nó. Nó tin rằng ông là người duy nhất sẽ không làm hại đến nó. Nhưng nó nhớ rừng. Hễ cứ những đêm trăng tròn là nó lại lết ra cửa, ngồi nhìn trăng rồi hú lên những tiếng thảm thiết. Nó nhớ rừng, nhớ sự hoang vu bí ẩn trong cánh rừng đại ngàn đầy thú dữ phía xa, nhớ những lần đi săn mồi, nhớ mùi máu tươi của những con vật mà nó đã giết để sống. Dân xóm Chài giờ đã biết nó chính là con vật kỳ lạ có tiếng hú lanh lảnh rợn người trong rừng đêm. Ông Nhân già đi thấy rõ. Trong lòng ông chất chứa một điều bí mật khủng khiếp mà chẳng ai hay. Ông sinh đẻ ra nó, thả nó về rừng thì lòng ông không nỡ mà mối nguy hiểm thực sự khi nó lại trở về rừng mới là mối lo tâm huyết của ông. Mà để nó trong nhà thì cũng không ổn, tiếng hú kinh hoàng của nó vào những đêm trăng tròn làm những người dân xóm Chài hiền lành mất ăn mất ngủ. Họ sợ. Nó mà xổng ra thì ai trị được nó ? Ai biết nó sẽ làm những gì ? Vợ con ông Nhân thì như người chết rồi, bà già chúi trong nhà, không dám nhìn mặt ai, con em gái của thằng Công cũng vậy. Cái tai họa ập đến cho gia đình ông lớn quá, kinh khủng quá, kỳ dị quá. Dân xóm Chài dạo này đâm ra thương hại ông, nhiều ông già trong xóm đánh bạo lân la đến trò chuyện với ông, người bày món lá rừng này, người chỉ món thuốc kia chữa trị cho thằng Công. Ông Nhân là ai, từ đâu đến, lai lịch ra sao chẳng ai biết. Nhưng rất rõ ông là người hiền lành, ăn nói chừng mực dù hoàn toàn không thân thiện. Với họ như thế cũng đủ rồi. Tính tình họ chất phác, chín bỏ làm mười, bao đời nay vẫn vậy. Họ thương ông và muốn giúp đỡ cho ông nhưng cũng bất lực. Ngày ngày, con xà niên – thằng Công – vẫn ủ rũ ngồi đó. Đôi lúc lên cơn nó vồ xé cả ông Nhân. Ông chỉ tránh những cú vồ của nó rồi quát lên một tiếng là nó lại chạy trốn ra sau chiếc cột. Nó sợ ông.
Một ngày khi ông Nhân đi rừng, đang lần dò theo dấu một con thú lớn thì có hai cậu trai làng hào hễn thở chạy đến tìm ông Họ cho ông hay rằng thằng Công đã sổng dây xích, đã phá tan hoang nhà cửa và hình như vợ và con gái ông đã chết. Ông Nhân điếng người, băng rừng lao về. Từ xa ông đã nhìn thấy dân làng lăm lăm gậy gộc dao mác đang vây lấy nhà ông nhưng chẳng ai dám xông vào. Phía trong nhà ông là thằng Công, trên tay nó cầm cây côn của ông bằng một gốc mây già đã lên nước bóng loáng đang chân trước chân sau đứng gườm gườm thủ thế. Bàn thờ ông bà, bài vị và bát nhang trên bàn thờ rơi xuống đổ vỡ tan tành, giữa đống trái cây thờ cúng đầy những dấu răng gặm nham nhở. Xác bà vợ ông ngồi dựa đầu vào một thân cột gỗ gần bàn thờ nơi sợi xích thằng Công nằm lăn lóc, từ miệng bà một dòng máu tươi chảy xuống ướt áo. Ông Nhân gầm lên một nhảy vào, vung tay chộp lấy thanh tre đực vẫn dùng để gài cửa mỗi đêm. Thằng Công lùi lại một bước rồi chờn vờn nhìn thẳng vào mặt ông. Nó không còn là con ông nữa rồi. Nó là một con ác thú và bây giờ, ngay ở đây là một trận chiến sinh tử. Ông dạy võ cho nó từ nhỏ nên nó chỉ nhích chân là ông đã biết nó sẽ ra đòn như thế nào. Nhưng từ ngày nó vào ở trong khu mả Chệt, không biết vì sao, học ở đâu mà nó có những thế võ rất lạ. Ông hỏi thì nó ậm ừ không nói. Bây giờ thì hai cha con, một người một thú đấu với nhau một trận cuối cùng. Ông sống thì nó phải chết và ngược lại. Rất nhanh, ông Nhân hiểu ngay cái trách nhiệm mà ông có bổn phận phải gánh vác. Ông đã đưa nó về đây, về ngôi làng hiền hòa yên ả này và nó đã gây ra những cái chết mà chỉ có mình ông biết. Bây giờ thì nó đập phá bàn thờ nhà ông tan tành. Nó đã giết chính mẹ đẻ ra nó. Xác em gái nó treo lửng lơ trên xà nhà sau dưới một sợi dây thừng, nửa thân trên gần như trần truồng, chiếc áo đang mặc bị xé tan nát đang mở mắt trừng trừng. Vụt một cái, ông Nhân hiểu hết sự việc. Không biết bằng cách nào đó nó đã vuột khỏi sợi xích. Nó nhảy lên bàn thờ, hất văng những thứ trên đó xuống và lúc nó đang ngấu nghiến những thứ trái cây trên đó thì Mẹ và em gái nó chạy ra. Chắn chắn nó đã lao xuống, đẩy bắn bà vào thân cột và bà chết vì vỡ sọ. Rồi khi nhìn thấy em gái nó, - một con cái trong mắt nó - thì nó lao vào đè nghiến cô xuống. Cô đã vùng vẫy chống cự lại nhưng làm sao mà chống được ? Rồi khi đã thỏa mãn thú tính, nó lại quay về với đống trái cây trên bàn thờ rơi xuống.Có lẽ dân làng thấy động đã chạy đến đúng vào lúc đó. Cô gái nhục nhã, uất ức và xấu hổ, chỉ kịp mặc lại cái quần đã chạy vào treo cổ lên xà nhà.
Ông Nhân quát lên một tiếng, mắt đỏ ngầu:
“ Buông !“
Thằng Công đã nhìn thấy ông bước vào. Nó nghiêng người, vụt vào đỉnh đầu ông Nhân một ngọn côn sấm sét. Nhanh như chớp,ông lạng người về bên trái một bước. Ngọn côn xé gió vút ngang qua vai ông. Khi đầu ngọn côn đập vào nền gạch một tiếng chát chúa thì ông đảo người, chân phải đạp lên thân côn bằng mây dẻo lấy đà, ông bung chân trái tạt ngang một cú đá như trời giáng vào cổ thằng Công. Nó lảo đảo lùi lại rồi hộc lên một tiếng, ngọn côn từ bên mé trái vụt thẳng vào mặt ông. Ông Nhân cúi người xuống tránh rồi tay phải bật vút lên, tay trái vẫn giữ đầu cây tre gài cửa trả đòn. Dân xóm Chài lớp trong lớp ngoài đứng xem trận quyết đấu giữa hai cha con, một người một thú. Họ không dám vào giúp ông vì biết chỉ làm ông vướng tay vướng chân. Mà họ cũng đã từng nhìn thấy thằng Công luyện võ, cỡ như họ cũng chẳng ăn thua gì. Hai người càng say đòn, càng lúc càng ra giữa sân. Hôm đó là một đêm trăng tròn. Trong đời những người dân xóm Chài, họ chưa từng thấy một trận đấu nào như vậy, chưa từng chứng kiến một điều gì như vậy. Một trận đấu sống chết giữa người và thú nhưng lại là hai cha con.
Ông Nhân hình như đã đuối sức. Thằng Công càng đánh càng hăng, nó đang sức trai, lại nhiều năm sống trong rừng già. Nó phải giết để sống. Nó đã sống trong rừng già nhiều năm, từng vượt thác băng ghềnh mỗi ngày nên nó có cái dẻo dai của một con thú dữ. Võ nghệ ông Nhân đã dạy cho nó giúp nó sống được giữa rừng già. Và bây giờ, sau những điều kinh thiên nghịch địa mà nó đã gây ra, nó lại dùng chính những ngón võ ông dạy để giết ông. Nó không còn là người, nó không phải là con ông Nhân, lại càng không phải là cư dân của cái xóm Chài hiền lành này. Nó đã chứng minh cái bản năng thú dữ của nó. Bản năng của nó là giết, là đốt, là phá. Ông Nhân càng lúc càng càng lui về phía sau. Cái thanh tre cài cửa ông cầm trên tay như càng lúc càng chậm. Thằng Công hộc lên một tiếng, mũi côn hướng về phía ngực ông Nhân đâm thẳng tới một đòn sấm sét. Ông Nhân cũng bước lên một bước, mũi cây tre gài cửa cũng hướng thẳng về phía ngực thằng Cộng. Đột nhiên ông nghiêng người một chút, thanh trường côn của thằng Cộng sượt qua da xé rách toang cái áo bằng da thú để đi rừng ông đang mặc nhưng thanh tre ngắn hơn nhiều của ông đang run run trên tay đã đâm vỡ xương ức của thằng Công. Nó rú lên một tiếng rồi ngã vật ra đất, một vòi máu vọt thẳng lên trời rồi nằm lịm đi.
Ngay trong đêm hôm đó, bà con ở khu xóm Chài đã chung tay lo hậu sự cho vợ con ông Nhân. Thằng Công bị một đòn chết người từ chính tay cha mình được ông Nhân bế vào buồng mẹ nó, không biết còn sống hay đã chết.
Sau ngày chôn cất vợ và con gái, mấy hôm sau ông Nhân làm một tiệc rượu mời các vị cao niên và các gia đình trai tráng trong khu xóm Chài đến dự. Ông ăn mặc gọn ghẽ như sắp đi xa, con dao đi rừng dắt bên hông. Sau khi các người tham dự tiệc rượu đã an vị, ông Nhân bước ra , cung kính cúi người vái chào. Ông Nhân cất tiếng, giọng ông như lạc hẳn đi, đôi mắt đỏ ngầu vì đau thương và vì nhiều đêm không ngủ như từ cõi nào vọng về.
« Tôi xin cung kính cảm ơn các ông bà đã vì tôi mà chịu thiệt thòi cho đến hôm nay. Tôi cũng xin cúi đầu cảm ơn các ông bà đã giúp tôi lo cho chuyện tang lễ của vợ con tôi. Tôi cũng xin các ông bà muốn xử tôi thế nào cũng được qua những việc tày trời mà thằng Công đã làm. Khi đưa xác cha con ông An chết trong rừng về, nhìn vết thương của hai người tôi đã biết là do chính thằng Công gây ra. Đó là một thế đánh rất hiểm độc, chỉ xử dụng khi chính bản thân người ra đòn đang gặp hung hiểm. Tôi cho rằng vì ông An cũng là người giỏi võ nên thằng Công phải ra đòn này, ngón đòn sinh tử do chính tôi dạy nó. Nhưng tiếc vì ông An còn non tay nên mất mạng. Còn con ông An chết vì bị gãy cổ chỉ bằng một đòn đánh cũng do thằng Công gây ra. Tôi biết là thằng Công còn sống trong rừng nhưng vì đâu nó lại giết hai người này là điều tôi không tài nào hiểu nổi. »
Ông Nhân đứng lặng một chút rồi tiếp lời :
« Có thể vì nó đã sống trong khu mả Chệt. Về sau này, tôi thấy nó có những ngón đánh rất lạ. Hỏi thì nó không nói. Hóa ra những ngày nó ở lì trong khu mả, bằng cách thức nào đó thì tôi không rõ, nó đã học những thứ ác độc và đem những ngón đòn ác độc đó hạ thủ chính những người dân mà nó đang sống chung. Ông Nam chết ngoài biển cũng do chính nó ra tay. Tôi dạy nó từ nhỏ, thằng Công xuống biển thì không khác gì con cá mập cá xà. Nhưng sao nó lại ra tay giết ông Nam thì tôi không biết. Tại sao nó lại đem lòng thù hận những người từng cưu mang nó khi cha con chúng tôi chân ướt chân ráo mới đến đây ? Rồi nửa đêm nó ở trên rừng xuống đốt nhà bà Năm. Đến lúc đó thì tôi quyết phải mang nó về. Giết nó thì tôi không nỡ vì chính nó là hòn máu của tôi. Nhưng không thể dung nó được nữa «
Ông Nhân bước tới bàn, rót một bát rượu đầy mời mọi người rồi ngẩng cổ nốc cạn bát rượu. Ông rút phắt con dao rừng đang đeo trên thắt lưng đặt lên bàn rượu :
« Hôm nay tôi xin đền tội. Xin các vị cứ ra tay. Nhân này đầu đội trời chân đạp đất quyết không chống lại «
Ông ngồi xuống một chiếc ghế rồi nhắm mắt lại. Mọi người chung quanh ông Nhân ngồi im như tượng, thân nhân của những người chết dưới tay thằng Công cũng ngồi bất động. Mấy cụ già thầm thì bàn tán với nhau rồi một ông tiến lại chỗ ông Nhân đang ngồi đặt tay lên vai ông nghẹn ngào :
« Ông cũng đã đau khổ lắm rồi. Chúng tôi hiểu và tha thứ cho ông. Nhà ông cũng đã ba người chết. Chúng tôi còn hạch tội ông thế nào được ? Xin ông đứng lên. Quên hết đi thôi mà sống với nhau «
Một hồi lâu ông Nhân lại đứng lên :
« Xin cảm tạ các ông bà đã tha mạng. Trước đây đã lâu, chắc các ông bà còn nhớ có một bọn người đến đây thăm tôi. Họ đều là những người sống trong giang hồ, giết người không chớp mắt.Tất cả họ trước đây đều là thủ hạ của tôi cả. Họ đến nhờ tôi ra tay giúp họ trong một chuyện làm ăn lớn nhưng tôi đã từ chối. Khi đến nơi này, tôi đã nguyện trong lòng sẽ không bao giờ để tay dính máu cả. Tôi biết là từ chối họ sẽ rất nguy hiểm cho bản thân, họ có thể tìm cách giết tôi nhưng thà rằng tôi chết chứ không bao giờ nhúng tay vào việc ác nữa. Cho đến ngày con tôi, thằng Công gây ra những cái chết thảm khốc cho gia đình các ông bà. Xin nhận cho tôi ba lạy về những điều đã xảy ra và xin cung kính xin ông bà cho tôi chuộc lỗi. «
Ông Nhân bước vào nhà trong rồi lại bước ra với một cái túi bằng da hổ nặng trĩu. Ông đặt trên bàn trước mặt mọi người tồi từ tốn nói :
« Thưa các ông bà, trong này có rất nhiều vàng bạc. Tôi có nó từ những kẻ độc ác ăn tàn phá hại xứ sở này, những tên quan cướp bóc của những người hiền lành lương thiện và tôi cũng phải trả giá bằng máu mới lấy được những của cải này. Nhưng bây giờ tôi không cần đến nữa. Tôi xin hoàn trả số vàng ngọc này lại cho những người lương thiện. Các ông bà đã mất ba người vì chết dưới tay thằng Công. Tôi cũng mất ba người. Vợ và con gái tôi đã chết. Thằng Công cũng sắp chết rồi, lúc nó dùng ngón đòn chết người để giết tôi, tôi cũng dùng chính ngón đòn đó để giết nó. Nhưng trước lúc đâm ngọn côn tre vào ngực nó tôi bỗng run tay. Vì nó là con tôi. Nên cú đâm đã chệch đi không trúng vào tử huyệt. Nếu tôi không run tay thì nó đã chết. Đó chính là ngọn đòn nó đã dùng để giết ông An trong rừng. Nhưng nó cũng không còn sống được nữa. Xin các vị hãy nhận số vàng bạc này. Ân oán đã sòng phẳng. Tôi sẽ ra đi sau khi thằng Công chết vì tôi cũng không thể nào sống ở đây được nữa. Căn nhà của bà Năm thằng Công đã đốt cháy, xin các ông bà giúp tôi chuyển hai mẹ con về đây ở. Một lần nữa xin cúi đầu trước ông bà và xin thứ lỗi cho tôi. »
***
Hai ngày sau khi ông Nhân vào thăm con thì thằng Công đột nhiên tỉnh lại. Nó nằm trên chiếc chõng tre nhìn ông chăm chú rồi đột nhiên cất tiếng :
« Cha ! «
Đó là tiếng người đầu tiên mà nó nói từ khi đi biệt vào rừng. Ông Nhân ngồi xuống bên con, ông biết rằng nó sắp chết. Bàn tay xanh xao vì mất nhiều máu của nó lần dò tìm nắm lấy tay ông. Nó thều thào :
« Lạy Cha… tha lỗi cho con. Con sắp chết rồi «
Một giọt nước mắt lăn xuống má ông Nhân.
« Con chết nhưng không dám gặp mặt Mẹ…không dám gặp em được nữa. Cha cứ cho con về rừng. Xin Cha mang con ra sông rồi thả con xuống đó…Con xin lỗi Cha. Cha… tha thứ cho con. «
Nó thở hắt ra hơi cuối cùng . Cặp mắt đã đứng tròng, cái đầu ngoẹo sang một bên. Ngay chiều hôm đó ông Nhân chèo một con thuyền nhỏ mang xác con ra sông. Đó là một dòng chảy dữ dội từ những con suối trên núi xuống tạo thành một con sông lớn chảy men theo xóm Chài từ bao đời nay. Ông Nhân một mình ẳm xác con trên tay. Đầu nó rúc vào nách ông y như ngày xưa khi nó còn nhỏ. Mặt trời đã xuống thấp, hắt một vùng lửa đỏ rực trên những con sóng nhỏ. Chung quanh không một bóng người. Trên cao, bầu trời đầy mây đỏ hạ thấp xuống những cánh rừng đang dần dần tối lại. Cả một con sông đỏ quạch như một dòng lửa đang cuồn cuộn chảy về xuôi. Một cánh chim về muộn bay về phía rừng, buông những tiếng kêu ảm đạm.
Thằng Công không phải là người dù nó từng đã là người. Khi sống nó đã bỏ vào rừng thì chết đi nó phải về rừng. Đó mới là nơi thực sự của nó, nơi loài thú dữ sẵn sàng xé xác nhau để sống. Ông Nhân chèo mãi ra xa, gần đến nơi mà nước từ trên nguồn đang cuồn cuộn chảy xuống, xác đứa con ông vẫn nằm trên tay. Ông thả xác thằng con duy nhất của ông xuống sông khi trời đã sắp tối. Cái xác thằng Công cứ bập bềnh, xoay xoay chung quanh ông mấy vòng. Rồi cái xác bỗng trôi ngược dòng, vun vút về phía thượng nguồn. Nó trôi ngược dòng nước đỏ như máu và biến mất dưới những đám bọt trắng xóa nơi cửa rừng, xa tít phía trên kia là dãy Trường Sơn.
Ông Nhân quay mũi thuyền thả trôi về xuôi. Trời tối dần. Ông đứng một mình trên thuyền giữa con sông giờ đã tối đen. Đêm nay cũng là đêm đen tối nhất trong đời ông. Bóng ông đã chìm hẳn vào trong bóng đêm. Phía sau xa tít là những ánh lửa từ xóm Chài. Với ông đêm vẫn còn dài nhưng với họ, với những người dân xóm Chài hiền lành vào ngày mai trời lại sáng.
Chắc chắn như thế.
nhukhong
6/2019
Chú thích :
* Heo độc là loại heo rừng rất lớn và rất hung dữ, chỉ sống một mình không theo bầy đàn và hay tấn công người nhờ vào cặp nanh rất lớn và nhọn hoắt như lưỡi dao.
** Con Xà Niên là tên gọi những người đi tìm trầm bị lạc vào rừng sâu vào khoảng những năm đầu thế kỳ 19. Lâu ngày sống trong rừng, họ dần dần quên mất tiếng người.
Hình ảnh có thể có: đêm và ngoài trời

Thứ Hai, 21 tháng 9, 2020

SÔNG LAM - MỘT THI PHẨM HAY CỦA TRẦN MẠNH HẢO - ĐỖ TRƯỜNG

( Bài Sông Lam của TMH đây- bác Hoang Mạnh Hải Phòng)
SÔNG LAM- MỘT THI PHẨM HAY CỦA TRẦN MẠNH HẢO
Cuộc hội ngộ cuối năm vừa rồi, trong lúc khật khừ, có ông bạn người Hà Tĩnh, đến từ Berlin, hỏi tôi: Từ khi có thơ mới đến nay, Đỗ Trường yêu mến tài năng nhà thơ nào nhất? Một câu hỏi, thật khó trả lời. Bởi, kể từ khi xuất hiện phong trào thơ mới, cho đến sau 1954 cắt thành hai nền văn học Bắc – Nam, rồi đến nay, chúng ta có nhiều thế hệ nhà thơ tài năng, đáng yêu, đáng kính (từ trong nước, ra đến hải ngoại). Tuy nhiên, khi đi sâu vào đọc, và nghiên cứu, ta có thể thấy, nhà thơ nào cũng vậy, đã có hay, chắc chắn phải có dở. Do đó, khó có thể làm một phép tính để phân biệt, so sánh rạch ròi. Song mỗi người đọc đều có cái gu riêng của mình. Nếu buộc phải trả lời, có lẽ, sau Huy Cận, thì hình ảnh so sánh, ẩn dụ cùng với tài năng liên tưởng của Trần Mạnh Hảo cho tôi cảm hứng, xúc động khi đọc nhất.
Ông bạn Hà Tĩnh nghe xong, tỏ vẻ gật gù, nhưng dường như chưa thỏa mãn cho lắm: Vậy Đỗ Trường có thể đưa ra một, vài ví dụ chăng? Không trả lời ngay, tuy nhiên, tôi hỏi ngược lại gã: Ông đã đọc bài Sông Lam của Trần Mạnh Hảo chưa? Gã lắc đầu. Tôi gõ Google, tìm bài thơ cho gã, và bảo: Chưa đọc, đó là một thiếu sót lớn của một người con Hà Tĩnh. Bởi, đây là một bài thơ viết về đất và người Nghệ Tĩnh, với những hình tượng mới lạ, hay nhất mà tôi đã được đọc:
SÔNG LAM
“Sông bổ đôi Nghệ Tĩnh
Sông nằm hóa lục bát Nguyễn Du
Sông đứng thành Hồng Lĩnh
Sông đi thành ví dặm trời xanh
Sông vắt kiệt lòng mình nuôi đất cát
Thương đất nghèo sông xanh rớt mồng tơi
Sông ẩn hồn trong vại cà,vại nhút
Một củ khoai cũng lấp ló mây trời
Con cò mặc áo tơi đi học
Cá sông Lam còi cọc toát mồ hôi
Gió hào kiệt thổi xơ Nghệ Tĩnh
Cá gỗ nuôi lớn những thiên tài
Trời hào phóng mây trắng
Đất tằn tiện ngô khoai
Đến cỏ dại cũng mọc thành chữ nghĩa
Đồ Nghệ Sông Lam dạy biển cả học bài
Gió Lào thổi mây giòn bánh đa nướng
Sông Lam nuôi nứt nẻ mỗi hạt vàng
Gió lập ngôn đầu hồi luồng lĩnh xướng
Khoai lang gàn luống dọc thích bò ngang
Sông thao thức sóng tràn bờ bắc
Sông nằm mơ tĩnh lặng khói bờ nam
Thúy Kiều đến Tiên Điền tìm họ mạc
Hai trăm năm Tiền Đường mê mẩn nước Lam Giang
Để rú Quyết lặng thầm đi cứu nước
Sông veo veo trời đất thoắt sen vàng
Sông Lam ăn cát mà xanh,uống trời mà mát
Trăng cháy hết lòng sâu quyết liệt cả cơ hàn
Người giàu có nên đất nghèo khô khát
Kìa gió Lào thổi cong sông Lam…
Có những nhận định từ trước đến nay: Chỉ có các nhà thơ, nhà văn viết về chính quê hương của mình mới có những tác phẩm hay, và chân thực. Nhưng đọc và đi sâu vào văn học sử, đã cho tôi một suy nghĩ ngược lại: Thường những mảnh đất, đồng quê xa lạ mới là đề tài để các nhà văn, thi sĩ đẻ ra những tác phẩm hay. Thật vậy, nếu không có cái nhìn xa lạ, tò mò khám phá của cậu bé đến từ nơi phố thị, thì chắc chắn, sau này Vũ Thư Hiên khó có thể viết được tác phẩm Miền Ấu Thơ về đồng quê hay, đặc sắc có sức sống bền bỉ, lâu dài. Và Trần Mạnh Hảo cũng vậy. Nếu sinh ra, và lớn lên ở Nghệ Tĩnh, chưa chắc ông đã viết được Sông Lam, với những hình tượng mới lạ, sâu sắc làm rung động không chỉ người đọc nơi xứ Nghệ.
Có lẽ, phải có mối quan hệ, tình yêu thật đặc biệt với đất và người nơi đây, để một phút xuất thần, Trần Mạnh Hảo đã cô cảm xúc của mình bằng con mắt khám phá, kiếm tìm thành thi phẩm Sông Lam. Viết đến đây làm tôi nhớ đến cảm xúc, nội tâm Trần Mạnh Hảo. Cũng như nhiều người, tôi nghĩ, Trần Mạnh Hảo phải là nhà thơ cứng cỏi, quyết liệt đến tận cùng trong cuộc sống, cũng như trong văn thơ. Nhưng tôi đã lầm. Cách nay chừng dăm năm, Trần Mạnh Hảo từ Việt Nam sang Đức. Tôi đón anh từ Frankfurt/Maiz. Trên đường về, đưa anh vào thăm nhà và quê hương của Đại thi hào Göthe ở thành phố Weimar. Rất không may, hôm đó là ngày đóng cửa, không ai được phép vào trong nhà của Göthe. Nắm chặt tay cửa nhà Göthe, Trần Mạnh Hảo như khụy xuống, lẩm bẩm câu gì đó, rồi hai mắt lệ tuôn rơi. Lúc này, tôi thấy dường như có một Trần Mạnh Hảo khác nữa. Không biết, anh đang khóc cho mình, hay khóc cho Göthe. Thì ra, nội tâm anh rất thơ trẻ, mềm nhũn, dễ xúc động nhiều hơn tôi tưởng. Từ cảm xúc ấy, ngay đêm đó anh viết một bài thơ rất hay về Göthe và Weimar…
Ngay từ khổ thơ đầu Trần Mạnh Hảo đã hình tượng hóa Sông Lam như một cơ thể sống. Do vậy, động từ bổ, tách đôi chân Nghệ An, và Hà Tĩnh dường như đã hoán đổi mang tính chất, văn hóa linh hồn đất và người nơi đây: “Sông bổ đôi Nghệ Tĩnh/ Sông nằm hóa lục bát Nguyễn Du/ Sông đứng thành Hồng Lĩnh/ Sông đi thành ví dặm trời xanh“.
Không chỉ dừng ở văn hóa, linh hồn, mà cái tình yêu, sự đùm bọc của đất và người đã bật lên những khát vọng: “Sông vắt kiệt lòng mình nuôi đất cát/ Thương đất nghèo sông xanh rớt mồng tơi/ Sông ẩn hồn trong vại cà, vại nhút/ Một củ khoai cũng lấp ló mây trời“. Và “Con cò mặc áo tơi đi học“ tuy là hình ảnh so sánh ẩn dụ về cái cặm cụi, lam lũ và đói nghèo, song nó vẫn chỉ dừng lại một câu khẩu ngữ thường nhật. Nếu đứng một mình nó chẳng liên quan tí tẹo gì đến thi ca, thơ phú cả. Nhưng kỳ lạ, đặt nó trong tổng thể đọan thơ, trở nên hay đến xót xa, nao nao hồn ca dao ở đó: “Con cò mặc áo tơi đi học/ Cá sông Lam còi cọc toát mồ hôi“.
Những từ ngữ, hình ảnh rất cũ kỹ như, cá gỗ, chỉ sự nghèo khó, và tính cách người dân xứ Nghệ. Tuy nhiên, khi nó được đặt đúng hoàn cảnh, vị trí trong câu thơ, trở thành hình tượng mới, sâu sắc, hay một cách thanh tao đến sang trọng. Phải nói, đó là tài năng sử dụng từ ngữ của người thi sĩ: “Gió hào kiệt thổi xơ Nghệ Tĩnh/ Cá gỗ nuôi lớn những thiên tài“. Và cái tính ngang ngang, gàn gàn ấy của người xứ Nghệ đã được Trần Mạnh Hảo thi vị hóa một cách dân dã. Có lẽ, đọc những câu thơ này, người xứ Nghệ đều tìm thấy mình ở trong đó. Một cái nhìn, một cách viết thú vị: “Gió lập ngôn đầu hồi luồng lĩnh xướng/ Khoai lang gàn luống dọc thích bò ngang“…
Có thể nói, Sông Lam là một trong những bài thơ toàn bích nhất của Trần Mạnh Hảo. Và khó có thể nói, thích câu thơ này, bỏ câu thơ kia, bởi sự dính kết trong liên tưởng mang tính tổng thể. Và hình tượng so sánh ẩn dụ phảng phất hồn vía ca dao xuyên suốt cả bài thơ. Thật vậy, đây cũng là bài thơ viết về đất và người Nghệ – Tĩnh hay nhất từ trước đến nay, mà tôi đã được đọc.
Và tôi xin dừng bài viết, để người đọc tự tiếp tục tìm tòi, suy nghĩ, phân tích của riêng mình, hòng cảm nhận được cái khắc nghiệt, cũng như hồn khí của người dân xứ Nghệ qua hình tượng câu thơ kết của nhà thơ Trần Mạnh Hảo: Kìa gió Lào thổi cong sông Lam…
Leipzig ngày 7-1-2020
Đỗ Trường

DÌ TÔI - ĐẶNG HÀ THI

 BÀI DỰ THI:

“VIẾT VỀ NGƯỜI PHỤ NỮ TÔI YÊU”
♥️🌻☘️♥️☘️🌻♥️
Tôi là một đứa trẻ mồ côi. Mẹ tôi qua đời khi tôi mới vừa 8 tuổi và cậu em trai thì lên 6 tuổi. Tuổi thơ vất vả, nhọc nhằn, lam lũ đã trôi qua trong cảnh nhà cơ hàn, nghèo khó. Và nói thật là nếu như không có sự cưu mang, bao bọc của dì tôi thì tôi cũng không hình dung nổi là chị em tôi bây giờ sẽ ra sao nữa.
Ngày ấy, đã rất lâu rồi, khi tôi vẫn chỉ là một con bé ngây thơ, ngờ nghệch, chưa hiểu hết sự đời thì mẹ tôi mất. Mẹ mất vì bệnh tật, vì nỗi cô đơn khi người chồng đầu gối tay ấp với mình không chung thủy. Mẹ tôi ra đi vào một ngày mưa tháng Sáu. Những giọt mưa lẫn với tiếng khóc, lẫn với những giọt nước mắt của chị em tôi, của bạn bè và người thân của mẹ. Và rồi tiếp theo đó là chuỗi ngày vô cùng ảm đạm của hai đứa trẻ trong căn nhà vắng bàn tay mẹ. Bố tôi vẫn đi biền biệt, bỏ chị em tôi trong căn nhà trống trải, hương khói đến lạnh người. Tôi cũng không hiểu vì sao tôi lại có đủ dũng khí đến như vậy, khi mà tôi mới có 8 tuổi. Hai chị em ở nhà, tôi thay mẹ cơm nước, giặt giũ, tắm rửa cho em và chơi với nó. Nhiều lúc, tôi còn nghe nó bảo: “Chị ơi, em nhìn thấy mẹ về!” Tôi buồn, nghĩ thương em vì xa vòng tay của mẹ khi còn quá nhỏ. Tôi cười, gạt nước mắt, nói tránh đi: “Em nhớ mẹ, nên tưởng vậy thôi!” Lúc ấy, nó chỉ tay về phía bàn thờ, rồi bảo: “Thật mà, em nhìn thấy mẹ đi làm về, mẹ dắt xe dựng vào hành lang, rồi đi về phía bàn thờ chị ạ!” Nghe em trai nói vậy, tôi chỉ biết ôm lấy nó mà khóc, khóc cho thân phận, cho cuộc đời của những đứa trẻ mồ côi. Những ngày ấy, nếu không có ông ngoại, không có dì năng đi lại để ý chị em tôi thì tôi cũng không biết phải vượt qua cú sốc ấy như thế nào.
Nhưng rồi những tháng ngày sống trong căn nhà cũ, dù buồn tẻ vì vắng mẹ cũng đã trôi qua một cách vội vã. Chưa đầy 100 ngày mẹ tôi, bố tôi đã bán nhà và đưa chị em tôi về quê nội. Tôi vẫn nhớ khi đó, ông ngoại và dì tôi như người mất hồn vì không nỡ để chị em tôi theo bố về nội. Tôi cũng không muốn về vì dù sao đối với tôi, mảnh đất này cũng là nơi chôn nhau cắt rốn, là nơi tôi đã được sinh ra và lớn lên, hơn nữa nơi này còn có những người thân yêu mà tôi có thể nương tựa. Nhưng rồi cuối cùng thì chị em tôi cũng phải theo bố về nội trên một chiếc xe tải chở theo lỉnh kỉnh nào giường, nào tủ...Suốt chặng đường, nước mắt tôi chảy tràn ướt đẫm hai cánh tay áo! Nhưng tôi có thể làm gì trong hoàn cảnh ấy!
Những năm tháng sống ở quê nội quả thật là một chuỗi ngày dài đầy đắng cay, vất vả và lam lũ đối với chị em tôi. Chúng tôi, dù là những đứa trẻ mồ côi, nhưng vốn xuất thân từ gia đình công nhân viên chức, sống quen với nếp sống thành thị nên khi trở về với cuộc sống thôn quê, với nhà tranh vách đất xiêu vẹo, với ruộng đồng, rơm rạ thì không phải một sớm một chiều mà thích nghi ngay được. Chị em tôi ở quê với ông nội đã già, còn bố tôi vẫn bôn ba nay đây mai đó. Tôi vẫn nhớ, khi ấy dì tôi - lúc bấy giờ mới ra trường đang chờ xin việc, hàng ngày vẫn ki cóp hái từng mớ rau ngót, gom từng chục trứng gà bán lấy tiền để thỉnh thoảng lại đạp xe xa hơn hai chục cây số mang từng chục cân gạo về cho chị em tôi. Rồi dì lấy chồng, bố chồng dì xin được cho dì vào làm ở Chi cục thuế. Công việc bận bịu hơn, lại còn con nhỏ bìu ríu, nhưng lúc nào dì cũng vẫn canh cánh bên lòng về hai đứa cháu mồ côi mồ cút không người nuôi dưỡng. Dì không đạp xe mang từng chục cân gạo về cho chị em tôi nữa, nhưng dì lại gửi tiền cho một cô bạn, cũng người Quảng Yên nhưng công tác tại Chi cục Thuế Uông Bí để cô ấy mang về cho chị em tôi đong gạo. Hai chục nghìn dì gửi ngày ấy đối với chị em tôi mà nói thì nó là cả một kho tàng. Chúng tôi sẽ bớt đi những bữa phải ăn khoai, sắn, thậm chí là rau tập tàng trừ bữa. Nhưng, có lẽ vì sống nghèo khổ quá nên khiến cho tôi, một đứa con gái mới có hơn mười tuổi đã phải tính toán một cách chi li đến số tiền ấy làm sao cho thật tiết kiệm và sử dụng hiệu quả. Vậy là, thay vì đong hết gạo, tôi bớt ra để mua thêm một vài giành khoai để nấu. Rồi cũng để cho dì bớt đi gánh nặng, chị em tôi đi mò cua, bắt ốc, đánh hà. Những trưa hè nắng chang chang, bỏng rát, chị em tôi cùng lũ trẻ trong xóm ra ven đê, bãi sông bãi sú để đánh hà, bắt ốc. Rồi có những buổi lại lăn lê trên những cánh đồng mùa gặt để mò cua. Vì không quen với những công việc đó nên chị em tôi cũng chẳng bắt được bao nhiêu, nhưng chiều về, nhìn thấy thành quả mà mình có được cũng thấy ấm lòng. Dù sao nó cũng đổi được cho chị em tôi thêm mớ rau, con cá. Hoặc chí ít là cũng đủ để tạm bỏ vào nồi cho có thêm chất đạm cho bữa cơm vốn đạm bạc của hai chị em.
Những ngày tháng ấy, chẳng có điện thoại như bây giờ nên thỉnh thoảng tôi lại gửi thư tay cho dì qua cô bạn của dì. Và dì tôi cũng bên cạnh chúng tôi như vậy. Dì nhắc nhở, động viên, bảo ban chị em tôi trong cuộc sống, thậm chí cả những chuyện tế nhị khó nói của con gái khi đến ngày “đèn đỏ” dì cũng dặn dò tôi một cách chu đáo ân cần bằng tất cả tấm lòng và tình yêu thương của một người mẹ. Cho đến tận khi tôi học hết lớp 11. Dì về quê, xin chuyển trường cho tôi lên cấp III Uông Bí. Dì bảo lên lớp 12, học nhiều hơn, lại cần có người định hướng nghề nghiệp nên dì chuyển cho tôi lên đó. Thật sự tôi cảm thấy vui và vô cùng cảm động, biết ơn dì. Kể từ đó, một tay dì lại trực tiếp nuôi chị em tôi (em trai tôi lên ở với dì từ khi học hết lớp 8).
Những tháng ngày đó, ngoài giờ học, tôi còn phụ dì nuôi lợn, nuôi gà, trồng hoa trồng rau để tăng gia sản xuất. Công việc của dì ở cơ quan cũng bận, lại còn con nhỏ nữa, nhưng dì luôn hoàn thành công việc một cách xuất sắc. Bây giờ, khi đã trưởng thành, tôi đã hiểu, để có thể cưu mang, bao bọc chị em tôi, ngoài việc phải cư xử thật khéo léo để dung hòa mọi mối quan hệ, dì tôi đã phải vất vả vì chị em tôi rất nhiều. Tôi vẫn còn nhớ, có những đêm, khi con lợn nái ậm ạch chuẩn bị trở dạ, tôi và dì chong đèn cả đêm để đỡ đẻ cho đàn lợn con. Hai dì cháu chuẩn bị dao kéo để cắt rốn cho đàn ỉn con, chuẩn bị cháo trắng cho lợn mẹ ăn lại sức sau cơn chuyển dạ. Những kỉ niệm ấy, có lẽ chẳng bao giờ tôi có thể quên được.
Rồi tôi tốt nghiệp cấp III! Vì nhà nghèo, không có điều kiện đi học thêm nên tôi chỉ toàn tự học. Thế nhưng khi thấy các bạn làm hồ sơ thi Đại học, Cao đẳng, tôi cũng háo hức, bày tỏ nguyện vọng với dì. Dì bảo tôi: “Nhà mình khó khăn, chắc là chỉ học những ngành nào mà không phải đóng học phí thôi con ạ!” Dì nói vậy, tôi biết là dì có ý định hướng cho tôi học Sư phạm, bởi vì nếu theo Quân sự hoặc Công an thì khó, với lại tôi cũng không đủ điều kiện về sức khỏe để theo học được. Năm ấy tôi thi không đỗ, bởi tôi hoàn toàn tự học nên kết quả không cao, chỉ được có 14 điểm. Nhận kết quả, tôi hẫng hụt, thẫn thờ. Tôi khóc như mưa như gió. Mấy ngày liền tôi chỉ khóc. Dường như dì tôi cũng cảm thấy có lỗi, dì động viên tôi: “Không sao con ạ, mình tự học mà đạt được kết quả như vậy là tốt rồi, ối đứa bạn mày ôn đằng đẵng cũng có đỗ đâu, lại còn ít điểm hơn nữa ấy! Thôi, không đỗ năm nay, sang năm thi tiếp!” Tôi nghe lời dì, vực dậy và lại tiếp tục học, tiếp tục ôn để hy vọng mình sẽ chạm bước chân vào ngưỡng cửa trường Sư phạm, để hy vọng đến một sự đổi đời cho một đứa trẻ mồ côi.
Và rồi ước mơ của tôi cũng trở thành sự thật. Tôi không những thi đỗ Cao đẳng Sư phạm, mà còn thừa điểm. Tôi là thí sinh đạt điểm cao nhất trong hai lớp Văn năm đó. Tôi vui sướng, hãnh diện, tự hào. Và tôi cũng đọc được niềm tự hào trên khóe mắt của dì tôi. Trong suốt những năm học Sư phạm, tôi vẫn cùng dì nuôi lợn, nuôi gà tăng gia sản xuất. Dì bảo tôi: “Cố gắng mà học để kiếm suất học bổng, cũng đỡ ...” Tôi hiểu, vấn đề dì mong muốn ở tôi không phải chỉ là mấy đồng học bổng để trang trải việc học hành. Cái quan trọng là dì muốn tôi sau này ra trường phải thật sự vững vàng trước cuộc đời. Sang học kì II năm thứ hai sư phạm, tôi nhận được lời mời làm gia sư cho hai nhóm học sinh. Tôi nói chuyện với dì, dì bảo: “Thôi, thế thì để dì bán lợn đi cho đỡ phải băm rau nấu cám. Bây giờ chị vừa đi học, vừa đi gia sư, lại còn đi thực tập nữa, nếu nuôi cũng bận bịu ra. Nhà mình chỉ nuôi gà thôi vậy!” Và kể từ đó cho đến hết năm thứ ba, tôi cứ ngày thì đi học ở trường, tối về đi gia sư. Ngày nghỉ tôi cũng tranh thủ đi dạy. Dì tôi nhiều lúc cũng xót xa vì thương cháu. Nhưng có hề gì, miễn là tôi thích, tôi có say mê, hứng thú.
Rồi đến ngày tôi tốt nghiệp, ra trường, đi làm. Dì xin cho tôi làm hợp đồng với Phòng GD&ĐT Yên Hưng. Tôi vẫn nhớ như in ngày hôm đó, khi dì chở tôi đi kí hợp đồng. Ngồi sau xe dì trên chiếc Cup 82 không còn mới, dì thủ thỉ nhắc nhở tôi thật nhiều, thật nhiều. Nào là đi làm thì phải chịu khó mà học hỏi cho bằng chúng bằng bạn, rồi là phải chú ý quan sát, chú ý cách ăn nói, cư xử sao cho khéo léo, đừng làm mất lòng mọi người... Nghe dì nói, tự nhiên tôi thấy cay cay nơi sống mũi. Tôi có cảm giác cứ như thể sắp xa dì đến hàng vạn cây số, không còn thường được nghe dì nhắc nhở bảo ban nữa vậy. Nhưng tôi biết, dì lo cho tôi nhiều, một đứa con gái mới lớn, chưa va vấp cuộc đời, chưa có sự từng trải, trước giờ chỉ biết mỗi học và học, các mối quan hệ cũng chỉ gói ghém trong gia đình, bạn bè, trường lớp thôi. Mà cuộc đời thì ai có thể nói trước là không có cạm bẫy. Dì lo cho tôi, không phải chỉ vì tôi mà còn vì cả linh hồn của người chị nơi suối vàng nữa. Tôi rưng rưng, từng giọt nước mặn chát lăn dài trên khóe mắt, sau lưng của dì tôi.
Vậy mà từ đó đến nay cũng đã mấy chục năm rồi. Dì tôi nay cũng đã 52 tuổi, ngày ngày vẫn đi làm, và giờ rảnh rỗi cũng vẫn tranh thủ nuôi con lợn con gà để tăng gia sản xuất như cái ngày tôi vẫn ở bên dì. Thỉnh thoảng mỗi lần có dịp về thăm dì, nhìn thấy dì cặm cụi băm rau nấu cám, vất vả, bươn chải, tôi cứ thấy nghẹn ngào. Tôi bảo dì: “Dì có tuổi rồi, ăn cũng chẳng được bao nhiêu, sao phải khổ?” Dì cười, nói: “Có gì mà khổ, nuôi con lợn con gà cho vui cửa vui nhà, lại có thịt sạch mà ăn không thích hơn sao! Rồi thỉnh thoảng tết tư lại còn có tí thịt cho con cho cháu nữa!” Tôi chả biết nói gì, chỉ cười! Dì tôi là vậy, trước nay vẫn thế, lúc nào cũng chỉ nghĩ cho người khác, vì người khác!
Dì tôi, tên là Lê Thị Thủy, sinh ngày 15/10/1968, hiện đang công tác tại Chi cục Thuế Thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh. Và để khép lại những dòng cảm xúc về dì, tôi xin chép lại bài thơ tôi viết gửi dì, nhân chuẩn bị đến ngày giỗ mẹ lần thứ 31. Bài thơ là tấm lòng của tôi, là lời tri ân, biết ơn sâu sắc đến một con người vĩ đại, người tôi vô cùng yêu quý trong cuộc đời này!
DÌ ƠI!
Chiều nghe điện cháu thấy lòng buồn quá
Có lẽ nào giận cả cháu dì ơi
Ba mươi năm không còn mẹ trên đời
Chị em cháu luôn có dì dạy dỗ
Cháu nhớ mãi những tháng ngày gian khổ
Dì cưu mang đùm bọc cháu nên người
Nhặt từng đồng chắt chiu hạt cơm rơi
Nuôi gà lợn bán mớ rau chục trứng
Bao vất vả một đời luôn chịu đựng
Dì lo toan chẳng quản ngại nhọc nhằn
Thương cháu khờ cảnh côi cút khó khăn
Dì thay mẹ chở che cho chúng cháu
Em ngốc nghếch không nghe lời dạy bảo
Để dì buồn ... Cháu biết phải làm sao
Chiều nghe tin lòng đau đớn nghẹn ngào
Dòng lệ bỗng dâng trào trên khóe mắt
Không hiểu biết nên thường hay chấp nhặt
Khiến mọi người phải lo lắng bảo ban
Dì bao dung tựa núi thẳm non ngàn
Sao kể hết công ơn như trời bể
Nghe dì bảo từ nay tao mặc kệ
Khiến cháu buồn nước mắt cứ tuôn rơi
Suốt bao năm không có mẹ trong đời
Cháu đã được bàn tay dì nâng đỡ
Ơn sâu nặng cháu cả đời ghi nhớ
Chẳng bao giờ trả hết được dì ơi!
Đặng Hà Thi
Hình ảnh có thể có: 7 người, mọi người đang đứng và đám cưới

BÀI MỚI ĐẮNG

Truyện ngắn: BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN _ NGUYỄN HẢI ĐĂNG

Bên cánh gà chánh điện phần 1 BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN Xe dừng lại với tiếng xột xoạt trên mặt đường, như bao chuyến xe đã ghé qua từ thuở ...