VĂN CHƯƠNG CHÍNH LUẬN NAM KỲ ĐẦU THẾ
KỶ XX VÀ
NHỮNG ĐÓNG GÓP VÀO SỰ VẬN
ĐỘNG PHÁT TRIỂN
CỦA VĂN HỌC YÊU NƯỚC VIỆT
NAM
Cao Minh Tèo, thực hiện
1. Tiền đề lịch sử, kinh
tế, văn hoá, xã hội ra đời văn chương chính luận Nam kỳ và các vấn đề lớn của văn học
Minh Tân
Bước vào nửa sau thế kỷ XIX đầu XX,
nhiều nước châu Á trong đó có Việt Nam , đứng hoạ thực dân. Trước tình
hình biến động này, châu Á chuyển từ bộ mặt phẳng lặng mấy ngàn năm sang ý thức
và vận động đổi mới để tự vệ, trỗi dậy khẳng định ý thức về dân tộc mình. Tuy
nhiên, ở Việt Nam các vua triều Nguyễn với tư tưởng lạc hậu, bảo thủ “bế quan
toả cảng” dẫn đến hoạ nô lệ thực dân với ba thể chế bảo hộ miền Bắc, khâm sai cố
vấn ở miền Trung, miền Nam thuộc địa.
Tính từ khi đồn Kỳ Hoà thất thủ
(1861), Pháp chiếm 03 tỉnh miền Đông
(1862), rồi thu tóm hết 06 tỉnh Nam kỳ (1867) cho đến hoà ước Patennôtre
1884 thì Việt Nam hoàn toàn mất độc lập tự chủ. Từ đó đã nãy sinh nhiều chuyển
biến quan trọng trong xã hội Nam
kỳ. Hiện tượng nổi bật của thời kì này là cuộc nổi dậy của nghĩa quân miền Nam
dưới sự chỉ huy của các tướng lĩnh không phục mệnh triều đình, các quan lại, sĩ
phu yêu nước như Hồ Huân Nghiệp ở Mỹ Tho, Trương Định ở Gò Công, Trần Thiện
Chánh, Lê Huy, Cai tổng Là cùng đề đốc Nguyễn Văn Tiến ở Bình Chánh, Cần Giuộc,
Rạch Kiến. Nhà Thơ Nguyễn Đình Chiểu viết Văn Tế nghĩa sĩ Cần Giuộc để ca ngợi
những tấm gương hy sinh ấy.
Năm 1885 đã nổ ra cuộc khởi nghĩa 18
thôn vườn trầu, chiếm Hóc Môn, giết diệt gian đốc phủ Ca. Đến đầu thế kỷ XX vẫn
còn liên tiếp hai cuộc khởi nghĩa năm 1913, 1916. Khi phong trào Cần Vương đa số
dưới hình thức khởi nghĩa quân sự vừa tàn lụi, thì phong trào Duy Tân được dấy
lên cả 03 miền, khi người Việt Nam nhận ra thế yếu quân sự của mình. Riêng ở Nam kỳ,
khi bước vào thời kì thuộc địa thì hình thức đấu tranh công khai, hợp pháp trên
các mặt kinh tế, văn hoá xã hội, chính trị là thích hợp hơn cả. Với nhận thức
đúng đắng, năm 1905 phong trào Đông Du được mở đầu bằng chuyến đi Nhật của cụ
Phan Bội Châu. Khoảng năm 1907 – 1908 trong số du học sinh cả nước ước khoảng hai
trăm người, thì Nam
kỳ chiếm hết một trăm người.
Riêng ở miền Nam trước khi bị rơi vào
hoạ thực dân, thì cùng với phòng trào Duy Tân cả nước, người miền Nam nhiệt
tình nhiệt thành đi vào cuộc cách tân đất nước. Người Nam bộ nhận thấy việc xây dựng nhà
máy, đường xá, cầu cống… của Pháp là để khai thác chứ không phải khai hoá. Hệ
quả tất yếu của chánh sách thực dân về mặt chính trị kinh tế là đã gây ra một sự
phân hoá sâu sắc trong các tầng lớp xã hội ở Nam kỳ.
Cuối thế XIX đầu thế kỷ XX miền Nam đặt
biệt là Sài Gòn Gia Định đã dần trở thành một trung tâm chính trị quan trọng của
Việt Nam, với một sắc thái quốc tế khá rõ nét do nhiều ảnh hưởng của cách tháng
Mười Nga, Cách mạng phản đế và phản phong ở Trung Hoa, Phong trào canh tân ở Nhật Bản… Bên cạnh đấu
tranh vũ trang, phong trào đấu tranh chính trị ngày càng có nhiều màu sắc đa dạng
như công khai, bí mật, biểu tình… Các giai cấp, các tầng lớp, các tổ chức chính
trị đều muốn thể hiện các chương trình hành động về chính trị, xã hội văn hoá của
mình. Trong đó, nỗi bật nhất vẫn là ý chí đòi độc lập tự do, thể hiện trên mọi
bình diện sinh hoạt của dân tộc lúc bấy giờ.
Nói đến sự ra đời của văn học quốc ngữ
nói chung văn chính luận nói riêng cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX phải nói đến
những tiền đề thẩm mĩ, tư tưởng. Tiến trình hiện đại hoá của văn học Quốc ngữ
miền Nam đã diễn ra bằng tất cả các phương thức từ tiệm tiến đến nhảy vọt và thể
hiện khá đầy đủ những nét lớn của quá trình hiện đại hoá của văn học Việt Nam
nói chung.
Hệ tư tưởng tiến bộ này được thể hiện rõ nét
trong mảng thơ ca và văn xuôi chính luận có nội dung yêu nước, duy tân bằng chữ
Quốc ngữ xuất hiện sớm nhất nước ở Nam bộ bắt đầu từ những năm tháng sớm nhất
cuối thế kỷ XX, thông qua các phương tiện quan trọng là báo chí và sau đó là xuất
bản thành sách.
Trong nhiều loài báo chí với nhiều khuynh hướng chính
trị khác nhau, đáng chú ý nhất vẫn là báo chí của nhà văn, nhà trí thức duy tân
yêu nước được phát triển rầm rộ ở Nam kỳ dựa trên ý thức về mục tiêu giành độc
lập tự do. Chính trên cơ sở này, mà thơ ca Minh tân cùng với văn chương chính
luận, bút chiến có nội dung bàn về những vấn đề kinh tế, văn hoá tư tưởng, xã hội,
nhưng với chính trị thì được thễ hiện dưới mạch ngầm được phổ biến rộng rãi
trên báo chí công khai, và điều này được gắn với bước phát triển sớm nhất nước
của nền văn học chữ quốc ngữ Nam bộ. Ví như ở Cần Thơ, Trần Đắc Nghĩa một địa
chủ nỗi tiếng hưởng ứng phong trào Minh Tân. Như vậy, văn học quốc ngữ Nam kỳ
nói chung văn chính luận nói riêng cách tân Nho giáo, xây dựng một thế giới
quan, nhân sinh mới, hướng tới nâng cao dân trí, nhằm một nội dung lớn hướng tới
xây dựng cái nhìn mới cho người Việt Nam, dựa trên tư tưởng khai sáng ở phương
Tây thế kỷ XVIII. Văn chương yêu nước Nam bộ lúc này chuyển từ ý thức hệ
tư tưởng phong kiến sang ý thức hệ Tư sản.
Đây được xem là quá trình hiện đại hoá, cụ thể hoá các
bình diện của tư tưởng yêu nước Việt Nam
thông qua mảng văn xuôi chính luận ở Nam kỳ.





