HAY NỖI BUỒN RIÊNG MÌNH
VÀ NỖI BUỒN NHÂN THẾ
CỦA NHÀ THƠ ĐẶNG XUÂN XUYẾN?
*
Tuần trước, nhà thơ Đặng Xuân Xuyến gửi cho tôi chùm thơ về rượu của anh và bảo để tôi đọc cho vui. Nhưng vui sao được khi mà cả chùm 10 bài thơ đều thấm đẫm một nỗi buồn: Nỗi buồn riêng mình của thi nhân và nỗi buồn vì nhân tình thế thái.
Người ta thường nói “Trà tam tửu tứ", nghĩa đại chúng nhất là “Uống trà không nên quá 3 người, mới thưởng thức hết cái thú vị của nó. Còn uống rượu phải từ 4 người trở lên mới vui, mới náo nhiệt”. Nhưng trong 10 cuộc rượu của Đặng Xuân Xuyến khồng hề thấy có một cuộc rượu bốn người nào mà chỉ thấy toàn những cuộc rượu một mình nhà thơ hay những cuộc rượu có thêm một người nữa là hai. Và cả chùm 10 bài Thơ Về Rượu thì có tới quá nửa số bài là độc ẩm.
Trước hết là bài Một tôi với lời đề tặng cháu Đặng Hải. Bài thơ chỉ có 6 câu nhưng cả 6 câu đều bắt đầu bằng từ “Một”:
Một chai
Một chén
Một tôi thôi
Một đêm gió quẩn chỗ tôi ngồi
Một bàn tay lạnh quờ vai lạnh
Một tiếng thở dài tôi với tôi!
Chai rượu chỉ có một, chén rượu cũng chỉ có môt. Chai rượu có một thì không nói làm gì vì có thể không là chai bé mà là chai vừa hay chai to đong đầy rượu để uống. Nhưng chén rượu chỉ có một thì lại khác. Bởi lẽ bộ chén uống rượu thường với 4 chiếc, 8 chiếc hay 12 chiếc hoặc nhiều hơn, nhưng đều là số chẵn vì người Á Đông vốn kỵ số lẻ, không đủ đôi đủ cặp. Câu thơ “Một chén” vì người uống rượu không có ai khác ngoài “Một tôi thôi”. Độc ẩm, uống rượu một mình. Đã cô đơn như thế, bối cảnh không gian và thời gian lại là:
Một đêm gió quẩn chỗ tôi ngồi
Một đêm, một làn gió cứ mãi chuyển quanh một điểm, một phạm vi hẹp là cái chỗ tôi ngồi nhỏ bé.
Thi nhân đã cô đơn lại thêm làn gió cũng cô đơn và cái chỗ ngồi cũng lẻ loi nên không khí bao quanh lạnh lùng là không thể khác.
Vì vậy, nhà thơ muốn tìm một ai đó để uống cùng nhưng buồn thay lại chỉ là:
Một bàn tay lạnh quờ vai lạnh
Bàn tay của mình quờ tìm lên vai của mình bởi có ai đâu ngoài một chai, một chén, một mình tôi. Bàn tay lạnh và bờ vai cũng lạnh làm bật lên:
Một tiếng thở dài tôi với tôi!
Tôi với tôi, không có ai chia sẻ.
Bài thơ ngắn mà giàu cảm xúc. Ngoài lối điệp liên tiếp tiếng một ở đầu câu toàn bài thơ, tác giả còn khéo dùng các câu thơ dài dần từ 2 tiếng đến 3 tiếng trong ba câu đầu diễn tả sự cô đơn rồi chuyển sang 3 câu 7 tiếng để kết thúc bằng một hơi thở dài buồn bã. Nhà thơ không nói thêm gì ngoài 6 câu thơ nhưng người đọc đều hiểu, còn hai câu nữa, bẽ bàng, xót xa cho thân phận của mình nhưng Đặng Xuân Xuyến không viết ra bởi thi hào dân tộc Nguyễn Du đã nói hộ nàng Kiều từ 200 năm trước:
Khi tỉnh rượu lúc tàn canh,
Giật mình mình lại thương mình xót xa.
Rượu say là cuộc độc ẩm của nhà thơ dưới ánh trăng nên không lạnh lẽo lắm, vì vậy mà tinh thần có phần phấn khích:
Ừ này thì rượu. Ừ thì say
Ừ rượu tri âm ủ lâu ngày
Ta uống đêm nay cho thỏa thích
Cho trời cùng đất ngất ngưởng say.
Thế rồi say trong men tình chiu chắt, say trong rượu ngọt đào thơm và say trong lời hứa với bạn nào đấy, nhà thơ không cần đoái hoài tới chú Cuội từ nơi cung Quế xuống khẩn khoản mời lên chơi:
Ta chẳng ghé đâu. Ta ở đây
Sóng sánh mềm môi chén rượu đầy.
Thôi Cuội về đi ta chỉ muốn
Đêm nay thỏa thích ta được say.
Bài thơ là một tưởng tượng đẹp, phóng túng và táo bạo nhưng xét cho cùng cũng vì cô đơn quá nên tưởng tượng hão huyền thế thôi, giống như thi bá Tản Đà thế kỷ trước cũng vì buồn nơi trần thế nên ngẩng đầu tâm sự với chị Hằng vào một đêm thu rồi thể hiện rõ nguyện vọng của mình:
Cung quế đã ai ngồi đó chửa?
Cành đa xin chị nhắc lên chơi
Một mộng tưởng lên cung trăng bầu bạn với chị Hằng của Tản Đà hay mộng tưởng chú Cuội trên cung Quảng xuống mời mình lên chơi của Đặng Xuân Xuyến, xét cho cùng đều là muốn thoát ly cõi trần quá buồn chán.
Tiệc Rượu Trong Mơ cũng là một cuộc độc ẩm diễn tả tâm trạng muốn thoát cái “Một tôi” đơn côi bằng cách để trí tưởng tượng hiện lên một thằng bạn đối tửu trong mơ. Cuộc đối tửu đã đến hồi kết:
Dốc ngược chai
Chắt thêm vài giọt rượu
Cạn ly này
Mai mỗi đứa một nơi
Cả hai đều đã say nên cứ mày rót, tao rót, khề khà nhấp môi rồi kể lể tình cảnh ngày mai chia ly mỗi thằng mỗi ngả, mày tao đều chung kiếp không nhà nhưng rồi sẽ:
Tao xa lạ
Cõi trần đày đọa
Mày xa hoa
Tiên cảnh phiêu bồng...
Và họ cứ cạn nhé, cạn nhé chưa biết cuộc rượu tàn khi nào. Bài thơ tưởng như mình đã có bạn cùng uống rượu. Nhưng than ôi, đó chỉ là một cái bóng người trong mơ.
Men Đắng cũng là bữa rượu một mình không buồn nhưng lại đầy cay đắng vì một nghĩa vợ tình chồng đã tan vỡ, từ mười lăm năm trước về trong hơi men hôm nay, cũng là men rượu năm đó, cái men mà:
Chót nhấp môi ta trượt bước xuống bùn
Cho nên tay nâng chén mà trong lòng vẫn cảm thấy:
Thon thót sợ vô tình gặp lại.
Tự gật đầu với mình “Ừ ly nữa”, thêm rượu để cố quên đi nhưng:
Cạn ly này có quên được chuyện xưa?
Đau thương đấy đến ngày nào lành sẹo?
Và rồi chuyện xưa cứ hiện về rõ mồn một:
Ừ thì cứ trách ta bạc bẽo
Cứ rêu rao ta ân ái hững hờ
Nhưng đâu phải thế, mà chỉ vì:
Quá thật thà ta ra kẻ ngu ngơ
Ngớ ngẩn cược đời mình nơi kẻ chợ.
Người đã như yêu tinh, như hồ ly mà lại thêm trời cũng ăn ở bất công:
Trời cao xa dung dưỡng lũ yêu hồ
Nên ta đành phải:
Cố vẫy vùng thoát xa khỏi chốn nhơ
Ta chết lặng nửa đời không phân tỏ.
Men Đắng đầy bi phẫn vì không biết phân tỏ cùng ai, tưởng như sẽ đẩy nhà thơ vào miền bế tắc. Nhưng may thay vẫn có một chút ánh sáng là khi cuối cuộc độc ẩm, nhà thơ đã nhận ra chân tướng không tốt đẹp gì của người đã đi qua đời mình nên tự gật đầu thêm cho mình ly nữa, ly nữa để quên đi cái bóng tà xưa và hướng tới một bình minh đang đợi:
Quên bóng tà lẩn khuất phía song thưa
Ta cạn chén đón bình minh trước cửa.
Bữa rượu một mình cuối cùng trong chùm Thơ Về Rượu là bài thơ Chết. Bài thơ chỉ có 4 câu nghe như tiếng nghẹn nấc khi nhà thơ nhấp chén rượu buồn cay đắng tiễn người mình yêu đi lấy chồng và thấy trái tim mình đang dần chết:
Kể từ trăng tàn ấy
Ta chết dần ai hay.
Bài thơ khiến nhiều người nhớ tới Chuyện tình buồn của nhà thơ Phạm Văn Bình đã được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc:
Ngày nhà em pháo nổ
Tâm hồn anh nhuốm máu
Ôi nhát chém hư vô
Ôi nhát chém hư vô.
Chuyện Tình Buồn chứ không phải Chết nhưng cũng nhuốm máu đau thương bởi những nhát chém hư vô!
Thế Gian Say gọi là cuộc rượu một người cũng được hay cuộc rượu hai người cũng được. Một người vì bài thơ là lời của Đặng Xuân Xuyến nói về thế gian say. Hai người vì bài thơ có đề tặng nhà thơ Hoàng Xuân Hoạ khiến ta có thể hiểu là hai thi nhân đã đối ẩm với nhau rồi phiếm đàm về thế gian say và sau cuộc rượu thì nhà thơ họ Đặng ghi lại gửi tặng nhà thơ họ Hoàng. Dù hiểu cách nào thì Thế Gian Say cũng là một phiếm đàm về cái say rượu của người đời:
Thế gian say đòi đập chén trở cờ
Thế gian cười.
Thế gian khóc.
Thế gian mơ
Người đời say đòi “đập chén trở cờ” rồi cười, rồi khóc, rồi mơ, rồi thêm nữa:
Ngật ngưỡng bước.
Khành khạch cười.
Chửi cha thiên hạ dở!
Tôi từng nghe, cũng chính người đời đã phân ra ba loại say lớn trong thế gian: Loại thứ nhất, say như khỉ, hết "nhảy múa rồi đến ca hát hay chửi bới”, loại thứ hai, say như lợn, "nặng nề, trì trệ và muốn ngủ", loại thứ ba, say như dê, "không có đầu óc, nhưng dâm đãng".
Thế gian say trong thơ Đặng Xuân Xuyến thuộc loại thứ nhất, say rồi chửi cha thiên hạ. Thế thì có sao, thưa hai nhà thơ Đặng xuân Xuyến và Hoàng Xuân Hoạ? Chí Phèo kia, khi say hắn đã chửi tuốt luốt đấy thôi: “Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu hắn chửi trời. Có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: đời là tất cả nhưng chẳng là ai. Tức mình, hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại...”
Nhưng Chí Phèo chửi cả làng Vũ Đại đã thấm gì so với Trương Tửu và bạn ông khi say:
Chửi Đông, chửi Tây chửi tất cả
Hình như hai nhà thơ họ Đặng và họ Hoàng rất tương đắc khi chê “Thế gian say đòi đập chén trở cờ”. Tôi tra từ điển “trở cờ” nhưng không thấy mà chỉ có “trở” được định nghĩa “Đảo ngược vị trí đầu thành đuôi, trên thành dưới, trái thành phải hoặc quay ngược lại đi hướng khác”. Dù thế nào trở cờ cũng là xấu. Cái chén nó vừa đựng rượu cho mình uống giờ say đòi đập nó, không xấu thì là gì?
Nhưng ở đời thiếu gì người không say mà đã trở cờ trong những việc trọng đại, như ông Tổng Bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam đã phát biểu: “Có người công khai bày tỏ ý kiến trái với Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, làm trái nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng, thậm chí có người "sám hối", "trở cờ"; tình trạng tham nhũng, quan liêu, xa dân, tổ chức không chặt chẽ, nhiều nguyên tắc của Đảng bị vi phạm”
Trên thế giới, từ lâu ông nhà thơ Aragon người Pháp khi theo đảng Cộng Sản Pháp đã viết:
Đảng đã cho tôi sáng mắt sáng lòng
Để ca ngợi cái tổ chức mà mình có mặt, còn câu thơ nào hay hơn câu ấy?
Nhưng rồi, như rất nhiều người cùng chí hướng của mình trong thế kỷ XX, sau đó, niềm tin của ông đã thay đổi. Và ông bị gọi là trở cờ.
Những người như ông Tổng bí thư nói hay như ông Aragon, trở cờ chứ không phải hối hận. Nhưng họ vẫn đáng trọng hơn những kẻ không trở cờ mà trung thành, nhất quán một cách mù quáng.
Bài thơ Thế Gian Say hay nhất ở câu cuối:
Rượu ba xu. Thế gian hóa thằng rồ!
Ngày xưa, tiền chi tiêu trong dân chúng là tiền gián, với một quan là 360 đồng, dưới đồng là hào, dưới hào là xu rồi đến chinh và kẽm. Ca dao Việt Nam có nhắc đến người nội trợ đi chợ:
Một quan tiền tốt mang đi
Nàng mua những gì mà tính chẳng ra
Thoạt tiên mua ba tiền gà...
Ngày nay, đồng tiền Việt Nam được lưu hành trong dân chúng, thấp nhất là tờ giấy bạc một nghìn đồng. Nhà thơ Nguyễn Khôi có kể về vợ mình đi chợ:
Nửa triệu tiền tốt mang đi
Em mua những gì?- máy tính thẩm tra
Xem vậy, rượu ba xu thời nào cũng là thứ rượu rẻ tiền nhất.
Nên cái đáng cười người đời là đã phải uống cái thứ rượu mạt hạng ấy mà không biết mình là ai lại đòi đập chén trở cờ rồi cười, rồi khóc, rồi mơ và chửi thiên hạ để chính thế gian gọi là thằng rồ. Nhưng trong cái đáng chê cười ấy cũng nên có chút lòng thương xót vì họ toàn là dân nghèo khốn khó. Những kẻ giàu sang chơi những loại rượu Sake, Shochu, Whisky, Chivas… dẫu có say điên đảo vẫn có kẻ hầu người hạ và có ai dám bảo chúng hoá thằng rồ đâu. Bởi ở đời này, “ông” nào nói to, “ông” nào nhiều tiền thì “ông” ấy đúng!
Vả lại:
Thế gian còn dại chưa khôn
Sống mặc áo rách chết chôn áo lành
Vậy phiếm đàm về thế gian say thì cứ phiếm nhưng đừng quá chê trách họ.
Những cuộc rượu hai người trong chùm thơ về rượu của Đặng Xuân Xuân Xuyến hầu hết thấm đẫm nỗi buồn vì nhân tình thế thái.
Hai bài thơ Quan Trường và Bạn Quan đều diễn đạt tâm trạng nhà thơ khi uống rượu với hai người bạn làm quan. Thói thường khi có bạn làm quan người ta thường hãnh diện và coi đó là một may mắn và một diễm phúc. Nếu bạn là quan lãnh đạo cấp cao, người ta còn cố chụp chung một bức ảnh bắt quàng làm họ rồi treo giữa sảnh khách để loè khoe thiên hạ. Đặng Xuân Xuyến, ít nhất có hai bạn quan nhưng anh không có cái ý khoe khoang đó .
Thằng bạn trong Quan Trường là một quan chức to vừa “ngã ngựa” vì bị bọn đồng liêu ganh ghét không cùng dòng chảy với chúng:
Đục kín dòng mày lại cố gượng trong
Chúng nó đập bởi mày không chịu hỏng
Vì thế, nhà thơ an ủi bạn:
Nào, cứ uống, đếch gì mày phải ngại
Làm “quan to” ngã ngựa cũng chả hèn
Thiên hạ cười. Thây kệ thiên hạ soi
Mày giả xỉn để đời thôi khốn nạn.
Rồi chân tình khuyên bạn:
Ừ. Thế nhé. Lấy gia đình làm trọng
Cứ vui đi, mặc thiên hạ vào tròng
Tiếc làm gì mấy thứ của phù du
Thiên trả Địa, đếch gì mày cay cú.
Bài thơ cho ta thấy, tuy không làm quan nhưng Đặng Xuân Xuyến biết rất rõ chốn quan trường. Nơi mê cung bí hiểm ấy luôn có những đám mây đen âm mưu vần vũ, sóng gió lật đổ thanh toán nhau bất kì nổi lên gây ra không biết bao nhiêu thảm kịch. Ở đấy đầy dẫy những kẻ mặt dày vô sỉ, đầy quyền mưu quyền biến, đổi trắng thay đen, gian hùng, giả nhân giả nghĩa…Vì thế nhà thơ gọi chốn quan trường là nơi thiên hạ đú, thiên hạ cù và văng thẳng câu chửi vào cái thiên hạ ấy:
Nào. Uống nhé! Kệ cha thiên hạ đú
Nào. Cứ say! Mặc mẹ thiên hạ cù
Rồi mời rượu bạn để:
Tao với mày trận nữa ngoắc cần câu
Cho trôi tuột trò nhố nhăng thế sự.
Thái độ của nhà thơ là rất thẳng thắn coi khinh chốn quan trường và cảm thông sâu sắc với bạn mình, tuy làm quan nhưng vẫn còn chút thanh sạch và chưa bị tha hoá nên đã bị cả một lũ quan trường, chúng nó đập.
Người bạn quan thứ hai của nhà thơ trong bài Bạn Quan là một quan chức đang tại vị, về quê mở tiệc tẩy trần, khách mời là nhà thơ bạn cũ. Thằng bạn quan này thì khác thằng bạn quan bị ngã ngựa, bởi thế nhà thơ đã mượn rượu giả say để có cớ vạch trần bộ mặt thật của thằng bạn cũ lâu ngày gặp lại:
Mày làm quan chắc kiếm bộn tiền
Chức ấy rẻ mà sinh lắm lãi
Mày là thằng đã bỏ tiền ra để chạy chức, xong rồi thì phải thu hồi vốn, thu hồi xong phải làm lãi bằng cách vơ vét, ăn không từ thứ gì của dân.
Thêm nữa, cái tài học và tâm địa của mày, hai ta đâu có lạ gì nhau:
Mày học ngu nhưng thủ đoạn tài
Tao học giỏi nhưng mù thủ đoạn
Tưởng rằng nói trắng phớ ra như thế thì mình sẽ hả lòng hả dạ, bớt đi bao đau buồn thua thiệt trong cõi đời đen bạc. Còn nó, thằng bạn quan sẽ mất mặt vì nhục nhã.
Nhưng cái hay ở bài thơ là thằng bạn lại không thấy như thế. Mà y đợi:
Rượu tới tầm
Mày ghé tai tao
Nói thật nhỏ
Căng tai mới rõ
Ơ hay, sao chỉ có hai người bạn uống rượu tẩy trần mà y lại phải “ghé tai”, “nói thật nhỏ” đến nỗi bạn phải “căng tai mới rõ”. Phải chăng quen sống ở chốn quan trường, nơi mê cung bí hiểm đã thành động hình trong y, lúc nào cũng phải giấu giấu diếm diếm những cái gọi là sự thực. Nay chỉ có y và thằng bạn mà y vẫn chửi là “Quá nửa đời mãi chửa hết ngu…” thì nỗi sợ ấy không còn nữa nên y mới có đủ dũng khí để nói ra cái sự thực ấy:
“Làm người khó
Làm quan càng khó
Chốn quan trường chó, vịt giống nhau…”
“Quan càng lớn, chữ nhân càng nhỏ…”
“La liếm quen rồi nào biết bẩn nhơ!”
Đúng là y nói rất thật nhưng cũng đúng y là một thằng học ngu vì y chưa đọc hết câu: “Làm người là khó, làm người xã hội chủ nghĩa còn khó hơn nhiều”
Vẫn đang đà giả tỉnh giả say, nhà thơ làm ra bộ ngớ ngơ:
Khen các quan vì dân vì nước
Ai ngờ thằng bạn quan cũng đang đà được nói thật nên đáp lại cũng rất thật:
Đời đã chó
Quan trường càng chó
Tuy y nói thật thế nhưng y vẫn đang làm quan. Bữa tiệc tẩy trần hôm nay là tiệc của nhà quan được mua sắm bởi những đồng tiền y đã “Ăn của dân không từ cái gì”, đã “La liếm quen rồi nào biết bẩn nhơ”. Vì vậy, nhà thơ cần phải nói thẳng nốt với y:
Rượu mày mời
Tao uống khó trôi
Thịt mày gắp
Tao nhai khó nuốt
Bạn Quan là một bài thơ hay, một cuộc rượu hai người đầy kịch tính, cả hai đều mượn hơi men để nói thật lòng mình, rất đúng với câu “Lời say sưa mới là câu chân tình” (Trần Huyền Trân) cho ta thấy bộ mặt thật xấu xa bỉ ổi của bọn quan trường trong xã hội hiện nay.
Đời Khát với lời đề tặng nghệ sĩ Võ Hoài Nam là cuộc rượu của đôi bạn, một nhà thơ và một nghệ sĩ. Hiển nhiên là rượu phải ngon và quý:
Rượu tình đời men ủ nhiều năm
Họ khát gặp nhau và khát cả rượu nên cuộc đối tửu là một trận càn khôn túy lúy:
Này thì khát!
Uống cho đời đỡ khát
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét