KẺ KIỆM NGÔN
-LVTG-
-LVTG-
Với Nhụy Nguyên, thơ đã đến ngay từ điểm nhìn của tâm thức. Anh quan niệm: “… là một dạng nghiệp thức, thơ cũng cần phải tu Tu để khai ngộ bản thể của linh hồn náu tạm trong những hư danh phù phiếm…”. Tư tưởng thơ đã sinh hành vi thơ với một tính cách thơ chắt lọc, tạo nên thể phận thơ tiết giản.Tính đến nay, Nhụy Nguyên đã cho ra hai tập thơ Lập thiền (2006), Khi người ta cúi mặt (2012), trong đó có đến 8 bài thơ vỏn vẹn chỉ vài ba câu. Lối thơ tiết giản của anh đã “tiết kiệm chữ” đến mức tối đa đến không thể “vắt” thêm được nữa. Nhưng đây lại là những hạt chữ mỡ màng. Những bài thơ cầu kiệm của Nhụy Nguyên đã đi vào khám phá chân lí. Nói về con người, Nhụy Nguyên ám dụ:
"…lớp động vật bậc cao nhân danh sinh tồn.
Giữa rừng người niêm phong,
tôi thành con mồi dự khuyết!"
(Thời điểm…)
Nhận diện cái bản thể đơn lẻ giữa đồng loại trong nỗi hoài nghi nguyên lí sinh tồn. Con người đã nhân danh, đúng, đúng đến độ hòa tan trong cái thuyết đấu tranh sinh tồn của Darwin. Ở đó nhu cầu sống, tồn tại đã áp đặt những quy luật xã hội “rừng người niêm phong” không hơn không kém những phẩm vật tự nhiên. Một cá thể đã bị tước đoạt dần không gian sống khi nhận ra “tôi thành con mồi dự khuyết”. Chỉ 3 câu thơ kiệm ngôn nhưng chứa đựng cả một tiểu luận về ứng xử với đồng loại qua cách diễn đạt của lớp ngôn ngữ khó thay thế.
Nói về cái chết, Nhụy Nguyên đề xướng đến một chân lí đầy mê dụ của một ảnh tượng:
"Khi ta chết
sẽ chẳng có nơi chôn
Cứ treo ngược giữa trời
làm quả cân vũ trụ"
(Bản di chúc của trái đất)
Có thể chúng ta sẽ mường tượng đến nghi lễ thiên táng của loài người trong sự đánh lạc hướng của “treo ngược giữa trời”. Nhưng không, chân lí diệu không mới chính là cái lẽ cuối cùng. Con người là một tiểu vũ trụ đã được thừa nhận, sẽ không mất đi cái bản thể thiêng liêng của luân hồi, mãi tồn lưu “làm quả cân vũ trụ”. Hình ảnh siêu thực đến độ người đọc có cảm tưởng mình đang đứng trên không để quán chiếu một cảm thức kiểu Dali. Ngôn ngữ thơ điêu luyện thật sự khi chính nó ám ảnh sự thưởng thức của chúng ta, ám ảnh bằng hình tượng phúng dụ không thể suy đoạt theo sự phiếm diễn cất toát từ tâm thức (ở một góc độ của Tu, dường như đang náu trú vào cõi tĩnh lặng)."…lớp động vật bậc cao nhân danh sinh tồn.
Giữa rừng người niêm phong,
tôi thành con mồi dự khuyết!"
(Thời điểm…)
Nhận diện cái bản thể đơn lẻ giữa đồng loại trong nỗi hoài nghi nguyên lí sinh tồn. Con người đã nhân danh, đúng, đúng đến độ hòa tan trong cái thuyết đấu tranh sinh tồn của Darwin. Ở đó nhu cầu sống, tồn tại đã áp đặt những quy luật xã hội “rừng người niêm phong” không hơn không kém những phẩm vật tự nhiên. Một cá thể đã bị tước đoạt dần không gian sống khi nhận ra “tôi thành con mồi dự khuyết”. Chỉ 3 câu thơ kiệm ngôn nhưng chứa đựng cả một tiểu luận về ứng xử với đồng loại qua cách diễn đạt của lớp ngôn ngữ khó thay thế.
Nói về cái chết, Nhụy Nguyên đề xướng đến một chân lí đầy mê dụ của một ảnh tượng:
"Khi ta chết
sẽ chẳng có nơi chôn
Cứ treo ngược giữa trời
làm quả cân vũ trụ"
(Bản di chúc của trái đất)
Phần nhiều, Nhụy Nguyên đã dành những câu thơ ám ảnh nhất, trang trọng nhất và cô đặc nhất cho thể thơ lục bát. Quan hệ giữa thơ và nhà thơ được thể nghiệm biện chứng:
"Một ngày xác chữ lên ngôi
Huyệt thơ rỗng suốt cuộc đời thi nhân"
(Huyệt thơ)
Dùng những ngôn từ của sự chết xác - huyệt để đưa ra thông điệp mở cõi thơ là một hành vi "đốn ngộ thơ". Nhụy Nguyên đã phát hiện ra cái nguyên lí của xác chữ vốn được không ít nhà thơ quá coi trọng để rồi đánh mất bằng sự “rỗng suốt”. Khơi mở và thấu tỏ là những gì anh muốn gửi gắm qua cặp lục bát “điêu gọt” rất dễ bị hiểu lầm trên.
Cái sự chết ấy tiếp tục được trải hoạt một cách thao thức, không còn ở cõi thơ nữa mà ở chính cõi của cái nghĩa từ được khởi nguyên:
"Đội mồ che những hồn oan
Mái hiên đời dột lệ tràn âm ty"
(!)
Viết về cõi chết ở đúng nghĩa của nó mồ - hồn oan - âm ty, người đọc có cảm giác mình đang chạm vào huyệt tâm linh. Huyễn cảnh đau đáu giữa nhân gian và địa ngục. Đang ẩn chứa một chân lí hay đang đồng cảm, đang mường tượng hay đang soi dõi...? Bài thơ đã ám ảnh! Ngay chính lúc này đây, khi chúng ta còn giữ chỗ ngồi của mình ở dương thế, biết rằng nó hữu hạn, nhưng có ai đã chuẩn bị cho sự chết với thái độ chủ đích chưa. Cảm thương đối với “hồn oan” chiếu “lệ tràn” và “mồ” sánh với “hiên đời” cũng chẳng cách xa nhau. Bể khổ đang hiện tồn đấy thôi. Cũng chỉ một cặp lục bát vỏn vẹn 14 chữ, không quá thừa mà chẳng quá thiếu. Lại bắt gặp một cảnh giới huyễn ảo, tiết lộ sự thực khó để thừa nhận của diễn ngôn thơ.
Ở bài Chiêu hồn, người thơ đã trầm mình vào không gian chấp chứa sự chết khác - sự chết của nghệ thuật với cái nhìn:
"Tôi ngồi đối bóng cô đơn
thơ nương vào những linh hồn mọc lên"
"Tôi ngồi đánh bóng tuổi tên"
nghe thơ chết yểu trước hiên nhà mồ
(Chiêu hồn)
Thơ song hành cùng với hành động của người thơ, tạo sinh nên nghĩa. Tâm hồn đẹp, mỹ lặng thì sinh thơ hồn-xác đủ đầy. Trạng thái cô đơn nói riêng với nghệ thuật thường làm nên án tác. Gabriel Garcia Marquez đã kiến thiết nên tuyệt tác “Trăm năm cô đơn” từ chính nỗi cô đơn của loài người. Cô đơn không bao giờ mất đi khi ta còn cảm giác mình đang là người, sống mỏi mòn giữa rừng niêm phong ấy. Nhụy Nguyên lí giải “thơ nương vào những linh hồn mọc lên”, đưa ra nguyên nhân của sự tạo dựng nghệ thuật. Mà rằng danh vị cũng chỉ là hư vô khi “đánh bóng tuổi tên”, rốt là “thơ chết yểu”. Xin đừng mặc cả, xin đừng cắm đầu, xin đừng chôn vùi… nghệ thuật đã được chiêu hồn qua những dòng thơ trên!
