TẢN ĐÀ ĐÃ CẢNH TỈNH CHÚNG TA ...
Tôi chưa bao giờ bi quan về tương lai dân tộc Việt, nhưng càng ngày càng thấy buồn trước những thảm trạng ê chề. Như hôm nay 8-5-2016, tôi cố tình tránh xa khu vực trung tâm Sài Gòn, nhưng mở mạng internet lên mà thấy lòng chùng lại. Bỗng nhiên tôi nhớ đến Tản Đà.
Tản Đà (1888 -1939) được Hoài Thanh và Hoài Chân mời vào vị trí danh dự để mở đầu cho “Thi nhân Việt Nam”. Tản Đà, theo như đánh giá của Xuân Diệu thì “là người thứ nhất đã có can đảm làm thi sĩ, đã làm thi sĩ một cách đường hoàng bạo dạn, dám giữ một bản ngã, dám giữ một cái tôi ”.
Tản Đà định danh từ tập “Khối tình con 1 ” in năm 1916, cách đây tròn một thế kỷ, và tiếp tục với "Khối tình con 2" và "Khối tình con 3". Trong hợp tuyển "Khối tình con" ấy, có bài thơ rất lạ mang tên “Mậu Thìn xuân cảm”. Viết đầu năm 1928, "Mậu Thìn xuân cảm” triển khai theo cấu trúc thất ngôn bát cú của thể thơ Đường Luật, nhưng Tản Đà chỉ dừng lại ở… sáu câu. “Mậu Thìn xuân cảm” không có hai câu kết, là một dụng ý của Tản Đà nhằm lưu lại chút bận tâm cho hậu thế chăng?
Sông chưa cạn đó, núi chưa mòn.
Dân hai nhăm triệu ai người lớn?
Nước bốn nghìn năm vẫn trẻ con
Cám cảnh khói mây mờ mặt biển
Lo đời sương tuyết bạc đầu non…
Ôi, 88 năm trước, Tản Đà đã cảnh tỉnh chua cay. 88 năm sau, nếu thay thế dân số 90 triệu cho dân số 25 triệu, liệu có gì khác chăng? Ôi, thảo dân với công quyền, tuần hành với ngăn chặn, đối thoại với đối kháng, chỉ có thể giải quyết bằng bạo lực, thì tránh sao khỏi nỗi oán thương “dân chín mươi triệu ai người lớn, nước bốn nghìn năm vẫn trẻ con”.
Đúng 88 năm rồi Tản Đà ơi, kể từ ngày "Mậu Thìn xuân cảm” của ông đưa ra sự tiên tri đắng đót ”, tôi ứa nước mắt cho xứ sở mình “cám cảnh khói mây mờ mặt biển”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét