Chủ Nhật, 22 tháng 12, 2024

Bình bài thơ DÒNG SÔNG TRẮNG của NGUYỄN LẠC ĐẠO _ HỒ THANH NGÂN

DÒNG SÔNG TRẮNG Nguyễn Lạc Đạo tên thật Nguyễn Văn Thận sinh năm 1954 nhà thơ tỉnh Phú Yên. Dòng sông trắng là bài thơ hoài niệm về dòng sông Ba ở Phú Yên. Người xa nhớ quê nhà chỉ còn hoài niệm dòng sông trong ký ức tâm thức.Tâm trạng tết đến xuân về tha hương nơi đất khách quê người, nhớ về cố xứ.Hoa cải vàng bến sông, đò Ngọc Lãng qua phố. Mối tình tuổi trẻ một thời thanh xuân. Xa xứ nhớ quê ngồi cúi độc ẩm. Phố Tết đông vui, chỉ có mình buồn tâm trạng cô đơn lẻ loi. Mùa đông đã qua xuân sắp về. Thời gian trôi chảy tết chưa về tết vội quá.òng sông thực (sông Ba) dòng sông ảo(thời gian) dòng sông tâm thức ( dòng sông trắng). Lắng đọng trong hồn người xa xứ, nhớ quê, nhớ dòng sông, nhớ ký ức, cuồn cuộn chảy bên lòng. Đêm nhớ Phú Yên ngày nhớ Tuy Hòa Dòng sông trắng là bài thơ hay của nhà thơ Nguyễn Lạc Đạo. Xin chúc mừng thi sĩ Nguyễn Lạc Đạo từ "Mắt Rạ" quê nhà đến "dòng sông trắng" ký ức. S Đ 8/12/2024 DÒNG SÔNG TRẮNG Nguyễn Lạc Đạo Người đã xa ừ người rất xa Thoáng xuân quay quắt nhớ quê nhà Phú Yên mùa cũ dòng sông trắng Nước cuốn đôi bờ lạc hướng hoa Ngày xa thương nhớ ngồng hoa cải Xuân có còn vàng những bến sông Đò ngang chở tết qua phố thị Quên mất tình ai lạc bến lòng Xứ người xa lắc xuân không tới Ngồi cúi nhớ mùa hương rượu cay Phố Tết đông vui ngày bước vội Nẻo cũ đông tàn đâu có hay Tết chưa về tết vội qua Đêm nhớ Phú Yên ngày nhớ Tuy Hòa Trong ta cuồn cuộn dòng sông trắng Chùng cả đôi bờ ngóng phù sa.

Chủ Nhật, 8 tháng 12, 2024

THƠ HOÀNG NGỌC ANH

Thị trấn....như một bài thơ... Nhưng thơ không có mây và rừng Tràm cổ điển Anh trai tân từ nơi xa hiển hiện Đột nhiên gặp em xưa đang trổ hoa Thế là có hoạ trong thơ T huynh

THƠ HOÀNG NGỌC ANH

Hai vế Thơ hai vế một ở một đi Đi không đành dùng dằng nghoảnh cổ Bởi duyên em là con số Anh ghép vào thành con số khác tự nhiên Anh ngồi dòng nước trôi Nước từ nguồn muôn thuở Em sinh sau làm sao mà nhớ Anh ngẩn người và chỉ biết nao nao Ơi Vàm gắn với tên tuổi sông Sông quê anh cũng ứ ừ như thế Sông Cái sông Con cũng tình dâu bể Thôi ta ngồi kề kể chuyện mênh mông Hỡi cái kiếp Quê và Sông T.huynh,09.12.2024

Chủ Nhật, 24 tháng 11, 2024

KHÔNG ĐỀ _ TRẦN PHƯƠNG (QUY NHƠN)

Chả thèm làm mặt trời chói sáng (Nóng như nung chứ báu gì) Cứ làm con người yêu đương hôn hít nhau suốt đêm này tháng khác Đợi đến già lại thanh thản ra đi !

NGHĨ TỪ ĐẤT MŨI _ HỒ THANH NGÂN

NGHĨ TỪ ĐẤT MŨI Tôi đi ba bề núi Để đến ba bề biển Ôi bình nguyên lọt thỏm giữa miền Trung Và đồng bằng ở tận cùng mũi đất Sông Đốc chém anh một vết thương lòng Đến bao giờ nguôi Những kỉ niệm quê hương như bầy ngựa hoang Lồng lộn và dày vò anh Tôi đi từ một bờ biển biếc Để đến nơi có biển Đông biển Tây Để nhận ra ta bồng bột Để hiểu đời có luật trả vay Muốn trở thành mặt trời chói sáng Phải sống sót sau mũi tên Hậu Nghệ.

KHÔNG ĐỀ_ HOÀNG NGỌC ANH

Một mình đứng giữa ngả ba Phia nào cũng thấy có hoa trên đường Sợ mình chân ướt tay run Nhớ ngày xưa ấy chưa hun được nhiều

KHÔNG ĐỀ_ HỒ THANH NGÂN

Sợ chiều không đủ cơn mưa Sợ mình không đủ ngày xưa để buồn Chiều mưa gió rú qua truông Một mình đứng giữa con đường ngã ba

Thứ Bảy, 16 tháng 11, 2024

BÌNH THƠ TỈNH LẺ CỦA ĐÀO ĐỨC TUẤN _HỒ THANH NGÂN

TỈNH LẺ BÂNG KHUÂNG LỠ BƯỚC GIANG HỒ Bài thơ tỉnh lẻ của Đào Đức Tuấn ra đời những năm 90 của thế kỉ xx. Thời mà sống ở tỉnh lẻ cũng thiệt thòi hơn ở thành phố, thủ đô.Gần ba chục năm qua, thời mà tin tức cũng chậm chứ không như bây giờ internet thế giới phẳng. Báo cũng chậm mà lương cũng chậm Tỉnh lẻ mềm lòng tỉnh lẻ đìu hiu Khi vui thì hơn phồn hoa đô hội Nhà thơ Yến Lan viết: tỉnh lẻ cô em nằm xem kiếm hiệp. Ở đây cuộc đời cứ như giấc mơ Bạn bầu vô tư đằm thắm Ít khi nói chuyện thiệt hơn Ở tỉnh lẻ cũng như ở quê.không phải mua từ cây tăm xỉa răng. Không khí trong lành, rau sạch, sông biển trong xanh không bị ô nhiễm. Kinh tế thị trường chưa tác động nhiều đến đời sống." Cuộc đời cứ như giấc mơ" " vô tư đằm thắm" "ít thiệt hơn " Trời trong veo ý nghĩ trong veo Cỏ dậy hơn ở phố Con gái thì tươi, con trai thì lương thiện Sống trong môi trường chất phác con người thật thà tình cảm."ý nghĩ trong veo " "con gái tươi " " con trai lương thiện " thiên nhiên trong lành, khoáng đãng hơn" cỏ dậy hơn ở phố " Ngày đẩy đưa tỉnh lẻ lao xao Cứ chập chờn cứ trách mình tưng tửng Tỉnh lẻ bâng khuâng lỡ bước giang hồ Cuộc sống cơm áo gạo tiền có tác động đôi chút"tỉnh lẻ lao xao " cứ bằng lòng vậy cầm lòng vậy qua ngày tháng" ngày đẩy đưa " Cứ chập chờn cứ trách mình tưng tửng Vui nửa mùa buồn nửa mùa"tưng tửng" " chập chờn ". Lúc mới đăng báo anh viết. Cứ chập chờn cứ trách mình phận mỏng. Nghe bi quan nghe khóc lóc quá. Nên khi in sách anh sửa lại. Tỉnh lẻ bâng khuâng lỡ bước giang hồ Bon chen nơi đô hội thì khó quá.khó thích nghi, khó tồn tại. Mà cam phận ở tỉnh lẻ thì buồn quá. Trẻ trai mà an phận ở quê. Ở tỉnh lẻ thì không cam chịu , không đành lòng."bâng khuâng" "lỡ bước giang hồ" S đ 15/11/2024 TỈNH LẺ ĐÀO ĐỨC TUẤN Báo cũng chậm mà lương cũng chậm Tỉnh lẻ mềm lòng tỉnh lẻ đìu hiu Khi vui thì hơn phồn hoa đô hội Ở đây cuộc đời cứ như giấc mơ Bạn bầu vô tư đằm thắm Ít khi nói chuyện thiệt hơn Trời trong veo ý nghĩ trong veo Cỏ dậy hơn ở phố Con gái thì tươi, con trai thì lương thiện Ngày đẩy đưa tỉnh lẻ lao xao Cứ chập chờn cứ trách mình tưng tửng Tỉnh lẻ bâng khuâng lỡ bước giang hồ

THƠ HOÀNG NGỌC ANH

Gió Sông Ba lất pha lất phất Đất Tuy hoà làm gì có chấm phá Bazan Ngừ Ty quà quýt là quýt cam ra cam Không nói giọng nhão nhê Miền Tây Sông Đốc Cái đụt cái lờ mỗi nơi kiểu khác Bụng Phú yên thừa củ thừa khoai Xa xứ buồn nhưng vẫn cốc chai

Thứ Sáu, 15 tháng 11, 2024

HỒ THANH NGÂN PHÍA MÊNH MÔNG _ ĐÀO ĐỨC TUẤN

27. (Trích tùy bút thơ LẠC BƯỚC GIANG HỒ CHỮ trong cuốn thơ chọn LỐI TÌNH của ĐÀO ĐỨC TUẤN đang in tại NXB Hội Nhà văn). Mấy chục năm trước, cha Hồ Thanh Ngân làm cuốc xích lô miễn phí Xuân Diệu ngắm Tuy Hòa. Nên cả đời Ngân cứ chòng chành với con thuyền thơ. Chắt chiu đại học sư phạm ra không chạy được chỗ dạy, Ngân xách gói về Đất Mũi. Trường ca “Nhớ Phú Yên” của anh hay miên man. HỒ THANH NGÂN PHÍA MÊNH MÔNG gió từ Tuy Hòa thổi tràn Đất Mũi thi sĩ nghiêng phía mênh mông trai trường Nguyễn Huệ giáo học Quy Nhơn chiều buông buông góc trời quán nhớ Đà Rằng không chảy Sông Đốc ngóng Thạch Đà chưa tắt nắng sao hoàng hôn chén thơ mạn thuyền trả vay tất tả

Thứ Tư, 13 tháng 11, 2024

TUỆ SỸ TỰ TẠI ĐẾN ĐI _ TÂM NHIÊN

TUỆ SỸ TỰ TẠI ĐẾN ĐI Thi ca và tư tưởng có sức mạnh phi thường, vượt qua cả mấy triệu nghìn năm, song hành cùng Thi nhân, Đạo sỹ, Thiền sư từ muôn thuở, muôn nơi đi về trên mặt đất, trần gian này. Bằng cách vô công dụng hạnh, họ âm thầm, tha thiết chuyển hóa đủ loại trình độ, vô số căn cơ đang quờ quạng, rối mù, bao phủ trong bóng tối u minh, đang quằn quại, khổ đau trong sinh tử, luân hồi... Luân hồi, sinh tử trùng trùng của thập loại chúng sinh, biết vươn mình lên trên tuyệt đỉnh hồn tâm linh tỉnh thức. Tỉnh thức ngay bây giờ, ở đây để cùng về quê nhà, Cố quận, nơi chốn miền hoan hỷ địa trong tâm hồn, ngay giữa lòng trong trẻo, long lanh, lấp lánh nụ cười thanh tịnh của mỗi một người trong tất cả chúng ta. Thanh tịnh nụ cười trổ hoa, sau cuộc Hòa âm cùng Thiên lý độc hành với người thi sỹ kỳ tuyệt ấy, chúng ta quy hồi Cố quận, trở về Thực tại hiện tiền ngay bây giờ, ở đây, vì thấy được lẽ huyền vi của cuộc sống như Tuệ Sỹ thi nhân đã thấy diệu kỳ, mới lạ: “Đời sống tồn tại trong từng sát na và trong từng nguyên tử nhỏ bé, thường trực là cảnh giới huyền vi, bất tư nghì...” Bất khả tư nghì là không thể nghĩ bàn chi được về cuộc đời, cuộc đạo, về cuộc sống hay cuộc chết. Sống và chết giao thoa nhau trên cung cầm miên viễn, thiên thu. Thiên thu là Trí tuệ, là bản thể Vô sinh, bất diệt, chỉ cho Tự tánh thanh tịnh, Tánh Không, còn thân xác sống chết này là hiện tượng, như bọt nước nổi trôi trên đại dương bản thể kia. Vì thế, khi bọt nước vỡ tan thì nhập vào lại đại dương chứ chẳng mất đi đâu cả, như Tuệ Trung Thượng Sỹ cất tiếng ca Sống chết nhàn thôi vậy: “Tâm mà sanh chừ sanh tử sanh Tâm mà diệt chừ sanh tử diệt Sanh tử xưa nay vốn Tánh Không Thân hư dối này rồi cũng diệt Phiền não Bồ đề bỗng mất tiêu Địa ngục Thiên đường tự khô kiệt Lửa phỏng nước sôi thoắt mát liền Núi kiếm rừng đao chốc gãy hết Thanh văn ngồi thiền ta không ngồi Bồ tát nói pháp ta nói thiệt Chết là dối chết sanh dối sanh Bốn đại vốn không nương đâu dậy Chớ như hươu khát đuổi bóng nước Nắm đông bắt tây không ngớt chạy Pháp thân không lại cũng không qua Chân tánh chẳng phải cũng chẳng quấy Đến nhà thôi chớ hỏi đường chi Thấy nguyệt tìm gì ngón tay ấy Kẻ ngu sống chết mãi lo âu Người trí rõ thông nhàn thôi vậy" Kẻ mê vọng thì cứ mãi lo âu, sợ hãi chuyện sống chết, còn người trí tuệ có mắt sáng nên nhìn thấu suốt lẽ sinh tử nên cứ thản nhiên. Bài thơ này do Trúc Thiên dịch Việt quá tuyệt vời. Vời tuyệt hơn nữa, Lý Việt Dũng giảng giải đại ý: “Vì nhất thiết duy tâm tạo, cho nên khi vọng tâm khởi là sinh tử nẩy sinh, từ đó hình thành nhị kiến đối lập, nào là Bồ đề - phiền não, Thiên đường – địa ngục, chân vọng, nhưng thật ra tự tính của sinh tử cũng vốn là không. Do đó, khi vọng niệm dứt thì mọi mê tưởng cũng tan theo, mọi phiền não đương nhiên cũng không còn. Cho nên chỉ cần thấy Tánh mà không cần thuyết pháp tọa thiền, bởi vạn pháp vốn tự nhiên nhất như vô phân biệt. Lúc khởi tâm tìm cái Chân thì đã là Giả (hư vọng) rồi, vì chân vốn đang ở nơi cái đương xứ, tức ngay nơi sinh tử thấy ra thực tính là đã Vô sinh. Vậy người mê sợ sinh tử, luôn chạy đôn chạy đáo tìm liệu pháp đối trị, tìm cái Vô sinh, chẳng khác nào đang ở trong nhà mà lại cố tìm đường để về nhà. Đó chẳng qua chỉ là hành động hồ đồ của con hươu khát khô cổ, bôn ba chạy tìm bóng nước trong ánh nắng trên sa mạc, còn người giác coi thường sanh tử, vì trong sanh tử vốn đã đầy đủ Tính Chân...” Đó là cái thấy của hàng Bồ tát, bậc Thiền sư đã thấy được Chân Tánh, như cư sỹ Bàng Uẩn và cả gia đình vợ con ông đã tự tại trước cái chết, đến đi vô quái ngại liền. Một hôm đang cày ruộng, bất thình lình Bàng Uẩn nói với con gái: “Lát nữa cha đi nghe”. Linh Chiếu đang cuốc đất vừa nghe xong, cầm cuốc nhanh trí thị tịch trước, tiếp theo là mẹ, anh trai cũng vui vẻ, nhẹ nhàng đi, huống chi Tuệ Sỹ bậc Long Tượng vô úy: Bàng Uẩn hôm xưa đang cày ruộng Nói con gái biết: Cha quy thiên Buông cuốc Linh Chiếu dành đi trước Bàng Uẩn cười vang thị tịch liền Sống chết trùng trùng do duyên khởi Đó là con mắt của Tánh Không Tuệ nhãn thấy ra tường tận thế Nên đến hay đi cũng nhẹ lòng Lão cư sỹ ấy làm được vậy Huống gì Long Tượng bậc Thiền sư? Ứng thân thọ bệnh nhằm khai thị Cho kẻ phàm phu thấu đại từ Đại từ đại bi đại trí dũng Thì không bao giờ chết được đâu Chỉ ẩn chút thân gầy bèo bọt Còn trí tuệ kia vẫn nhiệm mầu Mầu nhiệm suốt cuộc sống như Thiền sư đã sống thì cũng nhiệm mầu khi cuộc chết đến, cho nên khi nghe tin Thầy Tuệ Sỹ bị bệnh, du sỹ có về thăm vào đầu xuân 2022 và gần đây nhất, tháng 7. 2023 cùng với Huỳnh Tấn Hạnh, Huỳnh Tấn Nghĩa đến vấn an Thầy đang an cư trong một tịnh cốc gần chùa Phật Ân ở Long Thành, Đồng Nai. Hỏi và đáp tuyệt nhiên không còn cần thiết nữa, lặng yên chỉ nhìn nụ cười “Năm tháng vẫn như nụ cười trong mộng” của “Hạc gầy đỉnh tuyết” là cũng đủ nghe ra cả trời thơ đất mộng, rung cảm tận đáy lòng. Thong thả, nhẹ nhàng, Thầy lộ vẻ thanh thản, an nhiên như không có bệnh tật gì. Biết là chút thân bèo bọt sắp bị tan rã thì cứ rã tan theo luật vô thường thế thôi. Hối tiếc gì, luyến lưu chi nữa giữa cuộc trăm năm thoáng chốc vèo qua như áng phù vân? Thật ra, Thầy Tuệ Sỹ bị bệnh cũng giống như Đức Phật bệnh hay Duy Ma Cật bệnh vậy thôi: Đều là một Bài Pháp sống động, không lời mà mỗi một người trong chúng ta phải thấu hiểu ngay bây giờ và ở đây. Hiểu thấu thì không cần phải cầu nguyện, cầu an chi nữa cả. Bởi lâu nay, chúng ta đã mặc nhiên tôn Thầy là bậc Thiền sư rồi mà Thiền sư thì tự tại, tự do trước lẽ còn mất, đến đi, sinh tử như Thầy đã từng nhắc nhở trên tinh thần vô úy: “Tất cả các bậc vô úy, không còn sợ hãi, chỉ có một con đường độc nhất phải đi là qua bên kia bờ của sự sống và sự chết. Qua bên kia bờ là chứng ngộ tính Tịch diệt của Niết bàn. Nơi đây chính là thế giới của cô liêu tuyệt đối…” Tuyệt đối cô liêu - “Hương vị cô liêu là hương vị của Chánh pháp” - Cô liêu chính là bước đi kỳ cùng của bậc thượng thừa, Sư tử hống. “Vô sở tòng lai diệc vô sở khứ” - Không từ đâu đến cũng chẳng đi về đâu. Không chỗ trụ, không sở đắc, chẳng mong cầu bất cứ điều gì thì còn sợ hãi chi nữa phải không? Đức Phật đúng 80 tuổi nhập Niết Bàn, còn Tuệ Sỹ năm nay cũng vừa độ 80 rồi. Hơn nửa thế kỷ đi qua cõi phù trần, đất bằng dậy sóng, đại dương sụp lở, núi sông tràn lấp ruộng đồng, cuồng phong sấm sét vỡ tan hoang, từng giáp mặt cận kề nhiều trận thập tử nhất sinh thật táng đởm kinh hồn... Thế mà nhà thơ đã vượt qua, vượt qua tất cả mọi chướng ngại, khó khăn, bằng chính nội lực, rực lửa hùng tâm tráng khí, phi thường. Thương yêu diệu dụng, bùng vỡ hết tâm can, thần lực, dốc cạn năng lượng suốt bình sinh, dịch giải Tam tạng kinh điển, thiết tha đại nguyện chuyển hóa, bừng trổ kỳ hoa dị thảo, ngát hương những đóa hồng thi ca và tư tưởng. Bước đi kỳ cùng cuộc lữ, đi và đi và đi bộ giữa nhật nguyệt viễn du, đầm đìa gió sương, mưa nắng phiêu bồng: “Bóng tối sập mưa rừng tuôn thác đổ Đường chênh vênh vách đá dọa nghiêng trời Ta lầm lũi bóng ma tròn thế kỷ Rủ nhau đi cùng tận cõi luân hồi Khắp phố thị ngày xưa ta ruổi ngựa Ngang qua đây ma quỷ khóc thành bầy Lên hay xuống mắt mù theo nước lũ Dẫm bàn chân lăn cát sỏi cùng trôi Rồi ngã xuống nghe suối tràn ngập máu Thân là thân cỏ lá gập ghềnh xuôi Chờ mưa tạnh ta trải trăng làm chiếu Nghìn năm sau hoa trắng trổ trên đồi” Ôi chao! Một bài thơ có nhiều hình ảnh đẹp kinh hồn. Nếu mai mốt, đột nhiên viên tịch thì Thầy vẫn bất tử với vẻ đẹp như thơ: “Chờ mưa tạnh ta trải trăng làm chiếu. Nghìn năm sau hoa trắng trổ trên đồi”. Trước cái chết, hầu hết đệ tử đều sợ sệt, hốt hoảng, lo âu, sầu bi lụy, nhưng Thầy vẫn điềm nhiên mỉm cười, sẵn sàng bắt tay với Tử Thần để qua chơi miền: “Thân sau ta vẫn bơ vơ bụi đường...” chứ không phải cõi Niết Bàn, Cực Lạc nào đâu. Mầu nhiệm là cõi thơ văn Tuệ Sỹ, một thi nhân vô tiền khoáng hậu, thấu đạt suốt kim cổ, sau xưa... Bữa đó, chúng tôi ngồi chờ Thầy quá đường xuống thì cũng gần 12 giờ trưa, giờ ngọ thiên rồi. Thầy phất tay áo nhẹ mỉm cười nói, nghỉ ngơi thôi. Giờ Ngọ là giờ Zarathurtra xuống núi nhưng lại là giờ Nagarjuna lên núi, giờ Siddhartha Gautama nhập đại định và Thiền sư Thi sỹ thì đi vào tịch mặc, vô ngôn. Vô ngôn như Triết gia Heidegger: “Trong tư tưởng, mọi sự trở thành cô liêu và lững thững...” Đứng bóng mặt trời, lặng im, lặng im, lặng im. Giờ phút im lặng nhất - “Trên tất cả đỉnh cao là lặng im” - Phạm Công Thiện đã nói như thế và du sỹ chợt bàng hoàng nhớ lại, từ năm 1967 mới 24 tuổi, khi viết tác phẩm đầu tay Đại cương Thiền quán, Tuệ Sỹ đã thấy và nghe được sự Im lặng kia rồi: “Chỉ có cái Im lặng mênh mang ấy mới chứa đựng được Thể LÀ – Nhưng Thể LÀ ấy bao giờ cũng trỏ vào Thực tại triển nở. Bởi thế, Im lặng là để nghe tiếng nói bàng bạc của Thực thể. Vậy muốn tiến sát đến bên Thực thể thì phải tập sống trong cái Im lặng trước đã. Bồ Đề Đạt Ma chín năm Im lặng nhìn vào vách.” Như vậy, phải chăng, Im lặng chính là bài học đầu tiên và cuối cùng mà bậc Đại sỹ muốn truyền cảm hứng lại cho cõi tồn sinh, sau mấy chục năm trời lênh đênh theo vận nước, theo heo hút muôn trùng cuộc lữ? “Từ nguyên sơ đã một lời không nói...” Tâm Nhiên

THANH TÙNG, TRÁNG SĨ THƠ CỦA THỜI HOA ĐỎ _ NGUYỄN VIỆT CHIẾN

"Mỗi mùa hoa đỏ về THANH TÙNG, TRÁNG SĨ THƠ CỦA THỜI HOA ĐỎ NGUYỄN VIỆT CHIẾN Trong thơ Việt Nam đương đại, bài thơ “Thời hoa đỏ” của cố nhà thơ Thanh Tùng được coi là một trong số ít các bài thơ tình hay nhất. Bài thơ này đã được nhạc sĩ Nguyễn Đình Bảng phổ nhạc và sau mấy chục năm, giai điệu của nó vẫn ngân vang tha thiết trong tâm hồn hang chục triệu người. Theo tôi, sở dĩ thơ Thanh Tùng có một sức sống ngôn ngữ giầu cảm xúc, giầu chiêm nghiệm và ý tưởng mới lạ trong thi ca là do phẩm chất thi sĩ khá đậm đặc, mãnh liệt mang dấu ấn phong cách của tài năng ông với những câu thơ đã chạm vào được mạch nguồn sâu sa và tươi mới của đời sống con người, đời sống thiên nhiên, đời sống quê hương. “Dưới màu hoa như lửa cháy khát khao/Anh nắm tay em bước dọc con đường vắng/Chỉ có tiếng ve sôi chẳng cho trưa hè yên tĩnh/Chẳng cho lòng ta nguôi/Anh mải mê về một màu mây xa/Về cánh buồm bay qua ô cửa nhỏ/Về cái vẻ thần kỳ của ngày qua/Em hát một câu thơ ngày cũ/Cái say mê một thời thiếu nữ/Mỗi mùa hoa đỏ về/Hoa như mưa rơi rơi/Cánh mỏng manh tan tác đỏ tươi/Như máu ứa một thời trai trẻ…”. Những câu thơ giản dị, trong suốt này ngân vang trong tâm tưởng người đọc những cung bậc tình yêu về một miền sống, miền thương yêu nơi mỗi chúng ta đã từng đi qua và luôn khát khao trở lại. Trong hành trình thơ của Thanh Tùng không thể không nói tới thơ tình, đây là một mảng thơ đặc biệt ghi dấu ấn sâu lắng và nồng nhiệt của một tâm hồn thi sĩ cháy bỏng yêu thương và luôn tụng ca cái đẹp nơi ông mà bài thơ “Thời hoa đỏ” đã đọng lại như một trong những bài thơ tình hay nhất của thi ca đương đại Việt Nam. MỖI NHÀ THƠ ĐỀU CÓ MỘT MIỀN ĐẤT KÝ THÁC VĂN CHƯƠNG Tôi nghĩ mỗi một nhà thơ đích thực, nổi tiếng đều tìm thấy miền đất ký thác của thơ mình trong cuộc đời sáng tạo của riêng họ dẫu hành trình thơ mở ra ở nhiều miền sống khác nhau, nhiều thể tài khác nhau, nhiều giai đoạn khác nhau, nhiều thi tầng khác nhau. Và, điều tôi muốn nói tới chính là chất thơ của những miền sống đã làm nên một đặc trưng phổ quát, một định hình ngôn thi, một đính tính phong cách…của miền thi ca ấy. Với tuyển thơ “Còn đây một thời hoa đỏ” của cố nhà thơ Thanh Tùng vừa được NXB Hội Nhà văn ấn hànhnăm 2019, qua 159 bài thơ trong tập, tôi cho rằng cái phong vận của người thơ tài hoa ấy có hai nét nổi bật đẫm chất thơ-chất sống Hải Phòng đó là sự phóng khoáng trong nhịp điệu thi ca và sự phiêu bạt trong cảm xúc và suy ngẫm. Trong đời thơ của mình, Thanh Tùng đi khá nhiều nơi, viết về nhiều miền đất khác nhau nhưng thành phố Hải Phòng của một ‘Thời hoa đỏ” vẫn là một miền thi ca giầu chất sống lãng mạn dữ dội và ký thác tâm tưởng nhiều nhất đối với ông. Trong bài thơ “Hải Phòng-muối của đời tôi” Thanh Tùng chia sẻ: “Tôi để lại Hải Phòng giầu có của tôi/ Bước ra cửa là rơi vào trái tim bè bạn/ Cùng ngọn gió tươi mặn chaát của biển khơi/ Với tôi ngày nào cũng Tết/Tôi đã mang thơ trải khắ p con đường// Thơ có máu của những ngày bom đạn/ Dồn lên cùng ngọn lửa lò nung/ Chắt ra từ giọt rượu đêm/Quán vắng bạn bè khật khưỡng…”. Rồi: “Tôi đã làm thơ từ sau xe bò chở gạch/ Đến quảng trường nổi gió lúc nửa đêm/ Tiếng ghi-ta ngập ngừng ven bờ sông Lấp/ Rồi bay lên sóng sánh ánh sao trời /Hải Phòng ơi ai cũng đã an ủi tôi/ Bằng cách yêu của thợ/ Đến vỉa hè cũng nóng lên mời gọi/Trong những ngày tưởng không đứng lên được nữa/Hải Phòng ơi tôi đã tan vào Người/ Trong ngổn ngang mãnh liệt/Để hôm nay dù ở nơi nào/Cũng không nhạt nhẽo/Vì Người là muối của đời tôi” (Hải Phòng-muối của đời tôi-Thơ Thanh Tùng) Qua những câu thơ như trên, có thể nói, thơ Thanh Tùng là thứ thơ đậm đặc chất sống, tươi rói chất sống mà cũng trầm luân chất sống, mặn mòi chất muối của Hải Phòng. Hơi thở đời sống cần lao nhọc nhằn, lấm láp của thành phố những tháng năm ấy cứ hiện lên trong thơ ông những nỗi niềm trở trăn, day dứt: “Thành phố gầy như ngực mẹ tôi/Tôi không dám mạnh chân sợ mặt đường long nhựa/ Không dám cả cười buông thả/ Sợ bao vết thương bom đạn vẫn chưa lành/ Bờ sông khúc khuỷu hoang sơ/ Nham nhở cỏ xanh tràn mép phố/Những em gái thập thò sau khung cửa/ Ánh mắt như màu rượu lâu ngày…(Trở về- Thơ Thanh Tùng). Đa phần những bài thơ trong tập “Còn đây một thời hoa đỏ” của nhà thơ Thanh Tùng đều nằm trong mạch chảy ngầm của những tiểu- tự - sự với giọng thơ trầm lắng, giầu chia sẻ, khơi gợi và gần gũi, thân thiết với con người. Thanh Tùng đã nâng nghệ thuật thi ca thành một cách viết tự thân giầu phẩm cách thi sĩ, nó giản dị, hồn nhiên và tươi nguyên như chính hơi thở đời sống xung quanh đã được ông đưa vào thơ theo cách giầu cảm xúc nội tâm nhất, điều mà không phải nhà thơ nào cũng có được. NGHỆ THUẬT THI CA GIẦU PHẨM CÁCH THI SĨ Có thể thấy Hải Phòng lưu dấu ký ức tháng năm trong trái tim Thanh Tùng không chỉ là “Tiếng búa khắc vào hồn phố nhỏ/Cùng mộng mơ lảng vảng cuối con đường” cùng với “Những giọt mồ hôi từng hát lên trong suốt/Những lưng thợ đã bết mãi vào nhau” mà thành phố quê hương còn thắp lên một tình yêu không bao giờ nguôi cũ trong đời thơ phiêu bạt ông: “Tôi có thể lại yêu thêm lần nữa/ Với trái tim nặng trĩu nhọc nhằn/ Bao nhiêu xanh tôi đã để lại cho màu liễu bên bờ hồ Tam Bạc/ Máu đã bừng lên mỗi sớm nơi đây/Tôi vẫn khát những mặt hè như cậu bé ngày xưa/Những tên phố rộn lên trong tôi niềm say lang bạt/Rồi mai đây ở bất cứ nơi nào/Tôi cũng chỉ thấy mình chen chân trên đường Cầu Đất/Hoa bằng lăng tím đến dại khờ ‘- (Hải Phòng lúc ra đi-Thơ Thanh Tùng) Có thể nói trái tim nhà thơ như một bảo tàng trữ tình của những ảnh hình kỷ niệm thân thương về một dĩ vãng Hải Phòng, cũng là nơi chất chứa những xúc động yếu đuối mà chân thành khi ông phải chia tay thành phố trước một chuyến đi rất xa về phương trời khác:“Mới biết mình yếu đuối nhường nào khi phải ra đi/ Nếu tôi không vội nghiến răng thì cơn gió cũng làm cho nhàu rối/Mới thèm làm sao những em thơ nhởn nhơ quanh những gốc bàng già điềm tĩnh/ Những cô gái nước đi như hôn lên mặt hè/ Cả những người thợ đang tất bật áo quần bê bết mỡ dầu/ Tất cả nhìn tôi với tự hào và thương hại/ Tôi hiểu từ đây tất cả là của họ từ nhành cây ngọn cỏ đến vệt mưa xám xịt đã cất giữ của tôi bao dĩ vãng”. Rồi sau những khoảnh khắc yếu đuối phút chia tay, Thanh Tùng chợt nhận ra trong cuộc đời phiêu dạt của mình những câu thơ xa xót, những câu thơ phiêu bạt của một người thơ luôn đau đáu một tình yêu máu thịt với thành phố quê hương với những liên tưởng đầy ám ảnh: “Chỉ lát nữa thôi tôi sẽ trắng tay/ Cái đồng hồ nhà ga như khuôn mặt viên quan tòa nghiêm khắc/ Những cánh cửa nhà ga cũng cương quyết mở ra rồi/ Tiếng còi tàu bàng hoàng như tiếng thét chính hồn tôi/ Tôi rối lên ôm vào tất cả/Hết thứ này lại thêm thứ nữa/Như người khuân vác tham lam/ Tôi xin xỏ, giằng co rồi thương lượng/ Để mai trên quê người không quá cô đơn”-(Ở ga Hải Phòng-Thơ Thanh Tùng) Có lẽ về mặt kỹ năng viết, Thanh Tùng là một trong những bậc thầy của thơ trữ tình tự do mà bài thơ “Thời hoa đỏ” là một dẫn liệu bên cạnh những bài thơ đặc sắc khác của ông. Ở những bài thơ như thế, nhịp điệu dài ngắn của câu thơ lại phụ thuộc vào nhạc điệu nội tại của những tâm sự mà nhà thơ muốn gửi gắm, muốn chuyển tải như trong một bài thơ viết về “Hà Nội ngày trở về” của ông đã được nhạc sĩ Phú Quang phổ nhạc:“Hà Nội ơi tôi đã cất giữ người cẩn thận/ Như dưới làn da kia dẫu đã héo nhầu máu vẫn âm thầm chảy/ Hà Nội ơi, nguồn mộng mơ dày như cỏ mùa xuân/ Mỗi khi tôi thấy mình xơ xác/ Tôi lại về đánh cắp/Dẫu một chút bóng đêm trên đường phố Khâm Thiên/ Dẫu một mảnh lá vàng còn ướt nước Hồ Gươm/ Tôi rung lên mỗi khi chạm tới bóng cửa ô/ Như được chạm vào vai gầy áo mẹ/Tôi bé nhỏ và tôi vẫn thế/ Trái tim luôn xao động/ Như bên trong đầy ắp sóng Hồ Tây/ Vội vã trở về, vội vã ra đi/ Chẳng kịp nhận ra từng mặt phố…-(Hà Nội-Thơ Thanh Tùng). Trong bài viết ngắn này về thơ Thanh Tùng, tôi muốn phác họa đôi nét cái chất sống-chất thơ Hải Phòng trong nhiều bài thơ của ông để thấy thành phố cảng của cần lao, phóng khoáng nơi ông sinh ra và lớn lên đã ngấm vào máu thịt, vào từng hơi thở của thi ca ông với nhiều nỗi đời, nỗi người trong gian khó, nhọc nhằn nhưng vẫn vượt lên bền bỉ một chất sống mãnh liệt của những con người không chịu cúi đầu, không chịu thua cuộc và luôn gắn bó, thủy chung với quê hương: Sau những năm dài đầy biến động và sống hết mình cho thi ca, một trong những bài thơ cuối cùng Thanh Tùng viết trước khi giã biệt cuộc đời gian truân và giầu mộng mơ thi sĩ của ông là bài “Khi nhà thơ đi xa” với những câu thơ dự cảm đầy tâm trạng: “Anh đã đi xa/Chỉ còn những câu thơ ở lại/Những câu thơ tê tái/Chạy như lá khô/Viền tang trên trán phố chiều nay”. Tôi như thấy trong bài thơ này, Thanh Tùng đã viết về chính mình, về một nhà thơ đã sống một cuộc sống không dễ dàng gì trong những tháng năm lao khổ đầy biến động cùng với bạn bè, với Thành phố Cảng quê hương. Thanh Tùng như một Tráng-sĩ-thơ giầu chất sống phóng khoáng, phiêu bạt và thấm đẫm chất Hải Phòng nơi thi ca ông.

Thứ Ba, 12 tháng 11, 2024

BẢO THỦ VÀ CHỦ QUAN _ THÍCH NHẤT HẠNH

BẢO THỦ VÀ CHỦ QUAN...!!! Con người ta thường thất bại thảm thương bởi những ý niệm này, vì họ cứ khư khư bảo vệ quan điểm, mà ko dựa trên những nguyên lí cơ bản. Sống& làm theo bản năng vốn có, họ chẳng muốn lắng nghe dù người khác có chân thành. Câu nói mà nhiều ng hay truyền tai nhau là.....ai nói gì nói, cứ hãy là chính mình...👌 Thấy bình thường đó, nhưng sẽ chẳng bình thường chút nào vs người ko hiểu thế nào là chánh kiến, thế nào là tà kiến...?? Và cứ thế mà họ càng phát huy bản năng vốn có, điều đó hiển nhiên trở thành tính nết của họ. Ai nói gì ko vừa ý, hoặc chẳng vừa lòng, họ sẵn sàng tỏ vẻ khó chịu& Giận..... Họ ko đủ kiên nhẫn để hiểu những thông điệp mà ng khác dành cho. Câu nói mà chúng ta thường thấy là.... Uh.....tính tui là vậy đó. Ah....tôi Biết rồi....nhưng biết chỉ để đó cho vui. Họ ko chịu quay về “quản” cái tính của mình. Vẫn ra sức bảo vệ cái tôi, rồi tự hào vs cá tính đó.... Chính tập khí sai lệch đã triệt tiêu hạt mầm thiện lành trong mỗi con người. Khi mang tâm ý Chủ Quan, cứ nghĩ là thời gian còn dài, còn rộng lắm. Nhưng ko phải ai cũng ngồi đó mà chờ mình, khi mình ko chịu đổi thay. Khi lòng chân thành ko đủ tác động đến một ai đó, họ sẽ chọn cách rời xa trong im lặng, xem như chẳng hữu duyên. Chủ quan rằng mình đủ thông minh, đủ bản lĩnh như 1 chiến binh bất bại, Chủ quan rằng mình đủ lớn, đủ già để hiểu am tuờng hết mọi thứ trên đời... Nhưng khi đối diện vs cái chết thì hoàn toàn vô định& ngơ ngác. Chỉ như đứa trẻ thơ bị giật viên kẹo ngọt khỏi tầm tay.....!! 🌻 Đức Phật đã dạy La Hầu La rằng... Nếu con đòi hỏi mọi ng phải trải chiếu cho mỗi bước chân của con đi, ( vì nghĩ mình là cháu của vua, con trai của Đức Phật). Thì thế gian này làm sao đủ chiếu& đủ người để phục vụ cho mong muốn của con...??? Thay vào điều đó, con hãy chọn cho mình 1 đôi giày vừa vặn, nó sẽ đồng hành cùng con đến bất cứ nơi nào con muốn. 🍀 Nếu người ko biết bơi, điều cần thiết là đi học bơi, chứ ko phải thay đổi cái hồ bơi. 🍀 Nếu muốn thay đổi thế giới, trước tiên hãy thay đổi chính mình trong chánh niệm. 🍀 Nếu vợ hoặc chồng ko hợp nhau, thì điều cần là thay đổi chính mình, chứ ko phải thay người khác. Bằng ko....sự đổi thay ko bao giờ là hồi kết& luôn để lại vết sẹo trong lòng mỗi người, kèm theo những hệ luỵ về sau. 🍀 Nếu cha mẹ muốn tạo ra những thiên thần, thì bản thân đừng là ác quỷ. Hãy tự nhận dạng chính mình, chứ đừng là người đồng loã của bản năng. 🍀 Nếu muốn mình dc trân quý hơn, hãy biết quay vào bên trong “quét rác” mỗi ngày và học hạnh lắng nghe. Thay đổi để chuyển hoá... Thay đổi để ko phải nói ....giá như. Thay đổi để bạn có tài sản, chứ ko phải là người vô sản khi rời khỏi cõi tạm này...☺️☺️☺️ Chúc người người dc thoát mê, khai ngộ. Cũng chính là đem lợi lạc đến cho mình& cho cả mọi người..🙏🙏🙏 #DiệuThanh 🌷🌷🌷🌷🌷🌷🌷🌷🌷🌷🌷

BÁO OÁN HẠNH _ THÍCH THANH TỪ

BÁO OÁN HẠNH ( HẠNH TRẢ THÙ) Hòa Thượng Thích Thanh Từ ✨✨✨🙏🙏🙏✨✨✨ Thế nào là báo oán hạnh? Nghĩa là người tu hành khi gặp cảnh khổ phải tự nghĩ rằng: Ta từ xưa đến giờ ở trong vô số kiếp, bỏ cái gốc mà theo cái ngọn cho nên trôi lăn trong các cõi, nên phần nhiều khởi lòng oán ghét căm hận vô hạn (tức là lưu cái hại vô hạn). Đời nay tuy rằng không có phạm những tội lỗi ấy, nhưng thảy đều do cái họa ương đời trước. Cái nghiệp ác nó đã chín thì không phải trời, không phải người mà hay cùng thấy (cũng không phải do trời, không phải do người mà hay cùng thấy, tức là không phải trời cũng không phải người tạo ra cho mình). Như vậy thì phải cam nhận chịu, trọn không có oán trách. Kinh nói rằng: Gặp khổ mà chẳng buồn. Vì cớ sao? Khi cái tâm này sanh cùng với lý nó phù hợp. Vì cái thứ oán nó liền tiến đến đạo (tức là từ cái gốc oán thù mà khiến cho mình tiến được đến đạo). Cho nên gọi là “báo oán hạnh”. Điều này tất cả người tu cũng như người cư sĩ tại gia, chúng ta cần phải nhớ cái hạnh này thì hiện tại chúng ta mới hết khổ, cũng hết oán hờn. Hạnh này là hạnh báo oán, báo oán là những oan gia đời trước nó còn lưu lại thì sớm chầy gì nó cũng sẽ đến với mình. Chúng ta là người Phật tử hay là người xuất gia, hiện đời này chúng ta biết cái nào là tội chúng ta tránh, cái nào là phước chúng ta làm. Tuy đời này chúng ta không gây những nghiệp ác, nhưng mà những nghiệp ác của đời quá khứ chúng ta đâu có lường được. Biết bao nhiêu đời, biết bao nhiêu kiếp chúng ta đã tạo bao nhiêu cái đau khổ. Nếu thuở xưa mà chúng ta đã biết trở về nguồn chân, không để trôi theo dòng sanh tử thì bây giờ chúng ta đâu còn ở đây, phải vậy không? Sở dĩ bây giờ chúng ta còn ở đây là biết rằng: Chúng ta đời trước và đời trước bao nhiêu kiếp nữa còn ở trong cái mê lầm. Bởi hồi xưa ở trong mê lầm cho nên tạo nghiệp mà không thể lường được, vì tạo nghiệp không thể lường được cho nên đã bao nhiêu đời rồi, chúng ta đã gây những tai họa lưu lại không biết là bao nhiêu. Đời nay tuy là mình biết tu, không còn phạm nữa, nhưng mà cái họa ương của đời trước, cái nghiệp ác nó đã thuần thục, cái quả nó đã chín mùi rồi thì bây giờ phải chịu, thấy không? Bây giờ có những gì đau khổ nó đến là cái quả chín của đời trước, chớ không phải là cái tội ác của đời này. Không còn trách cứ ai hết. Biết như vậy rồi thì biết rằng cái quả khổ hiện giờ mình gánh chịu đây không phải do trời làm ra, cũng không phải người gây nên, chính là do cái nghiệp trước của mình đã tạo. Như vậy chỉ còn có một cách là cam tâm chịu thôi. Cái gì xảy tới với mình thì sẵn sàng cam tâm nhận chịu, không trách trời, không oán người, không phiền ai hết, vui vẻ nhận lấy, vì đó là cái nghiệp quá khứ của mình. Như vậy là mình không còn buồn khổ nữa. Cái khổ có đến với mình, mình không buồn. Do đó mình tự nhiên có cái gan dạ, chịu đựng tất cả cái khổ đến. Còn bây giờ chúng ta gặp cảnh khổ là kêu trời trách đất, nói tại sao đời này tôi ăn hiền ở lành, tôi cứu người này, tôi giúp người kia mà chính thân tôi khổ lắm vậy? Như vậy là mình cứ oán trách. Như vậy cái quả trước mình trả chưa hết mà bây giờ lại còn oán trách còn thêm tội nữa, phải vậy không? Chi bằng vui vẻ, cam nhận chịu, chúng ta sẵn sàng nhận lãnh tất cả những gì chúng ta đã tạo, như vậy mới là gan dạ chứ, thấy không? Can đảm nhận lãnh như thế rồi thì tự nhiên mình khổ mà tâm mình không khổ. Thân khổ hay cảnh khổ mà tâm không khổ vì mình chấp nhận mà, mình không sợ sệt gì hết. Người ta sở dĩ đau khổ là vì người ta sợ sệt, còn mình không sợ sệt cho nên tự nhiên khổ mà không khổ. Đó là điều mà tất cả chúng ta, nhất là lúc này, chúng ta phải tập cái hạnh đó cho nhiều mới được, đúng không? Chớ còn nếu trong thời này mà không tập được cái hạnh đó, thì sau này không sao tránh khỏi là trách người này, oán trời kia đủ thứ hết: Tại sao tôi hiền lành quá mà xảy ra chuyện này? Tôi tốt quá mà lại xảy đến cho tôi chuyện kia? Phải vậy không? Không có ai làm cho mình khổ mà chính là cái nghiệp quá khứ của mình còn lưu lại, đến giờ thì chín mùi rồi thì mình phải chịu. Như vậy, mình trách mà mình có hết khổ không? Chi bằng vui vẻ nhận lấy. Cho nên, chúng ta mà hiểu được lý nghiệp báo của thuở xưa thì chúng ta không còn cái yếu ớt, nhát hèn, kêu la than khổ như những người khác nữa. Chúng ta thấy có người nghèo mà họ vui, có người nghèo mà họ khổ. Tại sao nghèo mà vui? Tại sao nghèo mà khổ? Bởi vì có người nghèo, họ tự biết thân phận họ nghèo là tại họ vô phước cho nên nghèo, họ cam chịu, không trách hờn ai hết. Còn người nghèo mà cứ dòm người này, ngó người kia: ông đó làm ác, ổng gian tham quá mà sao ổng giàu còn mình sao nghèo? Rồi cứ thế mà trách người này, ghét người kia, thù người nọ, có phải tự mình chuốc khổ cho mình hay không? Như vậy, chúng ta ở trong cảnh khổ mà chỉ cần nhớ rằng: nếu không phải đời này chúng ta tạo, đó là do đời trước chúng ta gây nên. Đời này hay quá khứ cũng là mình tạo mình chịu, chớ có ai làm đâu? Mà mình tạo mình chịu còn oán hờn ai nữa? Không ai bỗng nhiên tới mà làm khổ mình, nó phải có lý do nào đó. Bây giờ mình nói theo lẽ công bằng mà nghe, thì hiện giờ chúng ta không ai buồn ai, không ai giận ai hết, thì có người nào nỡ lại chửi người không? Từ đó suy ra, mình chưa buồn người đó chút nào hết, không phiền không giận, không buồn mà mình dám lại chửi người ta không? Vậy ở đâu mà bây giờ có? Vậy bây giờ thấy mặt người đó là muốn chửi liền thì biết chuyện gì rồi, có căm hờn trong bụng rồi, thấy không? Chớ nếu không có căm hờn, làm sao vừa thấy mặt mình muốn chửi liền được? Vậy cái căm hờn đó, hoặc là mình mới tạo, hoặc mình đã tạo lâu rồi mà mình quên, phải không? Như vậy là lỗi tại mình chớ phải tại người ta đâu, mà cứ trách người ta hoài. Như bây giờ nhiều khi, người đó có điên khùng chửi ông, chửi cha mình hồi nào mà mình thấy mặt là ghét liền hà. Tại sao vậy? Tại vì mình đã sẵn ác cảm với họ. Còn có người chưa từng cho mình bữa cơm, bữa cháo nào mà tự nhiên thấy rồi thương. Như vậy là tại sao? Dĩ nhiên đó cũng là duyên trước của họ với mình đã có từ bao đời nào, cho nên bây giờ hiện đời tuy chưa có gì qua lại với nhau, mà khi gặp tự nhiên nó có cái gì, hoặc là dành sẵn cái tình cảm mến thương, hoặc dành sẵn cái ác cảm, oán ghét. Cái đó cũng là lỗi tại mình chớ không phải tại ai hết. Như vậy nếu chúng ta vô phước, sanh ra gặp ai cũng bắt ghét chúng ta hết thì lúc đó chúng ta cũng cười mà chịu: ờ tại mày hồi xưa mày dữ quá cho nên bây giờ để người ta phỉ nhổ trên đầu mày cũng đáng, thấy không? Vậy có trách ai chi? Còn nếu không như vậy thì cho rằng cái xã hội này đem tới toàn xấu xa, mình phải đạp đổ nó... Như vậy tức nhiên lòng căm thù của mình nó dấy lên, rồi cái nghiệp kia chưa trả hết, bây giờ cái nghiệp mới lại gây thêm. Như vậy thì đời đời oan gia không hết. Am hiểu được lẽ này thì chúng ta gan dạ chịu, không oán hờn ai hết. Giả sử bao nhiêu cái đau khổ dồn trên đầu chúng ta gánh chịu không muốn nổi đi nữa thì cũng phải ráng mà chịu, không nổi thì cứ nằm quẹp xuống đó chết luôn, chớ không có hờn trách ai hết, chớ đừng nói thôi để cho tôi ít ít. Có nhiều Phật tử cứ than van như vậy đó. “Nếu khi xưa tôi có tạo nghiệp ác, bây giờ có trả lại cho tôi thì trả từ từ, trả ít ít thì tôi chịu mới nổi, trả quá tôi không chịu nổi, tôi chịu không nổi thì tôi chết, chết thì thôi cũng là trả.” Như vậy thì chúng ta mới sẵn sàng, cái gì đã vay thì bây giờ sẵn sàng trả. Trả bao nhiêu cứ trả, hồi đó vay một triệu thì bây giờ trả một triệu, mà vay một trăm ngàn thì bây giờ trả một trăm ngàn, tùy theo sự vay nhiều ít, chớ còn không muốn để đời sau nữa, thấy không? Ngay đời này trả cho rồi, trả cho xong. Bây giờ chúng ta muốn dồn lại nợ trước cho hết để mà tự mình được giải thoát thì bao nhiêu nợ nần sẵn sàng trả hết, trả nhiều chừng nào mừng chừng nấy, cảm thấy hân hoan là lúc này mình trả rút, bao nhiêu trả hết. Như vậy là mừng chớ không có khổ. Còn nếu không hiểu như thế là thấy khổ, thấy tai họa nó dồn tới mình chừng nào, mình lại oán trách, rồi mình than phiền mình khổ. Nếu mình hiểu nó dồn nhiều chừng nào thì mình trả mau hết, thì tức nhiên mình mừng chớ không có gì hết. Còn bây giờ trả thưa thưa, trả một cách lâu lắc, chậm lắm, thấy không? Như vậy chúng ta nhớ cái báo oán hạnh này thì chúng ta không còn gì buồn khổ nữa. Bao nhiêu cái khổ tới thì sẵn sàng chấp nhận hết, vui vẻ chấp nhận chớ không có buồn hờn. Nếu trong xã hội này ai cũng có cái gan như vậy, thì xã hội này có ai oán trách ai đâu? Phải vậy không? Không buồn, không oán ai hết, sẵn sàng gan dạ. Chính người Phật tử chân chánh có cái gan dạ như vậy, nghĩa là gan dạ chịu chớ không có buồn. Còn mình không phải chân chánh cho nên mình mới buồn. Nếu khi nào mình oán trách, người ta biết mình là chưa phải chân chánh rồi đó. Chưa tin được lý nhân quả mà, thấy không? Chưa tin được lý nhân quả nên mới oán trách người, chớ còn tin lý nhân quả thì không có oán trách ai hết. Bây giờ tự kiểm lại lòng mình coi mình có tin nhân quả chưa? Cái lý mà nó gần nhất và phổ thông nhất của nhà Phật mà mình chưa tin, thì những cái cao làm sao mà tin nổi. Vì vậy cho nên tất cả chúng ta phải gan dạ, chịu đựng tất cả cái khổ nó đến với chúng ta, không oán, không hờn, không buồn, không phiền ai hết. Giả sử như người trong gia đình làm cho mình khổ thì mình cũng vẫn chịu, biết rằng chắc hồi trước mình cũng làm cho người đó khổ nhiều, bây giờ họ trả lại. Hoặc người bên ngoài làm cho mình khổ, mình cũng biết trước kia mình đã làm cho họ khổ nhiều bây giờ họ trả lại. Chuyện đó không có ngẫu nhiên mà đến với mình đâu. Hiểu như vậy rồi thì chúng ta an nhiên cam chịu, không oán hờn và không thù hận ai hết. Đó là cái hạnh thứ nhất. Trích sách: Sáu cửa vào động thiếu thất Cửa thứ ba: Nhị chủng nhập Tổ Bồ Đề Đạt Ma HT.Thích Thanh Từ dịch và giảng giải thuongchieu.net --- Con hiểu rằng với một kiếp người ngắn ngũi và mong manh chúng con không thể nào trả hết những vay mượn, những nợ nần trong vô số kiếp quá khứ, hiểu được nhân quả và sự công bằng trong vũ trụ, chúng con cố gắng tu hành mong có cơ hội đền trả lại những gì chúng con đã vay mượn Chúng con phước mỏng, nghiệp lại sâu dày nên luôn được nương nhờ vào tha lực của Phật, Bồ tát và kiên nhẫn vượt qua những khó khăn mang theo tâm nguyện lợi lạc cho đời Xin đức Từ Bi Thường Gia Hộ để đời kiếp chúng con luôn gặp Chánh Pháp, có cơ hộ phụng sự cho chúng sinh đền ơn chư Phật. Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Chủ Nhật, 10 tháng 11, 2024

THƠ LÊ HÀO PHÚ YÊN

❤️Viết về kí ức Tàu Không Số & Bến Vũng Rô thật khó! Mời bạn đọc và cảm nhận: 🌼MAI VÀNG TRÊN ĐỈNH NÚI ĐÁ BIA Nghe Chú Thạnh kể chuyện ngày nào tàu không số có mai vàng trên đỉnh mù sương Ngày ấy đạn găm như mưa đêm cú vọ săn mồi đèn pha loang loáng chiến sĩ ngụy trang xong tàu hàng lên núi cao ngắm cảnh Đá Bia sương phủ mờ mờ Trăng hạ huyền lung linh ca nước vối khói thuốc thành mây bay cành mai trên vai vừa hé nở súng ngửa cổ ngắm sao trời Đêm vuốt bàn chân vừa rớm máu gói ghém nụ cười tươi sau vành mũ tai bèo ngàn vì sao lấp lánh, bay theo những ánh nhìn hỏa châu lóe lên rồi tắt lịm chỉ còn những khuôn mặt sáng bừng trong đêm bầu trời đầy hoa cỏ Cành mai thắp lên niềm tin trên đỉnh núi nở ra từ ước vọng quê nghèo ... hoa vẫn xinh dù nhọc nhằn gian khổ trăng mọc lên từ mất mát đau thương Ngày ấy ... người đi, thành sóng biếc mai vàng còn nở trong tim (LH) 🌿TẢN MẠN VỀ MỘT CHUYẾN RA KHƠI Tàu cập vào Hòn Nưa lúc 10h sóng chầm chậm suy tư trời và nước yên bình anh nhìn sâu xuống mặt biển để thấy từng viên sỏi long lanh số phận Thủy triều em lên trong vắt không rửa sạch cho anh chút nào rong rêu bụi bặm còn vô số nỗi niềm chôn kín trong vỏ ốc vỏ sò sao em không biết ? Trải qua cả ngàn năm sóng mới hiểu thế nào là "mênh mông hữu hạn, quay đầu là bờ ..." Lòng tham không cần buông neo không cần bến đỗ chỉ có những giọt mồ hôi đôi khi là máu buông đầy biển khơi và những chú còng cứ lặng thầm xe hy vọng Ngày Mẹ Âu Cơ sinh con đau đớn cũng nhiều mà những hoài mong còn nhiều hơn nước biển rốn biển nơi đâu, rốn đảo nơi đâu, rốn em nơi đâu còn dấu vết cội nguồn ngàn năm hoang hoải sóng ...? 11h20 phút tàu nhổ neo đưa anh về Bãi Chùa thăm tàu không số sóng lặng thầm niềm đau sâu thẳm màu nước xanh trong như tâm hồn người thuở nào Em cứ buồn như biển khơi đừng ngại nước mắt cho ta làm người em hãy yêu nỗi lòng của đảo ...! Tình anh cập vào đất liền lúc 12h05 phút Bãi Môn là đây ngàn khơi xa rợp nắng quê em (LH) 🌺ĐÁ TRÊN THẠCH BI SƠN Chấp chới ánh vàng để biết mặt trời còn ngủ say bên kia sườn non đá nhấp nhô phận mình triệu năm còn thức Những mảng thời gian hóa thạch chồng chồng lên nhau mở lối sau ngàn gai góc là hoa mua nở đầy sau ngàn thông reo là vực thẳm Giang mùa này mọc dày hơn cỏ lác ? dũ dẻ và bù lặp cùng đơm quả vàng vàng không ranh giới nào vạch sẵn ... đát mọc lên từ khe đá buông xuống một tràng hạt từ bi rừng lâm râm kinh cầu Phủ đầy rêu xanh và dương xỉ từng tảng đá lặng nhìn bao phận đời trôi nhanh chìm khuất ... đá này là máu xương người mở cõi đá này là nỗi niềm chinh phu đá này là tình yêu, khát vọng lớp lớp trùng trùng vun cao thành ngọn núi Trên đỉnh núi là Thạch Bi hùng vĩ chữ viết còn trong mây nhắc về bổn phận người đời ... cúi đầu bên vách đá mới thấy sự bao la của hồn thiêng non nước (LH)

Thứ Năm, 7 tháng 11, 2024

THƠ LÊ HÀO PHÚ YÊN

💔Thơ & tranh vẽ về nỗi đau. Đôi khi không thể trốn được nỗi đau, nó có con mắt để tìm mình! 🥀CỎ VỪA THỨC GIẤC Đêm qua có con dế lạ tới làm quen mình ngủ quên trong tiếng dế mặt trời rọi vào chiêm bao Nắng đỏ rực núi trên cao vừa thức giấc trên lớp bùn đã vỡ nghe tiếng trâu ọ bản xa, tiếng gà quen đồng vọng đá lổm nhổm bò quanh thung lũng nằm vùi chăn phủ Nghe gió kêu than từ khoảng rừng đổ gục nghe kí ức réo quanh đây đá nhảy nước chảy? làng ơi… người ơi! Bàn chân nay mọc rễ làm sao đi tìm gia phả của người Bao đêm mình thức cùng đom đóm ngày đứng phất phơ canh giữ cho làng (LH -11/2024) * 🥀ĐÊM MƯA SÀI GÒN Từng giọt thấm trên da thịt của Sài Gòn mưa qua những con đường nằm co trong cơn sốt Ngọn đèn nhìn quanh, rơi nước mắt ánh sáng không soi vào tận cùng hơi thở không sưởi ấm được đôi bàn tay run run, con thơ không đủ sữa Mưa khoác một màu trắng tinh buồn cúi mặt... tiếng ho vịn vào mưa quỵ xuống hổn hển những cơn mơ khó thở Người đàn ông gầy gò vừa đi theo sợi khói nhẹ bay vào mùa thu về miền cố hương xa vắng đêm còi hụ thay tiếng chuông mưa giọt giọt gõ mõ, rơi trên khuôn mặt thiếu phụ Có phải mưa là nước mắt của những người ly hương thuở trước chảy qua mấy trăm năm? (LH 9/2021) 💔Nỗi đau. Tranh của Lê Hào. Sơn dầu trên vải. 50x70cm. 11/2024

Chủ Nhật, 3 tháng 11, 2024

BÌNH THƠ HUỲNH THÚY KIỀU _ NGUYỄN KIẾN THỌ

Thơ Huỳnh Thúy Kiều: Ngờm ngợp phù sa châu thổ . NGUYỄN KIẾN THỌ Miền Tây là một không gian văn hóa đặc trưng của đồng bằng châu thổ, nơi hợp lưu của chín nhánh Cửu Long; miền Tây cũng là một vùng thẩm mĩ trong thi ca, khơi gợi cảm hứng của biết bao thi sĩ. Viết về miền Tây, tựu trung, có hai kiểu loại tác giả: một là tha hương lữ thứ hoặc sắm vai tha hương lữ thứ, mang tâm thế kẻ ngao du thưởng ngoạn, say đắm mà sinh tình, rồi thề non hẹn biển, đắm đuối tơ duyên, giăng mắc lòng với phù sa châu thổ; một nữa, là người sinh ra và gắn bó máu thịt với mảnh đất này, viết về miền Tây như để tri ân, hoặc như để quảng bá cho đất đai và tình người phóng khoáng. Hai kiểu loại tác giả đều có những điểm mạnh đồng thời cũng bộc lộ những hạn chế nhất định. Loại thứ nhất thường trơn tru ráo hoảnh, nhắc đến Cửu Long như nhắc đến một đặc sản vùng miền. Nói ân tình mà cứ khơi khơi, nói nặng lòng mà như kiểu người qua đường ghé lại, đắm đuối chẳng qua là hiếu kì… Loại thứ hai thì thường thiếu men cảm xúc, một chỉ dấu của sự tỉnh táo, nên thơ kĩ mà không sâu, nhuyễn mà không gợi, hoặc nói quá lên, hoặc còn chưa tới… Thật may, đất Mũi Cà Mau có một Huỳnh Thúy Kiều, và rộng hơn, đồng bằng sông Cửu Long có một Huỳnh Thúy Kiều. Thơ chị ngờm ngợp phù sa châu thổ, vừa đậm đặc phong vị riêng của miệt vườn Nam Bộ, vừa có cái man mác, si mê, đa tình của một lữ khách viễn du. Say với cảnh quen, đắm trong tình cũ - đó là Huỳnh Thúy Kiều. Thơ Huỳnh Thúy Kiều gợi ra cái tâm thế của người thưởng ngoạn: anh muốn thử uống ngụm nước sông Hậu, sông Tiền/ nghe vị giác ngọt lừ qua thơ em gọi. Những khai mở, khám phá tạo nên mạch cảm xúc êm dịu và ngọt ngào: chiều tím lục bình với khăn rằn và áo bà ba em/ như thấy mẹ, thấy bà nhai trầu bỏm bẻm/ anh muốn biết cả con cá lia thia, chim quyên quầy và cây bình bát/ bàn chân anh đang đứng ở nhánh sông nào (Lỡ có yêu đồng bằng). Không phải sự ngợi ca đơn chiều thường thấy ở nhiều nhà thơ khi viết về mảnh đất nơi mình sinh ra, coi truyền thống lịch sử là báu vật tinh thần, Huỳnh Thúy Kiều thiên về những mảnh kí ức vụn lẻ mà đằm sâu, những cái bình thường làm nên phong vị của thôn quê đồng bằng châu thổ. Ở đó, có nhung nhớ luyến tiếc về một quá vãng xa xăm, có xót xa ân tình của một người thơ nhiều duyên nợ. Điều này nằm ngoài những sắc điệu cảm hứng thông thường của người đến với miền Tây, viết về miền Tây như một điểm trang cho từng trải cuộc đời. Phải chăng, đó cũng là lí do làm cho thơ chị thấm hơn, gợi những ám ảnh hơn từ phía người đọc: con rồng thiêng ngậm vầng trăng châu thổ hóa màu/ nhịp cầu tre tang tình chỉ còn âm ba nhói kí ức/ nương theo mái dầm với khăn rằn thả chéo cao chéo thấp/ thôn nữ ơi em có còn gội tóc nước tro không (Châu thổ). Thơ Huỳnh Thúy Kiều mang tâm thế cuộc viễn du của những giấc mơ, không phải từ những quan sát trải nghiệm mà thực ra nó là những hệ quả sâu xa từ những quan sát, trải nghiệm, để rồi, nó bật ra bởi sự thúc giục của những ám ảnh từ trong vô thức. Chất “phiêu” của thơ Huỳnh Thúy Kiều là vậy, vượt qua giới hạn của những quan sát phàm thường để cất cánh, để phiêu du. Có vậy mới nhìn ra được sự cựa quẫy của đất đai châu thổ, thấy “sông Tiền, sông Hậu gợn từng nốt phù sa quẫy căng lồng ngực”, thấy châu thổ có nghìn nấm mồ lấp kín nỗi đau/ có triệu niềm vui lăn tăn theo từng dòng mặn ngọt. Cũng chính vì vậy nên dù nhà thơ có khẳng định “chín nhánh Cửu Long, châu thổ không của riêng tôi”, ta vẫn cứ nhận ra cái giọng thơ rất riêng nơi chị. Hãy nghe lời mời mọc chân thành và tình tứ: mùa nước nổi mời bạn đến dầm trong bữa canh chua cá linh bông điên điển/ xới chén ân tình cơm rơi vàng lời hẹn/ kênh rạch buồn đuổi ngọn sóng lắng bể dâu (Châu thổ). Như dòng sông miệt mài lắng lại những phù sa, thơ Huỳnh Thúy Kiều làm lắng lại những xúc cảm tình yêu với đất và người miền Tây quê chị. Chỉ có yêu quê đến tận cùng thì mới thấm hiểu cái gian nan vất vả của con người miền Tây. Ngay cả trong niềm vui lúa đồng trĩu hạt vẫn đau đáu nỗi niềm của giọt mồ hôi: giữa hai bờ lúa là khoảng trời dệt nắng bình yên/ cúi xuống nhặt giùm em giọt mồ hôi cha rơi trong ngày giáp hạt/ hoa mận nở bung trời bầy ong ríu ran hút mật/ con chim chào mào ngúng nguẩy tắm cuối mùa trăng (Giữa hai bờ lúa). Quê hương miền Tây trong thơ Huỳnh Thúy Kiều đẹp mà buồn. Chị mang những ẩn ức của người nhận ra nơi ngờm ngợp phù sa châu thổ không phải là thiên đường, không phải là món quà vô lượng của Thượng đế, mà là công sức nhọc nhằn của bao thế hệ cha ông, của những người cha, người mẹ đã dấn thân trên mảnh đất này. Và thơ, với chị như là những nợ đời phải trả của một người con hiếu nghĩa: bài nhân nghĩa đầu đời con vừa kịp hiểu, thưa cha/ hạt gạo mẩy trên cánh đồng cha gieo cho con đong từng táo chữ/ mẹ cõng ấu thơ con bước qua luống cày sợi rơm quấn vàng bờ rạ/ nên tận bây giờ thơ con vẫn quen ngai ngái mùi bùn thơm (Thơ viết tặng cha). Viết về những gian khó nhọc nhằn, Huỳnh Thúy Kiều vẫn trong veo một niềm yêu như thể tâm hồn chị được kết tinh bằng tình quê đọng mật. Cái tâm thế của người cha “dắt đàn con qua khỏi ranh đói nghèo” mà vẫn cảm nhận được “thơm ngọn gió gieo neo rừng dừa quê nội”, “mùa líu ríu ngọt mật ong rừng tràm quê ngoại”… là tâm thế của một bản năng thi sĩ, yêu quê và nặng tình nặng nghĩa với quê. Như đã nói, thơ Huỳnh Thúy Kiều là trạng thái vong thân của “những giấc mơ bay”, nên khoảng cách giữa chủ thể và đối tượng trữ tình luôn được khúc xạ qua một lằn ranh là nỗi nhớ. Nhớ quê là tâm thức thường trực trong thơ của chị. Hơn một lần chị bộc bạch hay thú nhận: em lớn lên từ mùi thơm hương đất/ bàn chân xa vô tình đạp phải nỗi nhớ quê… Khi thì “giấc mơ dịch chuyển khỏi đồng bằng châu thổ”, khi thì tan vào ban mai/ nỗi nhớ chòng chành như khói/ giấc mơ châu thổ/ anh quáng quàng như đang thức dậy giữa sông Tiền sông Hậu và em (Ban mai em). Dĩ nhiên, nỗi nhớ ấy cũng phải được đo bằng một đại lượng đặc biệt - “nỗi nhớ đo bằng mông lung khoảng trời tơ nhện”. Đó là một “tiếng gọi xa”, “nỗi nhớ xa” nên cũng vì thế mà trở nên lung linh huyền ảo, không chỉ chân thật mà còn mãnh liệt hơn, thi vị hơn: anh gỡ mùa thu còn sót lại chút hương tàn trên lưng áo/ ảo ảnh em cầm bông điên điển vàng cấy sâu thương nhớ vào tim (Và châu thổ)… “Ngờm ngợp phù sa” trong thơ Huỳnh Thúy Kiều đồng nghĩa với ngờm ngợp những tín hiệu văn hóa đặc trưng của vùng sông nước miền Tây. Trước tiên, có lẽ là những “ngờm ngợp” câu chữ. Thơ Huỳnh Thúy Kiều mang một nét riêng khó trộn, nó rậm rạp chữ, sum suê chữ và mơn mởn chữ. Sức sống miền Tây nở tràn trong thơ chị, thăng hoa bằng những xúc cảm, khi thì ồn ào mãnh liệt, khi thì lặng lẽ trầm tư. Dễ dàng nhận thấy, Huỳnh Thúy Kiều không lên gân lên cốt cho câu chữ mà để nó buông thả tự nhiên theo mạch cảm xúc. Vì thế, thơ chị mộc mạc và gần gũi, mang giọng thủ thỉ tâm tình của người phụ nữ miền Tây, vừa dịu dàng vừa mạnh mẽ. Lại có lúc, người thơ ấy trở nên đa cảm, yếu mềm. Ấy là khi chị cắt nghĩa về Hà Nội theo cách của riêng mình: cũng phù sa đỏ giống nhau thôi/ cũng phơi mình bốn bề gió lộng/ chao chát bờ xa/ thoi loi tiếng gọi/ em cầm sông Hồng cho vơi nhớ Cửu Long. Một cảm nhận lạ và sâu: em đo nhớ đầy tay/ mỗi góc phố là một giấc mơ dày/ hoang hoải/ nhịp đa đoan thức dậy/ nghe trở dạ đồng bằng (Đánh thức sông Hồng). Có khi, đó là những trải nghiệm đa đoan của một người thơ luôn sống bằng nỗi nhớ, bằng những kí ức dịu êm của một thiếu nữ đăm đắm say trong những cuộc tình: rụng xuống mùa chiếc lá đơn côi/ đêm trống trải. Gió lùa thông thốc gió/ cuộc tình nào đi qua.../ ai đổ cạn buồn xuống phố/ rong ruổi bàn chân em ướm lên phía nhớ rất thừa (Rất Huế). Dằng dặc địa danh trong thơ Huỳnh Thúy Kiều không chỉ định vị những tên đất tên người miền Tây mà còn định vị những ân tình gợi nhớ. Đó có khi là bến Ninh Kiều vừa quen vừa lạ: đây Ninh Kiều/ đây Ba Láng, Vàm Xáng, Phong Điền/ giữa chợ nổi anh thấy mình như cây bẹo treo đêm (Nhớ miền Tây). “Thấy mình như cây bẹo treo đêm” chắc chắn không bao giờ là cảm nhận của bất kì du khách nào khi tới bến Ninh Kiều, mà đó phải là cảm nhận của một người thông thổ, làm cho những câu thơ trở nên lạ và duyên. Cũng có khi, đó lại là những liên tưởng hết sức lạ lùng: buông luống cày bưng trời uống hết mật nắng tháng tư/ tựa chín cửa sông mới hay mình nhỏ nhoi trước chiều châu thổ/ cây mù u khoác những chùm hoa trắng nõn/ bịt khăn tang khóc phận bạc dưới chân cầu (Châu thổ). Quan sát và trải nghiệm, đúng hơn là quan sát bằng trải nghiệm, tạo cho Huỳnh Thúy Kiều vốn sống và sức viết, sức nghĩ. Vốn sống để thấu hiểu những người dân miền Tây phong trần, phóng khoáng và đầy chất nghệ sĩ. Sức viết tạo ra những tứ thơ lạ, sức nghĩ mang lại những điểm nhìn lạ. Từ Kiều Mây (2008), Giấu anh vào cỏ xanh (2010) đến Ru giấc phù sa (2017) là những bước chuyển khá rõ trong hành trình thơ ca của chị. Nếu Kiều Mây chỉ là một Huỳnh Thúy Kiều trong veo mơ mộng với một lối thơ khá đơn giản thì Giấu anh vào cỏ xanh hiển hiện một Huỳnh Thúy Kiều trăn trở, suy tư và nặng lòng với cuộc sống, cùng với những đột phá bước đầu về cách thức biểu đạt. Đến Ru giấc phù sa đã định hình một bản thể thơ Huỳnh Thúy Kiều mang đầy bản năng thi sĩ. Một trong những điểm mạnh của thơ chị có lẽ là ở sự đặc sắc về mạch thơ và tiết tấu. Sự nhấn nhá buông thả hay cô nén câu chữ được chị tạo ra với những dụng ý nghệ thuật nhằm kiến tạo một nét riêng trong diễn ngôn thơ Huỳnh Thúy Kiều. Câu chữ đắm tình và đậm vị cuộc sống làm cho mỗi bài thơ của chị trở thành một câu chuyện đầy thi vị. (Điều đó cũng phần nào lí giải những thành công ban đầu của Huỳnh Thúy Kiều ở thể loại tản văn.) Nếu có một cảm giác “tiêng tiếc” nào đó thì có lẽ nó gắn với sự kì vọng về một/những bài thơ làm nên “thi hiệu” Huỳnh Thúy Kiều, những bài thơ đậm đặc chất miền Tây và đóng đinh vào nỗi nhớ của người đọc. Điều đó, nếu chưa kịp hiện hữu trong thơ chị thì sự kì vọng cũng hoàn toàn không là viển vông. Trái lại, nó sẽ gieo vào chúng ta một cuộc đợi chờ thú vị. Trên con đường định hình một cá tính viết, Huỳnh Thúy Kiều đã mang đến cho người đọc những khoái cảm thẩm mĩ từ những bài thơ mang hương vị lạ, độc đáo đặc sắc mà đằm thắm trữ tình. Những bài thơ được kết tinh từ tình đời nặng sâu và tình người trong trẻo. N.K.T Trại viết VNQĐ, Cần Thơ, tháng 6/2022

BÌNH THƠ HUỲNH VĂN ÚT _ NGUYỄN NGỌC TÂN

Thơ Huỳnh Văn Út dầm mình trong miên man đất nhớ Huỳnh Văn Út viết nhiều thể loại, anh có thế mạnh ở mảng phóng sự và bút kí, nhưng với thơ, anh vẫn mang một nét chân chất đậm đặc kiểu lối nói rất duyên trong bài ca vọng cổ. Bởi thế, những giai điệu dặt dìu thường được anh sử dụng trong nhiều bài thơ của mình. Điều ấy khiến thơ anh có những nét cuốn hút rất đáng yêu, nó không có dáng vút bay lên màu mè cầu kì chữ nghĩa mà mênh mang kiểu giai điệu vọng cổ đằm đắm dìu dịu xề xang líu cống. Nhà thơ Huỳnh Văn Út Do đó, chúng tôi thấy hai biện pháp nghệ thuật điệp ngữ và liệt kê thường xuất hiện trong thơ Huỳnh Văn Út. Ở bài thơ “Về nghe em” là một ví dụ điển hình. Điệp ngữ “về nghe em…” sau đó là biện pháp liệt kê (“đẩy mái chèo khuya”, “trăng lấp lánh”, “đêm Cà Mau tang tình câu vọng cổ”, “chan chén canh rau”, “có mưa nắng còng lưng cha gánh gạo”, “có tấm áo, mẹ sáng nay vá vội”, “có đàn trâu”, “nghe mái tranh xiêu”, “củi bếp reo kói lên mắt cay”, “đêm loang gió vách ai dừng buổi sớm”, “dây bí vàng bên hiên”, “nằm võng lót mo”, “mẹ giấc trưa đằm thắm”, “chị mớm sữa, trẻ say chiều ngả nắng”, “thềm xưa điệu ngọt ngào”, “vá áo cho nhau”, “miếng trầu xanh vôi đỏ”, “anh dạo đờn em ngân bài dạ cổ”, “đêm quê nghèo thương mấy nhịp song loan”) để nghe, để hiểu, để thấm, mà thương, mà sống, mà trưởng thành! Do vậy, “về nghe em” thủ thỉ mà da diết, đâu chỉ là mong “em” thôi, mà đó còn là sự khát khao đối với tất thảy chúng ta là hãy về với quê hương xứ sở, về với cội nguồn để thấm hơn sự giang tay ôm đỡ và che chở của cội nguồn văn hóa. Bởi thế cho nên, thơ Huỳnh Văn Út thường tròn vo về chữ và trong sáng về nghĩa. Câu chữ anh nền nã, gọn và giản dị. Tình cảm buồn vui nhẹ nhàng như hơi thở. Dễ hiểu dễ cảm, câu chữ anh rót trực tiếp vào lòng người. Nhiều khi con chữ Huỳnh Văn Út cất lên nồng nàn và đầm đẫm những chắt chiu: “Con cá trong tộ tí teo, Cọng rau dài ngoẵng… gieo neo tình người Bờ ao, cầu khỉ… đây rồi! Vẳng nghe em hát những lời trong veo” (Về quê) Đôi khi là những mong cầu trong thảng thốt: Biết đâu có những đêm nằm Trở mình, đứt ruột sáo thầm về qua?! (Ví dầu con sáo qua sông) Lắm lúc lại là những sợi nhớ thương ngơ ngẩn rất vô tư kiểu học trò, khi anh mượn những hình ảnh thơ nhân cách hóa để nói hộ nỗi lòng mình: Ngày em đi con đê sầu chênh vênh Ta ngẩn ngơ khi tàu quê rời bến Tiếng yêu đầu vụt xa như định mệnh Dòng sông buồn… hát khúc chờ mong! (Sợi dây hư vô) Đôi khi lại là những trách cứ vu vơ, nhưng vẫn đậm chất sẻ chia và cũng vụt lớn để mà thông cảm, an ủi: Hai mươi năm… làm sao quên cái tên? Trang giấy trắng cũng nát nhàu nét mực Thôi em hỡi, xin trả nhau về đời thực! Có sợi dây nào cột được hư không? (Sợi dây hư vô) Và nhiều khi câu chữ anh là một chuỗi những hình ảnh của kí ức đan cài. Tiếng nói trữ tình anh vang lên nặng trĩu những tâm tư ruộng đồng, ăm ắp những hơi thở miệt vườn. Nhân vật trữ tình trong thơ Huỳnh Văn Út thường mang mang những tâm tình đồng ruộng, bao nhiêu là tha thiết cứ rủ rỉ về một vùng quê nào đó xa thật xa mà cũng gần thật gần, rất tình và cũng rất gợi: “Về nghe em đẩy mái chèo khua/ Trăng lấp lánh gọi đò qua bến lở/ Đêm Cà Mau tang tình câu vọng cổ/ Con sáo qua sông… con sóng bạc đầu…!/ Về nghe em chan bát canh rau/ Có mưa nắng còng lưng cha gánh gạo/ Có tấm áo, mẹ sáng nay vá vội/ Có… đàn trâu còn hì hục đồng chiều/ Về nghe em để nghe mái tranh xiêu/ Đêm loang gió vách ai dừng buổi sớm/ Dây bí vàng bên hiên hoa vừa chớm/ Củi bếp reo khói lên mắt cay nhòe/ Về nghe em nằm võng lót mo/ Gió lay khẽ, mẹ giấc trưa đằm thắm/ Chị mớm sửa, trẻ say chiều ngã nắng/ Dưới thềm xưa vẫn điệu khẽ ngọt ngào/ Về nghe em để… vá áo cho nhau/ Têm dùm mẹ miếng trầu xanh vôi đỏ/ Anh dạo đờn em ngân bài dạ cổ/ Đêm quê nghèo thương mấy nhịp song loan…” (Về nghe em) Nhà phê bình Khang Quốc Ngọc Có lắm lúc, thơ Huỳnh Văn Út như là những khúc nghỉ tạm thời để lấy hơi mà vô câu cổ cho mùi thiệt mùi. Bởi thế, kí ức cứ mãi lung linh và trong veo veo: “Ta lại về qua một dòng sông/ Chợt nghe tiếng thì thầm em gần quá!/ Xóm rẫy nghèo, trên chiếc xe đạp vá/ Theo ta cùng mây trắng, với trời xanh…” (Có một dòng sông) Ở đó, có thấy cả bóng dáng triết lí tuy là thấp thoáng nhưng cũng rất đáng yêu bởi đẫm chất giọng học trò: “Chẳng có lâu đài nào vĩnh cửu phải không em?/ Tráng lệ, nguy nga cũng chôn vùi trong đất/ Ta yêu em một tình yêu rất thật/ Lâu đài ta xây trên cát có bền đâu?/ Hai mươi năm… làm sao quên cái tên?/ Trang giấy trắng nát nhàu nét mực/ Thôi ta hỡi, xin trả nhau về đời thực!/ Có sợi dây nào cột được hư không?” (Sợi dây hư vô). Thiên nhiên trong thơ anh cũng thật trong sáng và đẫm đặc chất kí ức: “Anh đưa em về nơi cuối sông quê/ Từ phía biển sóng xanh lên bờ bãi/ Nơi ta đó… có mối tình ngây dại/ Trăng hẹn thề e ấp bờ môi…/ Bao năm rồi sông của em – tôi/ Con sóng cũ lăn tăn chưa về bến/ Anh và em vẫn đôi bờ diệu viễn/ Khắc khoải mùa trăng cũ xa xăm…/ Anh đi rồi như cá biệt tăm/ Như chim biển bay hoài không nghỉ/ Em là em, vẫn một đời mộng mị/ Vẫn nẻo về lạc lõng giữa mê say”. Lắm khi, thơ anh là những tiếng yêu xôn sao và bỏng cháy “Xuân mang anh về ấm đôi bàn tay/ Môi khát bỏng, đã chờ từ đông ấy/ Siết chặt nghe em như đôi bờ ôm bãi/ Mặc cây đước già trước biển lao xao!” Để cuối cùng hướng tới một tiếng nói tình cảm lứa đôi hạnh phúc thủy chung bền đẹp: “Sông thì thầm với biển ngày sau/ Xin biển đừng mang sóng đi xa nữa/ Cùng sông hát lời tự tình thắp lửa/ Để nghìn đời ôm bờ bãi… yêu đương.” (Có một dòng sông) Gần đây, Huỳnh Văn Út cố ý mượn “Thiền” để giãi bày tâm cảm và sự trải nghiệm của mình. Do thế, ý thơ anh vụt sáng lên trong thi ảnh, lấp lánh tình người “Đôi khi gặp kẻ lầm đường/ Ta cầu giác ngộ vô thường… quy y”. Lúc ấy, thơ anh ngả vào “thiền” để giải thích và mong cầu: “Không có thiên đàng kiếp sau/ Cũng nên gieo hạt xanh màu yêu thương…/ An nhiên, duyên khởi… từ bi/ Không chấp ngã, sống vô vi đường trần/ Tâm trong thân – Tâm nghe thân/ Quán hơi thở nhẹ, nắng xuân tràn về”. (Thiền) Nói tóm lại, thơ Huỳnh Văn Út mang hơi hướng tài tử miệt vườn Nam bộ. Ở đó có bóng dáng anh năm chú ba ôm đàn xuống xề mùi thiệt mùi và cũng buồn thiệt buồn, song hết buồn thì vác cây phảng ra đồng, mệt chút lại dựng cây phảng kế bên, ngồi quấn điếu thuốc gò rồi cao hứng mần thêm vài câu vọng cổ nên cái chất nền nã Miền Tây nặng tình sông nước nó sền sệt trong thơ anh âu cũng là chuyện dễ hiểu. Sài Gòn, 27.02.2023 KHANG QUỐC NGỌC

Thứ Sáu, 1 tháng 11, 2024

THƠ LÊ HÀO (PHÚ YÊN)

❤️Cứ thơ & tranh vẽ như thế này, là cách thể hiện sự sống! Thú vị và an lành❓ 🌿CÁ NGỪ VỀ CẢNG Người câu cá ngừ trở về trong nắng vàng rực rỡ khuân trên vai những niềm mơ căng đầy trĩu nặng mang hương vị mặn mòi biển cả mang tình thương từ người đã khuất Khát vọng đổi đời đã tạo ra những kết nối miên man qua cảng cá Phú Lạc nối tận miền nam nối ra bên ngoài nối quá khứ với tương lai bằng ngọn gió mùa thu ùa vào trong cảng Ngọn đèn biển đưa ánh sáng cho tàu anh bắt gặp đủ ấm cho từng người gian lao trên biển đủ sáng để phân định chủ quyền đủ tầm cho một chuyến hải trình về mai sau rạng rỡ. Có đèn biển năm xưa ở Vũng Rô nhấp nháy bật tín hiệu cho lịch sử Nghe Bác Thạnh kể chuyện mà mường tượng cả dáng hình mường tượng ra giọt máu năm xưa và nước mắt của những người đàn bà Hoà Xuân, Hoà Hiệp. Mường tượng các anh nằm trong sóng biển chiều hôm sóng kể chuyện vui quê mình Em là con gái Thuỷ Thần nơi Bến Tàu Không Số xua bầy cá ngừ về cho dân biển miền trung? (LH – 19/5/2024) 🌿SOI BÓNG Nắng đổ về phía thung lũng đầy gió nơi làng quê và hồ nước trong veo có áng mây u hoài lặng thầm đổ bóng Ngày nghiêng nghiêng soi đi tìm niềm cũ? bóng của rừng soi xuống nghe hương thoảng mùa sau Chao nỗi nhớ bên bờ mà chạm tiếng hò ru từ xa thẳm điệu hò mang vị trầu cay bà têm Tình quê nương náu quanh hồ ghe lưới ủ, chắt chiu mùa giáp hạt dáo dác bầy chim lưu lạc ngẩn ngơ ngày lửa khói rưng rưng bát nước chè xanh bà đặt lên bàn thờ tổ tiên, ngày ông xa mãi Tình yêu trao xuống nơi này thành tâm hồn thành hy vọng mặt hồ như chiếc gương thiêng Bà ơi … ! cõi lòng bà cho làm sao nhìn thấy bóng bà in xuống. (LH 2024) 🌺Tranh minh hoạ: Lê Hào.

Thứ Tư, 30 tháng 10, 2024

NAM TRIỀU KIẾN MỘNG _MỘT GIỌNG VĂN ĐÁNG MỪNG

NAM TRIỀU KIẾN MỘNG _ MỘT GIỌNG VĂN ĐÁNG MỪNG Tôi đọc Nam Triều Kiến Mộng của Bửu Nguyễn một mạch trong say mê cuốn hút của văn phong. Cốt truyện bí mật, bất ngờ. Võ công tuyệt đỉnh của Nam Triều Kiến Mộng là Duy Ngã Huyền Công ( Thiên Thượng Thiên Hạ Duy Ngã Độc Tôn). Võ công thắm đẩm tinh thần Phật giáo. Anh còn trẻ. Anh muốn tạo ra một dòng văn học tiểu thuyết kiếm hiệp _ dã sử Việt Nam. Chúc mừng anh một cây bút mới toanh nhưng đầy nội lực. Tin chắc anh còn đi xa với trường phái này S đ 30/10/2024

Thứ Hai, 28 tháng 10, 2024

CỐ HƯƠNG VỜI VỢI NIỀM RIÊNG _HỒ THANH NGÂN

CỐ HƯƠNG VỜI VỢI NIỀM RIÊNG Đào Đức Tuấn sinh năm 1971. Nhà thơ có giọng lạ và phong cách riêng ở Phú Yên. Đọc bài thơ cố hương trên báo văn nghệ. Một quê hương không nói thành lời Không biết với anh là Tuy An hay Phú Yên? Sống trên quê hương hay ly hương? Không cần phải nói nhớ quê hương ồn ào miệng lưỡi. Lẳng lặng ngậm ngùi niềm đau mà thấu suốt tâm can. Xa quê nhớ giọng quê, không phải ất ơ mà là ngất ngơ. Câu hát xa xôi đồng đất quê nhà. Thăm thẳm câu ngất ngơ ai hát Con đường thiên lý xa xôi. Nghìn dặm mong gặp cố tri. Nghìn dặm mong gặp đồng hương. Đường cố hương nhọc nhằn xao xác Ly hương nhọc nhằn áo cơm nhưng xao xác nhân tình. Gió đầu ngày thổi mãi thành đau Xa quê hương là niềm đau của mọi người con dân đất Việt và nhân loại ân tình. Xa quê và tù đày là bi kịch của kiếp người. Xa quê và nhớ quê đau đăm đắm. Cố hương vời vợi niềm riêng. Tuy nhiên ở góc nhìn khác, có những người ly hương trên mảnh đất mình sinh sống." Ly hương trên chính quê hương của mình"(Hùng Nguyễn) S đ 29/10/2024 Thạch Đà CỐ HƯƠNG Một quê hương không nói thành lời Thăm thẳm câu ngất ngơ ai hát Đường cố hương nhọc nhằn xao xác Gió đầu ngày thổi mãi thành đau Đào Đức Tuấn

Thứ Tư, 23 tháng 10, 2024

KHÔNG ĐỀ _ TRẦN TRƯỞNG

Nắng hanh gió rát nam Lào Hạt bụi quê hương gài vào đáy mắt Rưng rưng ngộp tim co thắc Tràn trề nhung nhớ ngập chìm tha phương o Thèm tan hạt bụi quê hương Hòa vào kỷ niệm vấn vương kiếp người

Thứ Ba, 22 tháng 10, 2024

BÌNH BÀI THƠ XIN TẠ LỖI CÙNG THẦY CỦA LÊ LÃNG DU_ HỒ THANH NGÂN

Xin cảm ơn Thầy Hồ Thanh Ngân ở Phú Yên hôm qua đã đọc bài thơ: BÀI THƠ HỌC TRÒ NHẬN LỖI VỚI THẦY của Lê Lãng Du. https://m.facebook.com/story.php?story_fbid=3532813830299911&id=100007139857003&mibextid=2JQ9oc Hôm nay 20-11 Teacher's Day mạn phép xin Thầy được đưa bài viết: XIN TẠ LỖI CÙNG THẦY lên để cho mọi người được đọc rõ những phân tích tinh tế và uyên bác của Thầy. (Mình không viết nhiều thêm mà mong các bạn đọc hết bài viết của thầy Hồ Thanh Ngân) Một lần nữa xin cảm ơn Thầy Hồ Thanh Ngân... XIN TẠ LỖI CÙNG THẦY Tình cờ vào mạng đọc bài thơ học trò nhận lỗi với thầy của nhà thơ Lê Lãng Du ĐakLăk. Lòng dâng trào cảm xúc, nhân ngày nhà giáo 20/11/2023 xin tạ lỗi cùng thầy. Con cúi đầu nhận lỗi với Thầy Bởi ngày xưa con là đứa học trò hư hỏng Trong cuộc đời đi dạy của mình, tôi nhớ đến hai đối tượng học sinh: một là học giỏi hai là quậy phá, còn học sinh bình thường theo thời gian đành lãng quên. Học sinh giỏi nhớ thầy cô ít. Học sinh hư hỏng nhớ thầy cô nhiều hơn khi ra đời. Đòn đau nhớ đời, ra đời bị quăng quật mới thấm lời thầy cô. Ngày xưa thầy cô rút gan ruột dạy bảo điều tâm huyết. Không nghe, không kinh nghiệm, không từng trải như nước chảy mây trôi, nước đổ lá khoai. Con cúi đầu nhận lỗi với Thầy Bởi ngày xưa con là đứa học trò hư hỏng Bởi thuở đó chưa biết trời cao rộng Con vô tâm nên phải để Thầy buồn Cho đến một ngày khi con lớn khôn Bị những đòn roi của đời con mới thấu hiểu Khi con phải nghiến răng dằn lòng cam chịu Mới rõ lòng Thầy thực sự yêu thương Tôi nhớ lúc tôi học đại học sư phạm Quy Nhơn. Thầy Lê Kim Chung dạy: đến môi trường mới nên im lặng năm năm. Bạn văn nghệ gọi tôi là phổi bò, Napoleon bô lô ba la. Học sinh thích thầy cô hiền. Dễ dãi với mình, thầy cô nghiêm khắc thì xalánh. Khi hiểu tình yêu của thầy cô thì đã vấp ngã trên đường đời. Những ngày được sống trong học đường Được dạy dỗ để làm người hữu ích Những bài công dân Thầy dạy con không thích Mới chính là những bài học cho con biết lẽ phải trên đời Hồi đi dạy mình coi học sinh như con mình. Mình biết gì mình dạy hết mọi lĩnh vực. Mỗi ngày đến trường là một ngày vui. Trường học thánh thiện hơn trường đời. Tình bạn đẹp nhất là tình bạn phổ thông. Xin cảm ơn quê hương, cảm ơn đất trời Cho hôm nay Thầy khỏe mạnh an lành trở lại Để con thú nhận khi con còn trẻ dại Đã lỗi lầm Thầy xa xót đánh những đòn đau Từng trải đời thì mình đã lớn.Thầy cô đã già. Biết thương cha mẹ, cha mẹ đã già. Biết thương thầy cô, thì thầy cô lớn tuổi,gần đất xa trời. Cây thước bảng trên tay Thầy gỗ màu nâu Dẫu Thầy đánh mạnh cũng không đau như cuộc đời đã đánh Khi hiên ngang làm một người trung chính Lại nhớ lời thầy hào sảng dạy dỗ chúng con Trường học thánh thiện hơn trường đời. Làm bài tập sai thì sửa chữa. Trường đời sai lầm là xong một cuộc đời. Phải như giờ con có thể còn Được nằm xuống Thầy đánh vài roi nữa Những roi này con tự mình chọn lựa Để biết là Thầy còn khỏe mạnh thật không? Thương thầy thì thầy đã già. Muộn còn hơn là không bao giờ?! Ơn Thầy rộng lớn như biển Đông Ơn Thầy như Trường Sơn ngàn núi Mong Thầy được sống lâu trăm tuổi An nhiên, hạnh phúc mãi ngày sau... Bài thơ học trò nhận lỗi với thầy của nhà thơ Lê Lãng Du chân thành tình cảm, dung dị tâm hồn, đồng cảm với nỗi niềm của nhà thơ khi nhớ về thầy giáo cũ. 19/11/2023 Thạch Đà (Hồ Thanh Ngân) Nguyên GV trường trung học phổ thông Sông Đốc BÀI THƠ HỌC TRÒ NHẬN LỖI VỚI THẦY (Kính tặng thầy Liễn TGT trường THTH Banmethuot, Darlac) Con cúi đầu nhận lỗi với Thầy Bởi ngày xưa con là đứa học trò hư hỏng hư Bởi thuở đó chưa biết trời cao rộng Con vô tâm nên phải để Thầy buồn Cho đến một ngày khi con lớn khôn Bị những đòn roi của đời con mới thấu hiểu Khi con phải nghiến răng dằn lòng cam chịu Mới rõ lòng Thầy thực sự yêu thương Những ngày được sống trong học đường Được dạy dỗ để làm người hữu ích Những bài công dân Thầy dạy con không thích Mới chính là những bài học cho con biết lẽ phải trên đời Xin cảm ơn quê hương, cảm ơn đất trời Cho hôm nay Thầy khỏe mạnh an lành trở lại Để con thú nhận khi con còn trẻ dại Đã lỗi lầm Thầy xa xót đánh những đòn đau Cây thước bảng trên tay Thầy gỗ màu nâu Dẫu Thầy đánh mạnh cũng không đau như cuộc đời đã đánh Khi hiên ngang làm một người trung chính Lại nhớ lời thầy hào sảng dạy dỗ chúng con Phải như giờ con có thể còn Được nằm xuống Thầy đánh vài roi nữa Những roi này con tự mình chọn lựa Để biết là Thầy còn khỏe mạnh thật không? Ơn Thầy rộng lớn như biển Đông Ơn Thầy như Trường Sơn ngàn núi Mong Thầy được sống lâu trăm tuổi An nhiên, hạnh phúc mãi ngày sau... LÊ LÃNG DU

Thứ Sáu, 18 tháng 10, 2024

NẰM NGHĨ VU VƠ _ HỒ THANH NGÂN

NẰM NGHĨ VU VƠ Có những mối tình học trò Kẻ ngốc đứng hoài trong thơ Có những mối tình vu vơ Lãng mạn trở thành lãng xẹt Cảm ơn tất cả các em Vui buồn trời sinh là vậy Với em người tình sau cuối Anh xin là kẻ gác đền Biết tu chính là cội Phúc Sợi tình oan nghiệt buộc chân S đ 18/10/2024

Thứ Sáu, 11 tháng 10, 2024

KHÔNG ĐÊ _ HOÀNG NGỌC ANH

Ùi thì cứ ở đi Sông Đốc vẫn màu xanh thẫm Tiếng bìm bịp có khi say đắm Một vùng quê tựa cửa nhớ về xa Lục bình cú trôi xa Ta mắt buồn ở lại Ca tài tử có khi luyến ai Chân không đủ dài ta ở lại làm hoa Ừ mỗi ngày trôi ta cứ ngỡ hôm qua Qua phà đò ngang đò dọc Mưa có về Sông Đốc

KHÔNG ĐỀ _HỒ THANH NGÂN

Ừ thôi người đi Ngáng trở dòng đời Thân bại danh liệt Mưa rơi mưa rơi Ừ thôi người về Thuận theo dòng trôi Hoan hỷ vui cười Một trời lời khen S đ 29/8/2024

Thứ Bảy, 5 tháng 10, 2024

LÊNH ĐÊNH PHẬN PHÙ SA _ HỒ THANH NGÂN

LÊNH ĐÊNH PHẬN PHÙ SA Tạm trú giấc mơ Di cư cơm áo Chao lắc mạn thuyền con chữ Cõng khát khao đến trường Một người vác ba người Miếng ăn rối nùi mắt lưới Chữ nghĩa phập phù Ở đậu lênh đênh phận phù sa Chữ nghĩa bay theo gió biển Đi rong nắng vàng bên bờ sóng Bấm chân xuống sình đi men dòng đời Tuổi thơ lang bang cơm áo gian nan Lênh đênh một kiếp người Phù sa hay là rác rưởi? S đ 24/5/2023

Thứ Hai, 23 tháng 9, 2024

THƠ HOÀNG NGỌC ANH

Tháng chín ta chọn nơi làm quê nhà Sông Đốc có dòng chảy giống sông quê nhà Cũng gió cũng hoàng hôn úp xuống Bến bãi cũng hát bài chia tay ngày ấy Đời buồn cũng cố mặt làm hoa Đời cho ta nghề hay ta chọn nghề Trăn trở mãi thành ra phi lý Phượng sân trường thành hình bao ý nghĩ Màu phấn màu chàm trộn lẫn đam mê Lạ hoắc một phương trời xa Bìm bịp chào ta buổi chiều nước lớn Gặp bữa nước ròng ta chợt nhớ mẹ cha Đờn tài tử dỗ ta về mộng mị Hồn xa quê thằng nhỏ gốc Miền Trung Súng sen đó nơi nào cũng tím Mà sao ta cứ mãi sắt se lòng Tháng chín về hồ như hồn tịnh ngộ Chiếc lá xanh nhớ sinh nhạt đời mình Ơi Phương nam có một thằng gieo chữ Chữ nghề gặp trắc trở vô duyên T.huynh23.09.2024 Cảm tác lúc ngẫu hứng

Thứ Sáu, 20 tháng 9, 2024

BÙI BÁ ĐÔNG NƯƠNG VÀO CỐ THỔ TRẦN ĐỨC TÍN

Cảm ơn Anh Khét Trần Đức Tín đã thương " nương mùa cố thổ" Bùi Bá Đông nương vào cố thổ (Đọc tập thơ Nương mùa cố thổ của Bùi Bá Đông) Từ lâu khi đọc những tác phẩm văn chương của các nhà thơ sinh ra và lớn lên ở đồng bằng sông Cửu Long, tôi luôn có cảm giác rằng tác phẩm của họ được (bị) ám tượng bởi sông. Như tập tục của người đồng bằng, họ xây nhà, sinh sống từ lúc chào đời cho đến khi lớn lên, vui buồn, khóc cười đều gắn bó với sông. Và điều đó đã được thể hiện rõ nét qua tác phẩm của họ. Đó là một cảm thức sông. Bùi Bá Đông một nhà thơ 9x, Hội viên Hội VHNT tỉnh Trà Vinh, sau nhiều năm “dan díu” với thi ca, anh cũng vừa cho ra đời tập thơ đầu tay Nương mùa cố thổ (Nxb Hội Nhà văn 8/2024). Và dĩ nhiên, tập thơ cũng mang cảm thức sông một cách ám ảnh qua 36 bài thơ được anh chắt lọc, nâng niu đưa vào thi tập này, như anh cũng hiểu rõ lòng mình: sông dài không em/ sao mắt ta chưa lần chạm/ chỉ nghe lòng/ vỗ nhịp chèo khua – Theo sông. Như bao nhiêu người tuổi trẻ tha hương lập nghiệp nơi phồn hoa phố thị, ngày đi, ba lô con chỉ mang theo ước mơ mộc mạc và khói bếp quê nhà, nhánh bần gie, khúc sông nhỏ… anh đi qua bao mùa tha hương, chật vật mưu sinh dưới cái rộn ràng thành phố lại nghe “lòng còn đói tiếng quê hương”: ở đây/ ta rong rêu chính mình/ nỗi nhớ khô trên ngọn đèn đường/ đói tiếng quê hương. Tôi thắm lắm cái buồn xa xứ ấy, khi tuổi trẻ căng tràn sức sống nhưng nghịch lý thay đôi tay lại trắng bàn tay. Có nhiều đêm thức trắng, người thơ của ta cũng tù mù như ngọn đèn vàng vọt phía cuối hẽm hun hút, lạnh lùng, cô đơn. Cái cô đơn muôn đời khó giải bày, anh chỉ nghe tương lai kêu lên rệu rã trong bốn bức tường trắng của phòng trọ lặng thinh: em đừng ru nữa/ phố chẳng còn đủ chỗ để ngồi nghe/ bông cải nào gió đưa về mây trắng/ thương nỗi buồn nghẹn lại phía hoàng hôn. – thôi đừng ru nữa. Nỗi buồn nghẹn của phía hoàng hôn, của mặt trời từng lựng đỏ ấy đến khi xế chiều tắt nắng vẫn nghẹn ngào không tỏa sáng nổi một vùng trời, đó không gì khác hơn là lý tưởng tuổi trẻ, là ái ân cũ càng, là suy tưởng tuổi đôi mươi mạnh mẽ nhưng cũng đôi lần yếu đuối với chính mình. Mỗi bận buồn, nhà thơ trẻ đã trôi theo cảm thức sông, thả mình theo sông như một quán tính đồng bằng một cách vô thức. Anh khánh tận kiệt cùng với thực tại nên di trú giấc mơ mình để nuôi những điều ấp ủ: đêm qua/ có giấc mơ vừa mọc rễ/ xuyên qua căn phòng chật chội// gọi nhau về/ bằng dấu những đôi tay. – di trú giấc mơ. Trong nguồn cơn của hơi thở, anh biết mình thuộc về sông, về ruộng đồng, bờ bãi, về quê hương “trong giấc mơ neo cạn/ khói đồng bằng cay mắt phố chưa quen”. Bùi Bá Đông trở lại với quê bằng nhiều cách, qua thơ, tôi thấy anh đã bày từng giấc mộng quê của mình ra căn trọ nhỏ, anh đặt lại tên cho những chuyến phà qua sông, lặng lòng đứng ngắm chiều vàng rượi buồn khi sông quê mình khô cạn, anh thổn thức, anh bất lực, anh gào lên trong thơ từng mạch tình đứt quãng như nhánh sông trơ đáy mùa hạn: sông đã chết/ còn đâu, sông đã chết/ bỏ cong thuyền úp mặt đợi tàn hơi/ cơn gió lạnh ngang qua vùng đất lạnh/ ta thấy người/ tay níu cuộc chia ly – mót cạn dòng trôi. Với tác phẩm văn học, ngoài những phương diện nghệ thuật ra, vấn đề văn học nghệ thuật có chuyển tải được nội dung, thực tế của cuộc sống không luôn là vấn đề luôn được quan tâm. Và tập thơ Nương mùa cố thổ của Bùi Bá Đông đã lồng ghép được vấn đề đó vào thơ, dầu ít nhiều. Tôi cho rằng đây là điều đáng trân trọng ở người viết trẻ như Bá Đông. Ngoài ra, những câu thơ của Bá Đông đã gợi lên nhiều điều suy tưởng cho người đọc, cái kết của bài thơ không nằm ở dấu chấm. Thơ Bá Đông khi gấp lại vẫn còn những ý man mác buồn, những tứ cứ lưu lạc trong lòng mãi mới rứt ra được, dù anh không cố tình triết lý, anh viết như thì thầm nhịp sông: và mẹ tôi chiều chiều ra bậu cửa/ dõi cánh cò trong câu hát vừa bay – nhớ cù lao. Chính những phong vị trong thơ Bùi Bá Đông trên, tôi đã thấy một Bùi Bá Đông như sông vậy, anh nuôi nấng mình bằng những luồng lạch của sông và sông đã ấp ôm anh khôn lớn. Trong văn chương đồng bằng sông Cửu Long hiện tại, Bùi Bá Đông đã tiến bước đầu tiên, thả nhánh sông đầu tiên của mình vào dòng chảy chung của văn chương nơi đây. Dẫu ít dầu nhiều, tác phẩm đầu tay không tránh khỏi những non nót, sáo rỗng trong ngôn từ và suy tưởng. Nhưng tôi tin rằng Bùi Bá Đông sẽ vững tiến hơn, và Nương mùa cố thổ là một thi phẩm đáng đọc, là một cột mốc vững vàng của anh trên con đường văn chương sắp tới. Kỳ Sơn

Thứ Hai, 16 tháng 9, 2024

TU PHẬT ĐỂ LÀM GÌ?TU PHẬT PHẢI LÀM GÌ?_ TÂM NGUYỆN

TU PHẬT ĐỄ LÀM GÌ ? TU PHẬT PHẢI LÀM GÌ ? TÂM NGUYỆN T rước 1975, một giáo viên trẻ, giỏi ngoại ngữ có quen nhiều người nước ngoài cho biết, anh có gặp một người Nhật, không biết thuộc giáo phái nào, đã qua Việt Nam, thuê nhà ở Quận 5 Chợ Lớn, mục đích là để chờ gặp Vị Giác Ngộ mà họ cho là đã tái sinh tại Việt Nam. Năm 1976 ông ta vẫn còn, nhưng sau đó thì mất liên lạc, có lẽ ông ta đã quay về Nhật. Trong vài năm đầu Giải Phóng, tôi có đọc được một tin đăng trong Báo Xuân TIN SÁNG của Ngô Công Đức (Báo Tin Sáng chỉ tồn tại có vài năm sau 75). Ở tranh cuối, sát bìa, có bài viết ngắn như sau : Có một Phái Đoàn quốc tế viếng Việt Nam, được hướng dẫn đi tham quan Thảo Cầm Viên. Khi Hướng dẫn viên giới thiệu tên khoa học của một loài hoa có tên là Vàng Anh : Saradica Indica thì đột nhiên cả Phái Đoàn quỳ sụp xuống tỏ vẻ cung kính. Hướng dẫn viên ngạc nhiên không hiểu vì sao. Hỏi ra, thì Phái Đoàn cho biết: Đó là tên của một Vị Cổ Phật mà họ đi tìm khắp thế giới nhưng không gặp. Không ngờ đến Việt Nam thì lại được nghe xuớng tên. Hoa này cũng có tên là Hoa Vô Ưu. Nhiều năm trước, tôi có một bà bạn lớn tuổi, nhân dịp đi du lịch Miền Trung theo đoàn đến một ngôi Chùa. Bà thấy trên quầy lưu niệm có Tượng Phật Chuẩn Đề là tượng bà muốn thỉnh từ lâu nhưng không gặp, nên bà rất mừng, gọi nhân viên trông coi quầy để được thỉnh Tượng. Cô này bảo bà chờ một lúc rồi đi mời Trụ Trì ra. Trụ Trì giải thích cho bà biết : Tượng này là của một vị Sư ở Tích Lan hay Miến Điện (câu chuyện nghe đã lâu nên tôi không nhớ rõ. Nhân vật chính cũng đã qua đời nên không hỏi lại được). Vị Sư này mỗi năm qua ngụ ở Chùa 6 tháng để chờ gặp người thỉnh tượng là người có liên quan đến dòng Chánh Pháp tại Việt Nam. Tượng này do chính tay Sư tạc gởi tại quầy, dặn khi nào có người muốn thỉnh thì báo lại với Sư. Thời điểm đó vị Sư tạc tượng đã về nước, nên Trụ trì yêu cầu bà ghi lại địa chỉ, số điện thoại để khi Sư quay lại sẽ báo với Sư. Nhưng sau đó một thời gian thì bà này bán nhà, dời đi, nên không biết vị Sư đó có trở qua Việt Nam hay không ? Bà cũng qua đời cách đây mấy năm. Tượng vẫn được đặt trên bàn thờ của gia đình. Hoa Ưu Đàm là loại Hoa tương truyền chỉ nở khi có Phật hay vị Chuyển Luân Thánh Vương ra đời, đồng loạt nở từ 1977. Đầu tiên là ở Hàn Quốc rồi Đài Loan, Singapore, Mỹ, Úc, Trung Quốc. Năm 2012 thì ồ ạt xuất hiện ở An Giang, Hà Nội, Hải phòng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quảng Bình, Huế, Nghệ An, Đắc Lắc, Tuy Hòa, Phú yên, Nam Định. Năm 2015 thì ở Sơn Trà, Tp Hồ Chí Minh, Cung Văn Hóa Tao Đàn Quận 1, Quận 7, Thủ Đức, Cái Bè, Tiền Giang. Năm 2017 còn xuất hiện trên dây đèn trang trí Noel của linh Mục Giuse Vũ tại Nhà Thờ Mai Khôi. Gia đình tôi trồng Thanh Long thì hoa mọc trên dây Thanh Long, trên hoa Dừa cạn trước nhà. Cách đây vài tháng thì mọc trên màn hình Máy Vi Tính…Gần đây nhất là trên cốc của Tu Sĩ Minh Tuệ. Một số nhà Khoa Học cho rằng đó chỉ là trứng của một loại côn trùng có tên là Lacewings. Nhưng người dân ở Lalaca Malaisia đã phát hiện cả hoa và trứng. Ông Lê Văn Mậu là một Thạc Sĩ Sinh học ở Tuy Hòa, Phú Yên, cũng có nghiên cứu rất kỹ và khẳng định đó là hoa chớ không phải trứng. Nhưng dù không đúng là hoa Ưu Đàm đi nữa thì sự xuất hiện đồng loạt, trước đến giờ chưa từng xảy ra, để nhiều người ngộ nhận là Hoa Ưu Đàm hẳn cũng là một điềm lành. Một số thông tin rời rạc từ nhiều nguồn, nhưng đều báo cho biết là Chánh Pháp sắp ra đời, và nhiều người tu hành ở nhiều nước đều cho rằng Chánh Pháp sẽ ra đời tại nước ta. Gần đây nhất là hiện tượng của Sư Minh Tuệ với Hạnh Đầu Đà được nhiều người tu hành trên nhiều nước cho rằng đó là Phật tái thế và nhiều phái đoàn đã đến nước ta để đảnh lễ. Tu Sĩ Minh Tuệ có phải đúng là sứ giả của Đạo Phật ? Hạnh Đầu Đà và nếp tu hành du phương, bỏ đời, bỏ cả gia đình, ngụ ở gốc cây, nghĩa địa hay nhà hoang và chỉ khất thực để sống có phải là mục đích tối hậu của người tu Phật hay không ? Chính Kinh nói gì về việc tu hành theo đúng Chánh Pháp ? Để trả lời cho câu hỏi này buộc chúng ta phải quay về điểm xuất phát của Đạo Phật, rà soát từng lý do từ cái Phát Tâm cho đến cách tu hành, Pháp Chứng Đắc của Đức Thích Ca để xác định, vì từ sau khi Phật nhập diệt khoảng 200 năm thì các Đệ Tử của Phật phân chia thành Hai Thừa, thì ĐẠI THỪA cũng như TIỂU THỪA mạnh ai nấy chia nhau đi khắp nơi để giảng pháp. Chân tu hay giả tu. Hiểu nhiều, hiểu ít, miễn là xuất phát từ Chùa chiền, đầy đủ hình tướng, là đều có thể giảng Pháp. Nhất là từ khi Y Bát được Lục Tổ dấu đi không còn Truyền nữa thì bá tánh không còn làm sao phân biệt được ai là người có nhiệm vụ nối truyền Chánh Pháp, ai là tự phát, vì ai cũng dựa vào hình ảnh của Đức Thích Ca để rao giảng, và đều cho rằng mình đang “Hoằng dương Chánh Pháp” của Đạo Phật. Từ đó đến nay đã có biết bao nhiêu đợt Tu Sĩ Xuất Gia tu hành. Nhưng không hiểu vì sao Đức Thích Ca đã Thọ Ký : “Tất cả chúng sinh là Phật sẽ thành” , mà từ mấy ngàn năm qua, ngoài những vị Phật được xưng tụng từ trước đến nay như PHẬT THÍCH CA, A DI ĐÀ, DI LẶC sao không thấy nghe ai nói đã THÀNH PHẬT ? như vậy chẳng lẽ lời Thọ Ký không linh ứng ? Các vị Phật quá khứ đã làm gì để thành Phật ? Thành Phật có phải là thành THẦN LINH để cứu độ cho bá tánh không ? Nếu chúng ta muốn Thành Phật thì phải làm gì ? Chẳng lẽ chúng ta cứ đi tu mù rồi tới đâu thì tới, vì nếu có cầu mong là Vọng động ? Như vậy không khác nào là một thách thức đối với người muốn TU PHẬT. Bỏ đời để đi tìm một thứ gì đó mà không biết cách để tìm. Không nhận diện được mà cũng không biết sẽ gặp được hay không ? Muốn theo một Tôn Giáo nào đó, nhất là muốn xuất gia tu hành thì điều chúng ta cần biết là chủ trương của Tôn Giáo đó là gì ? Kết quả là gì ? Chúng ta vẫn ngưỡng mộ sự Chứng Đắc của Đức Thích Ca, nhưng sự Chứng Đắc hay Thành Phật của Ngài mang ý nghĩa gì ? Ngài đã làm thế nào để Chứng đắc ? Những gì Ngài truyền có giá trị thế nào đối với con người, với cuộc đời ? Người hành trì theo sẽ được những gì ? Có xứng đáng với công sức bỏ ra không ? Vậy thì PHẬT LÀ GÌ ? TU PHẬT ĐỂ LÀM GÌ ? TU PHẬT PHẢI LÀM GÌ ? Tôi tin là bất cứ ai, nếu muốn đi cho đến đích của Đạo Phật đều phải tìm cho ra câu trả lời cho bản thân trước khi dấn thân vào con đường tu hành, nếu không muốn đi mà không bao giờ đến. Đó là điều không thể chấp nhận được với con người ở thời đại văn minh, khoa học, mọi thứ đều lý giải được này. Có lẽ tốt nhất là chúng ta nên quay lại hành trình xuất gia đi tìm Đạo của Đức Thích Ca để hiểu cho rõ ràng hơn. Lịch Sử Đạo Phật có ghi lại, là trong một lần đầu tiên đi dạo ở ngoại thành, trông thấy cảnh con người bị hành hạ bởi cảnh SINH, GIÀ, BỆNH, CHẾT, làm Thái Tử Sĩ Đạt Ta động tâm. Về cung Ngài cứ suy nghĩ mãi, muốn tìm xem có cách nào đó để Thoát khỏi cảnh SINH, GIÀ, BỆNH, CHẾT đè nặng lên cái Thân của con người hay không ? Thấy rằng nếu cứ quanh quẩn trong triều với vợ, con, với việc triều chính thì không thể nào tìm ra được câu trả lời, nên trong một đêm nọ, Thái Tử cùng với một quan hầu giữ ngựa lẻn ra khỏi thành. Đi một quảng khá xa, Ngài kêu người giữ ngựa mang con ngựa trở về, để một mình rong ruổi theo những đoàn Du Tăng, mong tìm được câu trả lời cho vấn đề làm Ngài trăn trở. Sáu năm, học với Sáu vị Thầy giỏi nhất. Hành đủ cách : Từ Khổ Hạnh, khỏa thân, nhịn đói đến cơ thể suy kiệt, suýt chết.. nhưng chỉ học được một số phép Thần Thông, mà câu trả lời cũng không thấy. Cuối cùng, Ngài thấy rằng “Tinh thần không thể minh mẫn trong một thể xác yểu đuối”, nên nhận bát cháo sữa của cô gái chăn bò, rồi trải tòa cỏ, ngồi THIỀN ĐỊNH dưới cội cây Bồ Đề. Rạng sáng đêm thứ 49 thì Ngài có câu trả lời : Là tìm ra thủ phạm đã gây nên cảnh SINH, LÃO, BỆNH, TỬ cho cái Thân con người cũng như cách thức để khống chế hắn, nên xả Thiền, đứng dậy tuyên bố : “Ta lang thang trong vòng Luân Hồi, qua bao nhiêu kiếp. Tìm mãi mà không gặp KẺ LÀM NHÀ. Hỡi Kẻ Làm Nhà. Ta đã gặp được ngươi rồi. Ngươi không được Làm Nhà nữa. Bao nhiêu cột kèo của ngươi đã gảy vụn cả rồi. Rui mè của ngươi cũng tan nát cả rồi. Trí ta đã đạt đến Vô Thượng Niết Bàn. Ta đã hoàn toàn Giải Thoát”. Sau đó, Ngài đã dùng hết cuộc đời còn lại để truyền bá cách thức THOÁT KHỔ, THOÁT SINH LÃO BỆNH TỬ. Con Đường này gọi tắt là ĐẠO PHẬT. Nghĩa của ĐẠO, là Con Đường. PHẬT là Giải Thoát. Không phải Đạo Phật là Đạo dạy Thờ Phật như một số người vẫn nghĩ. Qua lời tuyên bố của Đức Thích Ca thì chúng ta đã thấy được 3 vấn đề : 1/- Lý do Thái Tử Sĩ Đạt Ta đã bỏ ngai vàng, vợ và con còn nhỏ để dấn thân đi tìm câu trả lời cho điều Ngài trăn trở, là để để tìm gặp THỦ PHẠM ĐÃ XÂY NÊN NGÔI NHÀ SINH TỬ trên Cái THÂN con người. 2/- Cách thức mà Thái Tử tìm và thành công, là 49 ngày đêm THIỀN QUÁN (VIPASSANA), sau khi áp dụng nhiều phương pháp như Khổ Hạnh, nhịn đói, lõa thể không có kết quả. 3/- Kết Quả cuối cùng gọi là Đắc Đạo, tức là Gặp Được, hay tìm ra được Thủ Phạm gây ra SINH LÃO BỆNH TỬ cũng như Cách Thức để không còn bị nó khống chế nữa, gọi là được Giải Thoát. Đó là CON ĐƯỜNG TU HÀNH, THÀNH PHẬT của Đức Thích Ca. Như vậy, nếu chúng ta muốn bắt chước thì phải có cùng suy nghĩ giống như Đức Thích Ca, và hành động giống như Phật đã làm và thành công : . a)- Phải thấy đời là KHỔ, sợ Khổ, rồi Phát tâm tu hành để Thoát Khổ. b)-Phải biết rằng Đức Thích Ca đã đắc đạo bằng cách TÌM RA THỦ PHẠM ĐÃ XÂY NGÔI NHÀ SINH TỬ VÀ PHÁ NÁT VẬT LIỆU CỦA HẮN. Vậy nếu muốn Đắc Đạo như Dức Thích Ca thì bổn phận người đi sau như chúng ta phải tìm để hiểu : Kẻ XÂY NHÀ SINH TỬ là ai ? Ở đâu ? Vật liệu của hắn là gì ? Làm cách nào để phá nát để hắn không thể xây nhà Sinh tử cho ta được nữa ? Theo Đức Thích Ca, KẺ XÂY NGÔI NHÀ SINH TỬ chính là CÁI TÂM MÊ. Vì Mê Lầm nên tưởng rằng Cái Thân Giả Tạm là Mình, nên ở trong đó rồi điều khiển Lục Căn làm những hành động sai quấy nhằm phục vụ cho Cái Thân, gọi là Tạo Nghiệp. Cũng chính vì tạo Nghiệp mà phải Luân Hồi để trả, làm thành vòng SINH TỬ LUÂN HỒI. Con người Sinh ra là để TRẢ Nghiệp đã gieo. Trong thời gian Trả Nghiệp cũ lại gieo thêm Nghiệp mới. Vì vậy, con người hết Sinh rồi Tử. Tử rồi lại Sinh, làm thành Vòng luân Hồi triền miên không dứt. Tu Phật là để chấm dứt vòng Luân Hồi. Muốn chấm dứt thì phải biết điểm khởi đầuvà biết cách để kết thúc. Theo Đức THÍCH CA, chính vì VÔ MINH nên làm thành một vòng gồm 12 Nhân Duyên kết hợp với nhau. (Do Vô Minh nên Hành, sinh Danh Sắc, Danh Sắc sinh lục Nhập. Lục Nhập sinh Xúc. Xúc sinh Thọ. Thọ sinh Ái, Ái sinh Thủ, Thủ sinh Hữu. Hữu sinh Lão Tử. Mấu chốt chính là VÔ MINH. Do không sáng suốt hay Mê Lầm nên hành động làm thành một chuỗi để ràng buộc con người vào những gì mắt thấy, tai nghe, sinh ham thích, muốn sở hữu Cái Thân và làm mọi hành vi tốt hay xấu cũng chỉ để thỏa mãn Lục Căn. Cuối cùng là Già, Bệnh và Chết. Người muốn tu theo Đạo Phật để được Giải Thoát thì phải nương theo hướng dẫn của Đạo Phật để Quán Sát, Tư Duy, biết rõ về THÂN, TÂM, PHÁP. Phân biệt Giả, Chân, để bỏ GIẢ, về CHÂN hay Kinh gọi là “Phản Vọng, Quy Chân” , ngưng tạo Nghiệp, lúc đó sẽ được Giải Thoát. Muốn Giải Thoát thì phải biết điều gì đã ràng buộc. Mọi Khổ đau, ràng buộc, Sinh Tử đểu xuất phát từ Cái THÂN. Chính vì vậy người tu Phật được dạy cho quán sát Cái Thân để thấy : Từ thời xa xưa, mọi người đều cho rằng số phận của mỗi con người được đưa vào đời, phải Sống, phải chịu bao nhiêu đau khổ vùi dập là do Thượng Đế hay một vị Thần Linh tối cao nào đó quyết định, con người chỉ có thể cúng kiến, van vái để được nương tay. Vì thế mà có nhiều Tôn Giáo. Mỗi Tôn Giáo tôn thờ vị Giáo Chủ của mình để được che chở, phù hộ, cứu độ. Cho tới khi Thái Tử Sĩ Đạt Ta bỏ ra một thời gian dài để Quán Sát, Tư Duy, cuối cùng Ngài phát hiện ra là không phải Thượng Đế hay Thần Linh áp đặt cảnh sống tốt, xấu, nghèo, giàu, đẹp, xấu, thọ, yểu cho con người, mà do chính là do con người đã tự tạo ra bằng những hành vi trong kiếp vừa qua gọi là gieo NHÂN. Mà đã gieo NHÂN thì sẽ có QUẢ trả lại. NHÂN ÁC thì QUẢ ÁC. NHÂN THIỆN thì QUẢ LÀNH. Cũng chính vì có NHÂN QUẢ nên mới có LUÂN HỒI để thể hiện sự công bằng của vạn Pháp. Không có Thần Linh hay đấng tối cao nào cầm nắm vận mạng của con người, mà do mỗi người tự tạo nên không thể cầu xin bớt rủi, thêm may, mà mỗi người tự gây NHÂN để có QUẢ, do đó, Đạo Phật còn có tên là Đạo NHÂN QUẢ vì dùng Nhân Quả để giáo hóa con người ngưng tạo Ác Nghiệp để khỏi phải bị đọa. Thế nhưng, do những pháp sư nhiều thời qua đã không tuân thủ lời Phật dặn dò là chỉ những người Thấy Tánh hay Chứng Đắc mới được quyền giảng Pháp, mà họ cứ vô tu vài năm, học một số bài Phật Pháp là cứ thế mà ra giảng Pháp. Chính những người này đã biến Phật, Bồ Tát thành Thần Linh chuyên phù hộ, độ trì cho bá tánh. Biến Phật Tử thành những người chờ mong được cứu độ, không còn Tự Độ cho bản thân theo tinh thần của Đạo Phật chân chính nữa. Chỉ riêng cái Phát Tâm thì chúng ta thấy : Đa phần Phát Tâm đi tu là vì mến mộ Đức Thích Ca hoặc muốn hy sinh cuộc đời để phụng sự Ngài, không hề biết gì về Sinh Tử cũng như muốn đi tìm cách thức để Giải Thoát hay tìmThủ Phạm đã XÂY NHÀ SINH TỬ như Đức Thích Ca. Do đó làm sao có được sự Chứng Đắc hay kết quả giống như Ngài ? PHƯƠNG TIỆN mà Đức Thích Ca đã dùng để Chứng Đắc cũng thế. Từng Pháp trong Đạo Phật đều được giải thích lý do phải Hành và kết quả hành giả sẽ đạt được. Giả sử có người cũng có mục đích là đi tìm cách để Thoát Khổ, nhưng lại không biết cách áp dụng những phương tiện thì e rằng khó mà đạt được mục đích. Đơn cử như NGỒI THIỀN. Ai cũng biết Đức Thích Ca đắc Đạo là nhờ 49 ngày đêm THIỀN ĐỊNH. Nhưng Kinh sách không có giải thích Đức Thích Ca đã làm gì trong thời gian tĩnh lặng đó. Vì thế, nhiều người cũng Ngồi THIỀN, nhưng trong lúc Ngồi thì thả hồn rong chơi các cõi, thì khác chi người vào rạp hát để xem phim ? Hoặc Ngồi Thiền mà Diệt hết ý nghĩ gọi là Diệt Tận Định thì khác gì người ngủ ngồi ? Không đi tìm CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT (ĐẠO) thì làm sao GẶP CON ĐƯỜNG đó để gọi là ĐẮC ĐẠO ? Rồi giả sử có người cũng đi tìm CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT, nhưng không có Kinh sách là bản đồ của Chư Vị giác Ngộ đi trước đã cắm sắn cột móc để đối chiếu, thì người đi sau biết mình đã đi tới đâu ? Hướng đó chính xác hay chưa ? Đâu là đích đến cuối cùng ? Việc áp dụng những Hạnh của Đạo đối với người tu cũng thế. Không phải cứ Khổ Hạnh, hành Cái Thân cho nhiều là sẽ thành Đạo, mà phải biết chính xác là Phải Làm gì ? Làm như thế nào ? Trường hợp Hành Hạnh ĐẦU ĐÀ. Dù phải Hành 13 Hạnh rất là khổ cực : “Hạnh Mặc Y Phấn tảo. Chỉ mặc 3 Y. Không có Y thứ 4. Phải đi Khất Thực đế ăn và chỉ ăn mỗi ngày 1 bữa. Phải đến từng nhà để Khất Thực, không phân biệt giàu nghèo. Hạnh ngồi ăn 1 lần. Đã đứng lên thì không được ngồi xuống ăn lại. Hạnh ăn bằng bát, không nhận bát thứ 2.Hạnh không nhận đồ ăn khi đã ăn xong. Hạnh Ở trong rừng, không ở trong làng xóm. Hạnh sống bên gốc cây, không ở trong nhà. Hạnh Ở giữa trời. Chỉ ở ngoài trời, không sống trong nhà hay dưới tán cây. Hạnh ở nghĩa địa. Hạnh nghỉ chỗ nào cũng được. Hạnh ngồi không nằm. Khi ngủ cũng trong tư thế ngồi “ . Nhưng mục đích Hạnh Đầu Đà đã được giải thích rõ, chỉ là : “Trừ bỏ phiền não, trần cấu, cốt để tôi luyện thân tâm bằng cách diệt trừ lòng Tham trước đối với ba vấn đề thiết yếu của cuộc sống hàng ngày là : Cơm nước, Áo quần và chỗ ở”. Rõ ràng Hạnh Đầu Đà có tác dụng hạn chế sự đòi hỏi của Cái THân. Những liệu cái Thân chỉ cần có 3 thứ là Cơm nước, y phục và chỗ ở ? Và nó có chính là tác nhân đòi hỏi những điều đó, hay có một động lực nào ẩn sâu bên trong ? Muốn đạt Vô Thượng Bồ Đề chỉ cần làm chừng đó là đủ hay còn phải làm thêm Hạnh nào khác ? 1/- Qua những gì đã hành trì, và lời tuyên bố khi Chứng Đắc, ta thấy Đức Thích Ca không có trở thành Thần Linh, cũng không có đắc Thần Thông hay Phép mầu, mà chỉ gặp được THỦ PHẠM ĐÃ XÂY NÊN NGÔI NHÀ SINH TỬ và phá nát dụng cụ của hắn để hắn không còn xây nhà được nữa mà thôi. 2/- Thành Phật không phải là trở thành Thần Linh. Vì thế, Phật không thể cứu độ được cho ai. ĐẠO PHẬT Ngài mở ra cũng thế. Chỉ “Độ” cho những ai muốn được Thoát Khổ bằng cách đưa ra Giáo Pháp để họ tự mình hành trì theo đó để tự Giải Thoát, gọi là TỰ ĐỘ. Như vậy, người muốn được Thoát Sinh Tử phải Phát Tâm tu hành. Nhưng không phải cứ Phát Tâm tu hành rồi bắt đầu từ đâu cũng được. Có một số căn bản mà người tu Phật nào cũng phải thực hành. Đó là VĂN-TƯ-TU, GIỚI-ĐINH-HUỆ và BÁT CHÁNH ĐẠO, tức là lúc nào cũng phải giữ đầy đủ GIỚI, đi trong BÁT CHÁNH ĐẠO, song song theo đó là VĂN, TƯ rồi mới Tu, tức là nghe Pháp hay đọc Kinh là đọc những hướng dẫn của Chư Vị Giác Ngộ đi trước, rồi tư duy để tìm ý nghĩa đúng, sau đó mới đưa vào thực hành. Sau khi NGHE PHÁP hay ĐỌC KINH gọi là VĂN thì phải Tư Duy. Tư Duy quan trọng đến nỗi Kinh ĐẠI BÁT NIẾT BÀN dạy : “Dù có người trải qua vô lượng vô số kiếp chuyên tâm thính pháp. Nhưng nếu không Tư Duy thì trọn không thể được Vô Thượng Bồ Đề”. Vậy VÔ THƯỢNG BỒ ĐỀ có nghĩa như thế nào ? BỒ ĐỀ được dịch là Tỉnh, Giác Ngộ. Đạt Vô Thượng Bồ Đề là đạt được sự Tỉnh Thức hay Giác Ngộ. Nhưng Giác Ngộ là để Biết những gì ? Đó là không phải biết trước biết sau như Thần Thông mà là Biết tất cả những gì liên quan đến CÁI THÂN và cách thức hành trì để được Giải Thoát. Kinh Lăng Nghiêm dạy : “Giải Thoát hay triền phược đồng do Sáu Căn. Được Chứng Thánh hay đọa làm phàm cũng bởi Sáu Căn chớ không có con đường nào khác” . Sáu Căn tức Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân và Ý. Từ bao đời, mọi người đều nghĩ mình chính là CÁI THÂN, và cho rằng dù lúc sống có sướng, khổ, hay làm bất cứ hành vi nào, Thiện hay Ác, thì khi Chết là kể như chấm dứt. Nhờ Đạo Phật hướng dẫn, chúng ta mới biết, cái Chết chỉ là sự kết thúc của Cái THÂN. Cái CHÂN TÁNH không có chết theo nó, và những gì mọi người đã làm trong suốt kiếp vừa qua không hề tan biến theo cái Thân, mà được lưu giữ bởi một ký ức vô hình, vô ảnh sẽ đi theo mỗi người đến một kiếp mới, gọi là Luân Hồi. Điều đó tuy không thể chứng minh, nhưng nó hiện diện trên cuộc sống mà mọi người đều có thể nhìn thấy qua sự khác biệt của từng cá nhân trong xã hội, mà chỉ có NHÂN QUẢ mới cho được lời giải thích hợp lý. Bởi tại sao có người được sinh trong giàu sang, nhung lụa. Người thì rơi vào cảnh khốn khổ. Kẻ đẹp, người xấu, kẻ thọ, người yểu, người đần độn, kẻ thông minh… không ai giống ai. Mọi người đều cho rằng “Thượng Đế công bình vô cùng” . Do đó, không thể nào có việc Thượng Đế sắp xếp để thử thách người này mà lại bất công với người khác, chỉ có thể tin rằng tất cả những sự dị biệt mà người được hưởng phúc, kẻ bị đọa đày là do kết quả của chính họ đã làm trong kiếp vừa qua mới công bằng và hợp lý, không ai có thể phản bác được. Theo đó, cái Thân mà mỗi chúng ta đang sở hữu cũng chỉ là cái THÂN NGHIỆP, ứng hiện ra đây là để TRẢ những NGHIỆP tốt hay xấu đã làm trong kiếp trước. Nếu kiếp trước làm những Thiện Nghiệp thì sẽ được Hưởng phước. Ngược lại, nếu tạo Ác Nghiệp thì sẽ bị đọa. Có THÂN là có KHỔ. Theo Phật dạy, tất cả những nỗi Khổ hay mỗi người gây tạo Nghiệp chướng là DO CHẤP CÁI THÂN NGHIỆP QUẢ, GIẢ TẠM CHO ĐÓ LÀ MÌNH. Cái Chấp này là do VÔ MINH, tức là Mê lầm hay Thiếu Sáng suốt. Chính vì cho rằng Cái THÂN TỨ ĐẠI là MÌNH nên tìm mọi cách để cung phụng cho những nhu cầu của nó. Lẽ ra, nó chỉ cần ăn đủ no, mặc đủ ấm, có mái nhà để che mưa, núp nắng là được rồi. Nhưng con người quá chiều theo sự đòi hỏi của Cái Thân rồi tìm mọi cách cung phụng cho nó đôi khi quá mức cần thiết và ngoài khả năng đến độ phải tranh giành, lừa đảo để có được những thứ yêu thích. Trong khi đó, nó không phải là THẬT MÌNH (CHÂN NGÃ). Do đó, người tu cần tìm cho được CÁI BỔN THỂ TÂM hay CHÂN TÁNH. Đó mới là CHÂN NGÃ. Tìm được cái CHÂN NGÃ rồi thì sẽ không còn CHẤP cái THÂN hư dối để tiếp tục làm nô lệ cho nó, mà lấy lại quyền làm Chủ, bắt nó phải theo ý mình, lo tu hành và không còn TẠO NGHIỆP để tiếp tục trôi lăn trong SINH TỬ LUÂN HỒI nữa. Không phải chỉ cần nghe giảng hay đọc Kinh rồi chấp nhận lý lẽ của Phật hay Kinh sách là đủ. Vì đó là kết quả Quán Sát, Tư Duy của người đi trước. Chúng ta cần phải Tư Duy để có cái hiểu cho bản thân về những điều cần hiểu, cần hành trên con đường tu hành. Tư duy là suy nghĩ, tìm hiểu, khảo sát cho kỹ trước khi bắt tay vào thực hành hay thực hiệ

Thứ Bảy, 14 tháng 9, 2024

NHỚ VỀ ĐÊM THƠ NÚI NHẠN _ LÊ HÀO

❤️Yêu một Nhà thơ đã là khó? Huống chi Nhà thơ ấy vừa mông lung, vừa tàn tạ💧 🌿NHỚ VỀ ĐÊM THƠ NÚI NHẠN Nhìn qua cửa Đà Diễn, nhìn về sông Đà Rằng tìm lại một giọng ngân từ buổi trăng rơi nghiêng nghiêng mặt sóng Âm vực tận ngày xưa ? bâng khuâng đàn bầu, đàn tranh và tiếng sáo từ mênh mông đời em vọng mãi lời em làm mái chèo để thơ anh xuôi vào ngọn suối của mùa xuân ... núi Nhạn thắp lên triệu ánh nhìn đăm đăm một đêm mơ nguyên tiêu màu rêu phong cựa mình trên những viên gạch ngàn năm tháp cổ Chợt lá vàng rơi chạm vào giọng em buông lơi xao động giọt sương lăn đằm đằm thơ anh ướt đẫm ánh đèn rưng rưng, lay lay gợn sóng sông Chùa Gặp vầng trăng trong nhau, còn bao nhiêu mùa sau nữa ? trăng soi vào cuộc đời hay cuộc đời soi vào trăng ? tình mơ mộng vì thơ hay thơ mơ mộng vì tình ? Thơ ở đây mà giọng người thì ở đâu ? người lặng lẽ qua mau về bên kia chân núi (LH 27/02/2019) 🥀Tranh minh hoạ: Lê Hào

Thứ Bảy, 7 tháng 9, 2024

TRẦN LÊ ANH TUẤN: NHÀ THƠ TỰ LÀM KHÓ MÌNH _ ĐÀO ĐỨC TUẤN

Tôi may mắn đọc thơ của nhà thơ Trần Lê Anh Tuấn ngay từ những bài đăng đầu tiên, cách đây khoảng mươi năm. Và nay, 36 tuổi, anh ra tập thơ đầu tay Phố trọ (Nhà xuất bản Hội Nhà văn, tháng 8.2024) với 27 bài. Nhà thơ Trần Lê Anh Tuấn sinh năm 1988, quê quán: Xuân Lãnh, Đồng Xuân, Phú Yên, là hội viên Hội VHNT tỉnh Phú Yên, đại biểu hội nghị Những người viết văn trẻ toàn quốc lần thứ 10 năm 2022 tại Đà Nẵng Thơ không kể dày mỏng, ngắn dài, ít nhiều. Thế nhưng khách mộ điệu cũng hơi sốt ruột khi thấy anh cứ đăng đi đăng lại cũng chỉ mấy bài đếm đầu ngón tay. Hóa ra anh cẩn trọng, nghĩ nhiều viết chắt lọc, tự làm khó mình trước hàng ngũ làm thơ ngày càng trùng điệp. Thơ Trần Lê Anh Tuấn kiệm lời. Ví như, anh thả bút thể 4 chữ: Đỏ đêm trôi mãi Dòng thuở xưa xanh Tưởng tượng chẳng thể Khép những chòng chành (Sông Ba) Một góc nhìn định vị về một nghề – người: Ông luồn sợi chỉ qua đêm Mưa bão vần vũ một thời Ông luồn sợi chỉ mỗi ngày Đường kim lầm lũi mùa đi (Người thợ may) Hầu hết trong tập đều là thơ thể tự do. Thơ của Trần Lê Anh Tuấn đứt gãy, nhảy nhịp, chất chứa, bung thả, miên man: Gió vẫn thổi trên cầu Mình lỡ nhịp ánh trăng Thị trấn trong phong thư nhỏ Anh mang theo bao nẻo mịt mù (La Hai) Góc phố nào không ủ rũ Ngôi nhà nào không chông chênh Con sóng nào không thao thức Chân trời nào không khổ đau Mà em là hải âu bay trong khí quyển anh Em hãy đến như giông tố ngoài khơi (Nơi chốn) Em kéo cao cổ áo mưa phùn Tôi cho tay vào gió bấc Những ngọn gió nhóm lửa vỉa hè Đêm rét ngọt môi xưa (Nhớ Tuy Hòa) Tôi gọi tên nhà thơ Bằng triệu ngọn sóng mất ngủ Tôi xin đặt xuống đây Một chiếc bóng cuối trời lam lũ (Mộ nhà thơ) Tập thơ “Phố trọ” của Trần Lê Anh Tuấn Với tôi, đừng hỏi tuổi nhà thơ. Tự khởi nguyên thơ đã thuộc về tuổi trẻ. Phong độ đỉnh cao của sáng tạo thơ luôn về tay tuổi trẻ, tuổi sung mãn đời người. Bởi gốc của thơ là cảm xúc, là trào dâng, là phi thường. Mà phi thường chỉ có ở tuổi trẻ. Thử điểm qua ngút ngàn thi sĩ, mấy ai tạo được thơ hay khi về già, ít nhất là so với chính họ. Lịch sử thi ca cũng ghi nhận: những tập thơ đầu tay thường là đỉnh cao sự nghiệp của các nhà thơ. ĐÀO ĐỨC TUẤN :

Thứ Sáu, 6 tháng 9, 2024

NGUYÊN CẨN SAU NGHÌN DẶM PHONG TRẦN _ TÂM NHIÊN

NGUYÊN CẨN SAU NGHÌN DẶM PHONG TRẦN Từ bao giờ đến bây giờ, dòng nhân sinh trường mộng vẫn âm thầm chảy trôi giữa đôi bờ sống chết, có không, mộng thực… Dẫu vẫn biết vô thường đang diễn bày ngay trên từng bước đi của ngày tháng với những bất an rình rập, những oan khiên nghiệt ngã, những khủng bố dã man…đang diễn ra khắp nơi mọi miền trên toàn thế giới. Tuy nhiên, tất cả mọi cuồng phong, bão tố, mọi tai ương, thảm họa khủng khiếp kia cũng không thể nào dập tắt được ngọn lửa thiêng trong trái tim người, không thể nào hủy diệt được ý chí sáng tạo của con người, nhất là của những thiền sư, nghệ sỹ, thi nhân mà trái lại, chính ở ngay trong những cơn lốc bể dâu nọ, đã khích động họ lên đường, vượt qua và vượt qua những gian nan đoạn trường, những chướng ngại, thử thách của tồn sinh khốc liệt đầy bức bách. Trong số những nghệ sỹ, thi nhân đích thực đó có Nguyên Cẩn, một nhà thơ thuần nhiên, chơn chất, đã cất lên tiếng hát vô úy, bay trên cảnh giới mịt mù cát bụi phủ nắng mưa. Giữa phong trần cuộc lữ, Nguyên Cẩn vừa đi vừa ngắm nhìn, lắng nghe và dĩ nhiên là viết, viết liên tục không ngừng. Bút lực vững chắc, bền bỉ, sâu sắc, lặng đi vào giữa lòng đời, khơi dậy niềm yêu thương, đánh thức lương tri nhân loại một cách tự nhiên, truyền cảm lạ thường. Tư tưởng thương yêu, bao dung, buông xả, phóng khoáng ấy, thể hiện qua các tác phẩm thơ văn đã xuất bản: Gởi lại đôi dòng, Bụi phấn một đời, Cuối đường mây trắng, Gánh tình qua sông, Nhìn sâu trong mắt, Viết từ buồng phổi trắng, Ngồi đợi gió sang canh, Sầu rụng thành hoa, Đối thoại với hư không, Cung trời hội cũ, Thơ Nguyên Cẩn, Cà phê không đường (2 tập) Bóng chữ trước đèn, Sân không dấy bụi và hàng trăm bài viết xã luận đã đăng trên tạp chí Văn Hóa Phật Giáo… Chào đời năm 1956 tại Sài Gòn.Tốt nghiệp Đại học Sư phạm năm 1978, đi dạy học ở Nha Trang một thời gian. Sau đó, hoàn thành Tiến sỹ Kinh tế học, giảng dạy các trường Đại học về khoa Kinh tế, Ngân hàng. Rồi lui về nghỉ ngơi, hàm dưỡng trong những trầm tư sâu xa, vắng lặng... Đặc biệt, Nguyên Cẩn chuyên tâm nghiên cứu Phật học đến độ thâm sâu, biết đem ứng dụng một cách hài hòa, sinh động vào cuộc sống hằng ngày. Tuy say mê viết nhiều thể loại tản văn, bút ký, lý luận văn học, thời sự, nhưng thi ca vẫn là điều tâm huyết, quyến rũ thi nhân dấn bước trong cô đơn lặng lẽ, như cưu mang một nỗi niềm chi ẩn mật mà đi khắp nẻo ta bà, rong ruổi mộng viễn phương: Đường đi chưa đến tận cùng Tìm nhau trong cõi mịt mùng nhân gian Đời ngân chưa trọn cung đàn Đã buông lỡ nhịp dở dang đợi người Chính vì sự dở dang chưa viên mãn ấy mà cuộc lữ rong rêu theo gót mộng phiêu lưu tận cuối đất cùng trời, giáp mặt với cõi người ta. Từ phồn hoa, phố thị đến những làng thôn, hoang dã chơi vơi: Cuối sông cuối biển cuối trời Cuối cùng của những bời bời rối răm Tình người bọt nước mù tăm Rừng U Minh vẫn trăm năm u hoài Biển xa sóng vỗ dạc dài Tuổi thơ mặn chát trong ngoài ước mơ Mơ ước muôn chiều, phiêu bồng hết mọi vùng biển rộng sông dài, rồi ngao du lên tận cao nguyên, những xứ miền núi cao, bạt ngàn rừng sâu rú thẳm, mây trắng và sương mù trùng trùng điệp điệp, vừa đi vừa lắng nghe bao nỗi đời rơi xuống, buồn bã, xót xa: Ngả lưng trên đồi nghe chim hót Chén buồn nghiêng ánh giọt chiều rơi Tìm quên trong cõi đời vô vọng Vò rượu tình cay đã cạn rồi Ngả lưng trên cao nhìn xuống thấp Người người tất bật địu ngày đi Gian nan nặng gánh vai gầy trĩu Cõng suốt trăm năm để lại gì? Thi sỹ ngậm ngùi ôm nỗi sầu thế sự lên núi như Cao Bá Quát, Tản Đà ngày xưa uống rượu tiêu sầu. Rượu tình, rượu nghĩa, rượu ngọt bùi lẫn cay đắng đều dốc cạn một lần cho tiêu tan hết những niềm đau thân phận kiếp người. Ơi một kiếp phù du, huyễn hóa chớ có gì quan trọng lắm đâu? “Trăm năm còn có gì đâu? Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì.” Phải vậy không, hỡi bậc tiền bối Nguyễn Gia Thiều? Chiều hoang vu đứng trên đồi cao, khói sương bảng lảng, nhìn xuống cõi đời bé nhỏ, lô nhô, lúc nhúc những sinh linh đang quằn quại, đấu tranh, giành giật mảnh danh vọng, chìm đắm trong đám bùn lầy, vật chất dưới kia mà thi nhân trầm tư, chạnh lòng trắc ẩn, thốt lên từng lời thơ ngụ ý như nhắc nhở chân thành: Người ơi! Hãy giữ lòng trinh bạch Cho cõi thơ thanh quý một đời Tình vẫn ngời thơm manh áo rách Máu còn thắm sạch trái tim côi Người ơi! Hãy giữ lòng ngây dại Cho ý thơ bay vút tận trời Cho nụ cười vui luôn ở lại Dẫu ngàn cay đắng đọng sau môi Người ơi! Hãy giữ lời như ngọc Tạc đá hồn thơ dẫu đoạn trường Cho kẻ tìm thơ không phải khóc Lệ buồn “vô mệnh thị văn chương” Thi nhân trải lòng ra mà tâm sự như thế, thể hiện một phong thái bao dung rộng lượng, muốn cùng chia sẻ với mọi người mọi kẻ, khắp chốn nơi nơi, nhất là với những nhà thơ, văn nghệ sỹ, những tâm hồn bẩm sinh nhạy cảm. Hãy biết tự trọng, giữ gìn sự thanh bạch, cao quý, dù có bị áp bức đọa đày, điêu linh, khổ lụy đi chăng nữa, thì cũng không bao giờ run sợ, hèn hạ làm kẻ nô lệ, bẻ cong ngòi bút, uốn lưỡi đi ca ngợi những thế lực vô minh… Hãy cứ để tự nhiên cho trái tim ngây thơ rung động, nhẹ mỉm cười theo hồn thơ bay vút lên tận thiên thanh vĩnh thúy, trên con đường thênh thang sáng tạo, hướng về Chân thiện mỹ ngay trong trái tim mình. Chính từ nhãn quan thoáng đạt, bao la đó, thi nhân dấn thân vào cuộc sống, bằng thái độ chân tình cởi mở, thở cùng không khí thi ca thuần chất, rất mực chan hòa: Người từ ánh sáng đi ra Tôi từ trong mẹ và cha đi vào Trần gian kính cẩn xin chào Trang nghiêm cười khóc lao xao mọc mời Sóng xô chuyện của một thời Nước trôi chuyện của một đời phù vân Cái thân trang trải nợ nần Chiêm bao kết tụ trắng ngần thành sương Tử sinh chỉ một con đường Uy nghi lá rụng vô thường mộng rơi Mai về nếu chẳng còn tôi Cầm như cánh nhạn bóng phơi sông dài Chơi giữa vô thường là một cuộc chơi hòa điệu với sinh tử cùng chiêm bao ảo mộng, hư huyễn phù vân. Chuyện mất hay còn như cánh nhạn qua sông. Thế thì còn chi ly kỳ, gay cấn hơn nữa, phải không? Bồng tênh trên thể điệu tùy nghi, thi sỹ bước đi phiêu nhiên giữa vạn pháp chập chùng. Rồi một hôm thư thả, bình yên ngồi lại một mình thiền định, tịch nhiên quán chiếu vạn pháp suốt từ nghìn xưa cho tới nghìn sau: Tôi ngồi tựa pháp nghe mưa Giọt sau chen giữa giọt xưa chan hòa Tôi ngồi tựa pháp xem hoa Cánh là diệu hữu nhụy là chơn không Tôi ngồi tựa pháp qua sông Đò nghiêng sóng động mà lòng thản nhiên Tôi ngồi ngắm bóng mây thiền Bến xưa trời cũ muộn phiền nước trôi Tôi ngồi một cõi rong chơi Ghế không chiều lạnh quán đời rỗng tênh Rỗng lặng, rỗng rang khi quán tưởng thấy suốt ba đời, sáu cõi, mười phương trùng trùng pháp giới Hoa Nghiêm đều nằm gọn trong một tâm niệm vi diệu, vi tế của mình đây thôi, nên triệt đế dốc hết lòng dạ ra sống mãnh liệt và mãnh liệt hơn nữa. Sống một lần Tự do đầu tiên và cuối cùng như đạo sư Krishnamurti hay sống Tâm tình hiến dâng như thi hào Tagore hoặc sống thơ mộng, hồng hào như đóa hoa sen giữa bùn lầy uế trược bụi phù sinh: Đóa sen soi lại bóng mình Giữ lòng trong giữa nhục vinh cõi trần Bùn danh lợi níu bao lần Biển tâm sóng dậy xoay vần gió sương Chân đi không lấm bụi đường Hồn thơ giũ sạch đoạn trường bước qua Thật là độc đáo, khi hồn thơ giũ sạch hết cặn bã lợi danh, thành hay bại, vinh với nhục cũng rơi lả tả dưới dặm dài gót lữ phong trần.“Chân đi không lấm bụi đường” là bước đi không dính mắc, chẳng vướng kẹt vào được và mất, khen và chê, sướng và khổ, tài với sắc, danh thơm và tiếng xấu giữa trần gian cát bụi mịt mù. Giũ sạch mọi đa đoan, đoạn trường nhân thế, bước qua vô thường, dâu bể một cách thanh thản an nhiên, tương nhượng hòa hài: Nước từ vô tận trùng lai Hóa thân ghềnh thác vẫn mài miệt tuôn Tôi từ giọt máu cỗi nguồn Nỗi đau phát sáng ánh buồn thành thơ Chính từ trong bao khổ lụy, bi thương, từng uống cạn bao dòng máu lệ tồn sinh đó mà tấm lòng thi nhân đồng cảm tiêu hóa, tiêu dung giọt lệ và nụ cười, khổ đau và hạnh phúc...để rồi rung ngân lên thành tiếng thơ tha thiết, nồng nàn. Đối với chàng, thơ là phím đàn ngoạn mục, là cung bậc xuất thần nhập diệu yêu thương, là nhiệm mầu sâu kín và nhẹ vời tương ưng, trong từng hơi thở: Bao giờ cho đến bao giờ Thơ rung lại nhé phím tơ hồn người Để thơ chẳng phải về trời Để người sống lại với đời yêu nhau Hãy yêu thương nhau đi, vì chỉ có tình thương mới đem lại hòa bình cho nhân loại. Hãy phát động một cuộc cách mạng tâm thức, một cuộc chuyển hóa tâm linh, bằng hết sức sự tinh thành, mạnh mẽ nhất. Lên đường khám phá chính mình, không phải là chạy khắp đông tây, khắp nam bắc để tìm kiếm mà ngay dưới gót chân, ngay giữa lòng sâu thẳm của chính mình đây thôi. Từ đó, phát hiện ra một phương trời bát ngát của tự tâm, tự tánh, huy hoàng tráng lệ: Bốn phương sông núi yên bề Một phương ta mở lối về Chân như Rỗng rang là cõi thái hư Là trong trắng mộng vô dư Niết bàn Niết bàn hay Chân như là những khái niệm chỉ cái bản tâm thanh tịnh, sáng suốt của mỗi người trong tất cả chúng ta, vốn sẵn có từ vô thủy đến vô chung. Chỉ cần mình tỉnh thức, trực thấy, nhận ra bây giờ ở ngay trước mắt, sống thực sự với bản tâm đó thì thong dong, thõng tay vào phố chợ ta bà, tha hồ dạo chơi tự do tự tại, qua lại, ra vào vô sự giữa muôn chiều diệu dụng Như Như. Giữa ngày tháng đi hoang, chàng thi sỹ Nguyên Cẩn bất ngờ cùng đồng thanh tương ứng với thi hào Vương Duy, trên nhịp bước trở về cửa Phật, cửa Không lồng lộng thâm trầm: “Ở đời bao chuyện thương tâm Không về cửa Phật biết làm sao khuây?” Thật vậy, đã từng thấy nghe, chứng kiến biết bao nhiêu chuyện đời thống khổ thương tâm. Trầm tư khắc khoải, quay quắt đủ thứ quằn quại ưu phiền, nhiêu khê, tế toái, rồi hốt nhiên, chàng liền chuyển hóa, tạo một bước nhảy trọng đại quay về. Trở về quê xứ nội tâm, phấn chấn, rộn rã quy hồi cố quận, trên tinh thần trân trọng từng giây phút tân kỳ mới lạ. Thưởng thức được hương vị tâm thiền uyên mặc, phảng phất tận đáy lòng sâu xa và hòa chan vào với thực tại đang là: Đã đi mòn một khoảng trời Đường mây cánh mỏi mà đời chửa yên Đêm đêm lắng đọng ưu phiền Chắt chiu một giọt hương thiền tĩnh tâm Nhân gian quay quắt bụi lầm Bão từ mê vọng mạch ngầm sóng xô Mai này trùng ngộ hư vô? Thì xin trân trọng phút giờ hiện sinh Hiện sinh, hiện tại, hiện hữu là sống trọn vẹn với thực tại hiện tiền. Tuyệt nhiên không hối tiếc những gì đã qua trong dĩ vãng, quá khứ, chẳng mơ màng, mong ước, vọng cầu chi tới tương lai, mai mốt xa xôi. Giống như thi sỹ Thụy Điển Tomas Transtromer vừa được giải Nobel văn chương năm 2011 tâm sự: “Gần đây, những suy niệm về tôn giáo nảy sinh trong tôi lúc này lúc khác, khiến tôi nhận ra ý nghĩa có mặt trong phút giây hiện tại, trong việc nương vào thực tại, cảm nghiệm nó và sáng tạo nên một điều gì đấy về nó…” Nhà thơ Nguyên Cẩn cũng vậy, cũng thể điệu chịu chơi, nhập cuộc rốt ráo vào hiện sinh, vào cái bây giờ và ở đây, ngay trong từng một niệm tưởng sát na: Niệm tôi một niệm thở ra Buồn xưa như khói thoảng qua mặt hồ Niệm tôi bất tận nam mô Phật từ tâm hiện mây mờ vụt tan Nụ cười sau những tân toan Trời giông bão tạnh sóng tràn ý thơ Niệm tôi thuyền tách bến mờ Nghiệp duyên giũ sạch sang bờ ngoái trông Niệm tôi vô xứ vô tông Quê là huyễn hữu không không là nhà Niệm tôi một niệm vào ra Quán trăm năm một sát na ra vào Một khi khám phá ra quê nhà chính là Tâm Không, Tánh Không, biết mình “không từ đâu đến cũng chẳng đi về đâu” thì an trú vào ngay cái đang là, cái bây giờ và ở đây. Thế là thi nhân đã thấy ra giữa ngút ngàn sương khói, lãng đãng phù vân, chính tâm mình là Phật, chính lòng mình là đạo nên không còn thắc mắc, tự hỏi đạo là gì, tâm là chi như thuở nọ, ngày xưa nữa. Một khi những trăn trở, trằn trọc buông xuống nhẹ nhàng, vắng lặng mọi hướng ngoại tầm cầu thì tự nhiên hiển lộ cố xứ Như Lai, ngay trong lòng thanh tịnh của chính mình, thi nhân liền vội quỳ xuống dưới chân Đức Phật giữa đêm giao thừa linh diệu siêu nhiên: Con khấu đầu xin thôi ước nguyện Khi hiểu mai về một cõi Không Bừng lên một sát na vô niệm Con thấy Như Lai hiện giữa lòng Ơi chao! Gặp Thế Tôn trong tâm hồn mình rồi, thấy Đức Phật đưa cành hoa lên và nhà thơ mỉm cười, niêm hoa vi tiếu, chợt “bừng lên một sát na vô niệm” phi thường như thế, quả thật là một niềm vui cực kỳ hy hữu, tưởng chừng như nhập vào cảnh giới đương xứ tức chân. Vô niệm là một pháp môn độc đáo của Lục Tổ Huệ Năng, như Lục Tổ từng phát biểu: “Nếu thấy hết thảy pháp mà tâm không ô nhiễm cũng không vướng mắc, ấy gọi là Vô niệm. Hoạt dụng hết thảy chỗ mà chẳng mắc vướng chỗ nào, chỉ cần thanh tịnh bản tâm để cho sáu thức ra vào sáu căn, đối với sáu trần không nhiễm, không dính, đến đi tự do, ứng dụng vô ngại, tức là Bát Nhã tam muội, tự tại giải thoát, gọi là hạnh Vô niệm.” Như vậy, vô niệm cũng là vô tâm, vô sự, vô vi. Thi nhân dù chỉ mới bừng thấy một thoáng thôi cũng đủ sức mạnh tinh thần vô úy, không hề sợ bị vướng nhiễm, chìm đắm trong vô minh, ngũ dục, nên vẫn tiếp tục thung dung giữa phù hoa phố bụi. Cúi lạy dâu biển vô thường, tri ân đất trời cùng với sinh tử trầm thăng, bằng cách trì tụng thần chú Đại bi trong âm thầm miên mật: Tình thâm nghĩa trọng ân cần Biển dâu lạy tạ một lần ra đi Mai về tụng khúc Đại bi Nửa đêm hoa rụng tức thì khai tâm Khai tâm là một trạng thái mở bừng mắt tuệ giác rực ngời tỏ sáng. Thấy tất cả mọi hiện tượng của toàn thể vũ trụ, nhân sinh đều từ tự tánh Không biểu hiện mà ra cả, chứ chẳng có thực chất riêng biệt gì. Đi vào mọi cảnh giới trần gian muôn màu muôn vẻ mà vẫn vô quái ngại, không dính mắc, chẳng bị ràng buộc vào đâu hết, không bị trói cột vào bất cứ sự việc gì gì giữa chốn trần ai. Phải chăng, trên muôn chiều phiêu lãng giữa nghìn trùng bạt mạng, lênh đênh trong đêm dài sinh tử, qua những trầm tư, kiếm tìm đến tuyệt lộ, hụt hẫng, chới với...rồi bất thần bùng vỡ, vất bỏ, buông xuống, trút hết mọi vọng tưởng mê lầm, quét sạch cuồng si, ám chướng quỷ ma và ngồi lại tịch nhiên lặng lẽ. Lắng nghe từng điệu thở nhẹ nhõm vô tư, tự nhiên quên hết nỗi sầu vạn đại, quên luôn cái ngã chấp âm thầm, quên ta, quên người, quên đời, quên đạo, quên ngộ, quên mê...thì kỳ diệu thay, bất ngờ chợt thấy rộ bừng ra một đóa hoa sen, một nụ hoa lòng Mạn đà la ngào ngạt, ngát hương đời long lanh, lấp lánh tuyệt vời: Tôi ngồi bờ bãi lênh đênh Hồn thơ nặng nghiệp nghe kinh lại về Tôi ngồi tựa pháp tìm quê Đã lâu lầm lạc lối mê man tình Tôi ngồi quên bóng quên hình Quên kinh quên kệ quên mình quên ta Tôi ngồi sầu rụng thành Hoa Tịnh liên chớm nở Mạn đà la rơi Thế là trên cuộc lữ phong trần, nhà thơ Nguyên Cẩn, bằng sự chí thành chân thiết đã chuyển hóa những khối sầu vạn cổ, những ngậm ngùi thế sự, bèo bọt mong manh thành một đóa sen lòng thanh thoát ngát hương. Hương vị thi ca lồng lộng giữa ngày tháng tang bồng, giống như Thiền sư Nhất Hạnh cũng thường hay nói hoài như một điệp khúc, khắp đó cùng đây: “Hãy ví khổ đau như là rác rưởi và hạnh phúc như những đóa hoa tươi. Khi chúng ta biết chuyển hóa đau khổ thành phúc hạnh là chúng ta biết cách biến rác rưởi trở thành hoa rồi vậy.” Thấy như thế và thực hiện được như vậy giữa cuộc đời là một việc làm hy hữu, hiếm hoi, phải không Nguyên Cẩn? Thi nhân hân hoan đi về thế giới nội tâm thâm hậu, thấu suốt xưa sau, nhẹ nhàng hát nghêu ngao những tình khúc Trịnh Công Sơn, rộn rã ngâm nga những vần thơ Bùi Giáng, Phạm Công Thiện… Nguyên Cẩn có giọng đọc thơ rất truyền cảm như mới hôm nào, tôi đã lắng lòng nghe thi sỹ đọc tại nhà Vũ Hùng ở Tân Phú, Sài Gòn. Một đêm thơ nhạc tràn lan, kéo dài đến tận 12 giờ khuya… Bữa đó, có Triều Nguyên, Nguyễn Nhứt, Lê Đình Bích, Đoàn Sỹ Toàn tham dự nữa. Giữa khuya ấy, trong cơn cao hứng, xuất thần, tôi đọc tặng Nguyên Cẩn bài thơ Vẫn một chốn về này: Cuộc lữ đó kể từ đâu chẳng biết Phương trời xa cõi tư tưởng sương nhòa Thả bay ý thức rơi ngôn ngữ Bỏ buông rồi nhẹ nhõm bước thi ca Xả chấp thật nọ này còn vướng mắc Chẳng phân bua tranh cải chỉ vâng ừ Sầu rụng thành hoa* hòa hài bước Khắp trăm miền theo thể điệu Như như Chiều phiêu lãng dừng chân bên quán Rượu tình thơ dăm ba cốc ven đường Muôn trùng vạn ngã qua chưa hết Nên chốn nào cũng về nẻo yêu thương Tâm Nhiên

BÀI MỚI ĐẮNG

Truyện ngắn: BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN _ NGUYỄN HẢI ĐĂNG

Bên cánh gà chánh điện phần 1 BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN Xe dừng lại với tiếng xột xoạt trên mặt đường, như bao chuyến xe đã ghé qua từ thuở ...