Nhụy Nguyên tiếp tục lạm bàn về thơ và dành sự ưu ái ấy cho thi thánh lục bát Nguyễn Du - truyện Kiều qua bài Danh Nguyễn:
"Bây giờ cụ đã xanh mồ
Lấy đâu tầm thước đặng so nguyệt tà
Tôi vày tám chữ thành ma
Trùng tang câu sáu dư ra… phận Kiều"
Mở đầu bằng sự thật hiển nhiên của thời đoạn Tố Như “cụ đã xanh mồ”. Rồi đem cái mở đầu tưởng chừng hợp lí ấy để so “lấy đâu tầm thước đặng so nguyệt tà”. Đó là kết luận của những kẻ làm thơ đã được minh định qua tấm gương sáng rọi muôn đời thi nhân - danh nhân ấy. Nhưng đó chưa phải là dư âm của những con chữ rơi rụng khi chúng tôi dẫn nhập vào hai câu cuối:
"Tôi vày tám chữ thành ma
Trùng tang câu sáu dư ra… phận Kiều"
Một cặp lục bát đã được mang ra “chế biến” thành một nghệ phẩm của xảo thuật ngôn ngữ. Bỏ mất câu bát “vày tám chữ thành ma”, hợp dung hai câu lục “trùng tang câu sáu” cho ra... Điều còn lại cuối cùng, hiển lộ nhân vật chính của câu chuyện làm bao thế hệ con dân đất Việt hễ rờ tay đến truyện Kiều đều thản thốt “Phận Kiều” - hai con chữ hoài hoải mấy trăm năm vọng cảm. Hiển nhiên đấy là một cuộc đố-câu-chơi-chữ thơ lạ lẫm. Ai ăn được món ngon ý tưởng này sẽ có một cảm giác rất lạ về thơ, rằng không chỉ dừng lại ở sự hiểu, thơ vốn dĩ lặng yên như một mặt hồ không gió, việc của anh là hãy thổi một chút hồn vào nó để gợi lên những con sóng dạt dào của nguồn điệu và tri nhận bằng giác quan “không thể hình dung nổi”. Thơ chỉ vậy.
Ở góc nhìn khác, sống ở Huế, lớp trầm tích của vùng đất văn hóa này đã đọng lại ít nhiều trong thơ Nhụy Nguyên với những cảm diện của đền đài phế tích tồn lưu:
"Bao son phấn Tử Cấm Thành
hòa màu trinh nữ sơn mành Vương phi"
(Cung oán ngâm)
Đây là một bài thơ: 2 câu, 14 chữ. Không diễn dông dài, không câu nệ hình khối ngôn ngữ nhưng đủ để gọi là một bài thơ. Giọng thơ đau hoải bởi một sự tê cảm (không phải là thương cảm) bởi cái tứ thơ “màu đỏ thê lương” bao son phấn - hòa màu trinh nữ. Để làm gì hả quá khứ chết liệt đã lặn sau Tử Cấm Thành, nơi chôn vùi bao mảnh đời muốn nở ráo riết để một lần nhuộm đỏ cái danh phấn Vương phi. Ta có cảm giác đang đọc những phức cảm oán ngâm của quá khứ (như nó vốn có) chứ không phải là lời của nhà thơ. Trên một góc hiểu khác, đó hẳn là một dạng tàng thức của một không gian văn hóa còn chưa tẩy mờ.
Phía khác, Nhụy Nguyên đã lục tìm chính bản thể khác của thơ, vùng miên viễn trong bóng tối được phơi bày:
"đêm nằm nghe tiếng Vạc rơi
mảnh sắc như lệ em thời dở dang
tôi rời giấc ngủ đi hoang
giẫm phải tiếng vỡ máu loang đường về"
(Dưới vòm đêm)
Bóng tối đã dẫn dụ lời thơ minh giám cho nó. Bóng tối không bao giờ mù mịt, bóng tối là đường về của ánh sáng. Nhận diện một trục cấu tứ xuyên thủng qua bốn câu thơ ngắn tiếng Vạc rơi - mảnh sắc - đi hoang - máu loang đủ cả bộ nhân quả - so sánh - hoán dụ… Chỉ một câu “mảnh sắc như lệ” đã hướng đến một hình tượng đồng hóa tất cả âm thanh (tiếng Vạc), hình ảnh (mảnh) và cả chất (lệ) vào một khối. Thơ đã thiết đặt một khối lượng riêng duy mĩ nhất của những phạm trù không cùng nội hàm. Hai câu cuối gieo vần một cách tự nhiên như điều chuẩn định hoang-loang, một cặp vần dễ tạo của tiếng Việt nhưng dùng đúng chỗ như Dưới vòm đêm không hẳn là nhiều.
Đọc thơ thường đi từ tiến trình theo các tầng giác độ cảm nhận - thừa nhận - tri nhận. Thơ Nhụy Nguyên kiến thiết trên những nền tảng của các thức, ngộ mang màu sắc nhân sinh quan Phật giáo. Người thơ đã cố khai mở những chân giá trị tàng ẩn vốn dĩ rất thăm thẳm trong chính cái bản ngã của con người, trong lẽ vi diệu của Sắc - Không. Một nhà thơ chỉ cần góp mặt một vài câu thơ (người đời nhớ) đã là một sự cống hiến lớn cho văn học. Những vần thơ tiết giản trên được xay-giã-dần-sàng để cho ra những hạt thơ lấp lánh. Thơ của Nhụy Nguyên đã Tu để được Khai Ngộ như khái niệm anh đề lập.
nghe thơ chết yểu trước hiên nhà mồ
(Chiêu hồn)
Thơ song hành cùng với hành động của người thơ, tạo sinh nên nghĩa. Tâm hồn đẹp, mỹ lặng thì sinh thơ hồn-xác đủ đầy. Trạng thái cô đơn nói riêng với nghệ thuật thường làm nên án tác. Gabriel Garcia Marquez đã kiến thiết nên tuyệt tác “Trăm năm cô đơn” từ chính nỗi cô đơn của loài người. Cô đơn không bao giờ mất đi khi ta còn cảm giác mình đang là người, sống mỏi mòn giữa rừng niêm phong ấy. Nhụy Nguyên lí giải “thơ nương vào những linh hồn mọc lên”, đưa ra nguyên nhân của sự tạo dựng nghệ thuật. Mà rằng danh vị cũng chỉ là hư vô khi “đánh bóng tuổi tên”, rốt là “thơ chết yểu”. Xin đừng mặc cả, xin đừng cắm đầu, xin đừng chôn vùi… nghệ thuật đã được chiêu hồn qua những dòng thơ trên!
Nhụy Nguyên tiếp tục lạm bàn về thơ và dành sự ưu ái ấy cho thi thánh lục bát Nguyễn Du - truyện Kiều qua bài Danh Nguyễn:
"Bây giờ cụ đã xanh mồ
Lấy đâu tầm thước đặng so nguyệt tà
Tôi vày tám chữ thành ma
Trùng tang câu sáu dư ra… phận Kiều"
Mở đầu bằng sự thật hiển nhiên của thời đoạn Tố Như “cụ đã xanh mồ”. Rồi đem cái mở đầu tưởng chừng hợp lí ấy để so “lấy đâu tầm thước đặng so nguyệt tà”. Đó là kết luận của những kẻ làm thơ đã được minh định qua tấm gương sáng rọi muôn đời thi nhân - danh nhân ấy. Nhưng đó chưa phải là dư âm của những con chữ rơi rụng khi chúng tôi dẫn nhập vào hai câu cuối:
"Tôi vày tám chữ thành ma
Trùng tang câu sáu dư ra… phận Kiều"
Một cặp lục bát đã được mang ra “chế biến” thành một nghệ phẩm của xảo thuật ngôn ngữ. Bỏ mất câu bát “vày tám chữ thành ma”, hợp dung hai câu lục “trùng tang câu sáu” cho ra... Điều còn lại cuối cùng, hiển lộ nhân vật chính của câu chuyện làm bao thế hệ con dân đất Việt hễ rờ tay đến truyện Kiều đều thản thốt “Phận Kiều” - hai con chữ hoài hoải mấy trăm năm vọng cảm. Hiển nhiên đấy là một cuộc đố-câu-chơi-chữ thơ lạ lẫm. Ai ăn được món ngon ý tưởng này sẽ có một cảm giác rất lạ về thơ, rằng không chỉ dừng lại ở sự hiểu, thơ vốn dĩ lặng yên như một mặt hồ không gió, việc của anh là hãy thổi một chút hồn vào nó để gợi lên những con sóng dạt dào của nguồn điệu và tri nhận bằng giác quan “không thể hình dung nổi”. Thơ chỉ vậy.
Ở góc nhìn khác, sống ở Huế, lớp trầm tích của vùng đất văn hóa này đã đọng lại ít nhiều trong thơ Nhụy Nguyên với những cảm diện của đền đài phế tích tồn lưu:
"Bao son phấn Tử Cấm Thành
hòa màu trinh nữ sơn mành Vương phi"
(Cung oán ngâm)
Đây là một bài thơ: 2 câu, 14 chữ. Không diễn dông dài, không câu nệ hình khối ngôn ngữ nhưng đủ để gọi là một bài thơ. Giọng thơ đau hoải bởi một sự tê cảm (không phải là thương cảm) bởi cái tứ thơ “màu đỏ thê lương” bao son phấn - hòa màu trinh nữ. Để làm gì hả quá khứ chết liệt đã lặn sau Tử Cấm Thành, nơi chôn vùi bao mảnh đời muốn nở ráo riết để một lần nhuộm đỏ cái danh phấn Vương phi. Ta có cảm giác đang đọc những phức cảm oán ngâm của quá khứ (như nó vốn có) chứ không phải là lời của nhà thơ. Trên một góc hiểu khác, đó hẳn là một dạng tàng thức của một không gian văn hóa còn chưa tẩy mờ.
Phía khác, Nhụy Nguyên đã lục tìm chính bản thể khác của thơ, vùng miên viễn trong bóng tối được phơi bày:
"đêm nằm nghe tiếng Vạc rơi
mảnh sắc như lệ em thời dở dang
tôi rời giấc ngủ đi hoang
giẫm phải tiếng vỡ máu loang đường về"
(Dưới vòm đêm)
Bóng tối đã dẫn dụ lời thơ minh giám cho nó. Bóng tối không bao giờ mù mịt, bóng tối là đường về của ánh sáng. Nhận diện một trục cấu tứ xuyên thủng qua bốn câu thơ ngắn tiếng Vạc rơi - mảnh sắc - đi hoang - máu loang đủ cả bộ nhân quả - so sánh - hoán dụ… Chỉ một câu “mảnh sắc như lệ” đã hướng đến một hình tượng đồng hóa tất cả âm thanh (tiếng Vạc), hình ảnh (mảnh) và cả chất (lệ) vào một khối. Thơ đã thiết đặt một khối lượng riêng duy mĩ nhất của những phạm trù không cùng nội hàm. Hai câu cuối gieo vần một cách tự nhiên như điều chuẩn định hoang-loang, một cặp vần dễ tạo của tiếng Việt nhưng dùng đúng chỗ như Dưới vòm đêm không hẳn là nhiều.
Đọc thơ thường đi từ tiến trình theo các tầng giác độ cảm nhận - thừa nhận - tri nhận. Thơ Nhụy Nguyên kiến thiết trên những nền tảng của các thức, ngộ mang màu sắc nhân sinh quan Phật giáo. Người thơ đã cố khai mở những chân giá trị tàng ẩn vốn dĩ rất thăm thẳm trong chính cái bản ngã của con người, trong lẽ vi diệu của Sắc - Không. Một nhà thơ chỉ cần góp mặt một vài câu thơ (người đời nhớ) đã là một sự cống hiến lớn cho văn học. Những vần thơ tiết giản trên được xay-giã-dần-sàng để cho ra những hạt thơ lấp lánh. Thơ của Nhụy Nguyên đã Tu để được Khai Ngộ như khái niệm anh đề lập.
L. V. T. G

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét