Chủ Nhật, 16 tháng 3, 2014

KHÓC CƯỜI Ở HỘI VĂN HỌC NGHỆ THUẬT BÌNH PHƯỚC

Khóc, cười ở Hội Văn học nghệ thuật Bình Phước

11/03/2014
Kì I: Xin ông Phạm Hiến “chớ trèo lên thơ”
Tạp chí Văn nghệ Bình Phước số 12/2013, ông Phạm Hiến (Phó Tổng Biên tập Tạp chí Văn nghệ Bình Phước) “dạy” bạn đọc rằng: “Làm báo văn nghệ cần có phong cách tinh tế về văn nghệ”. Thường người ta chỉ nói “cái nhìn tinh tế”, “ửng xử tinh tế”, nhưng ông Phạm Hiến đòi hỏi rất cao ở người làm báo văn nghệ phải có “phong cách tinh tế” tức là người đó phải có trình độ tri thức một cách hệ thống chuyên biệt và độc đáo, tinh tế khi làm báo văn nghệ.
Lời tuyên ngôn của ông Phạm Hiến đã cuốn hút tôi buộc phải đọc lại chuỗi bài của ông đăng trên Tạp chí Văn nghệ Bình Phước. Tạp chí Văn nghệ số 4/2011, ngay trong phần sa-pô (chapeau) bài “Làng bên phố – Hoài niệm của người lính giàu cảm xúc” ông viết: “Thú thật, ở tỉnh Bình Phước (theo phỏng đoán của tôi) có một người viết văn và làm thơ với những tác phẩm có chất lượng đồng thời mang phong cách riêng; giàu vốn ngôn ngữ diễn đạt, giàu hình tượng; giàu cảm xúc hoài niệm về một thời đã xa như Lê Viết Liệu là không nhiều. Đầu tháng 3/2011 tập thơ “Làng bên phố” của anh đã ra mắt công chúng (Nhà xuất bản Thanh Niên), hình thức đơn giản nhưng nội dung đã làm nhiều bạn đọc quan tâm và rơi nước mắt!”.

Thứ nhất về cái tít của bài viết: Chưa nói đến nội dung, ngay cái tít bài “Làng bên phố – Hoài niệm của người lính giàu cảm xúc!” đã thể hiện chả có gì là “tinh tế” vì muốn có thơ hay người làm thơ phải “giàu cảm xúc” là chuyện đương nhiên. Thơ là loại hình nghệ thuật ngôn từ giàu cảm xúc nhất, dễ lay động lòng người nhất. Cái tít dễ dãi, sáo mòn này chẳng đưa lại thông tin gì mới mẻ cho người đọc vậy thì “tinh tế” ở đâu?
Thứ hai, phần sa-pô: Ông viết “…những tác phẩm có chất lượng đồng thời mang phong cách riêng; giàu vốn ngôn ngữ diễn đạt, giàu hình tượng; giàu cảm xúc hoài niệm”…
Tác phẩm có “chất lượng” đương nhiên là phải có “phong cách riêng” rồi. Vế “đồng thời mang phong cách riêng” trở nên thừa. Thơ hay thì nhất thiết phải giàu vốn ngôn ngữ diễn đạt, giàu hình tượng; giàu cảm xúc… Vấn đề này không phải là phong cách riêng mà là những tố chất chung bất luận nhà thơ nào cũng phải có. Bạn đọc chỉ mong ông vạch ra được cái phong cách riêng độc đáo, tinh tế trong thơ Lê Viết Liệu cụ thể như thế nào thôi. Ông hạ câu: “hình thức đơn giản nhưng nội dung đã làm nhiều bạn đọc quan tâm và rơi nước mắt”. Câu này tôi e hơi sáo và chủ quan, vì thời buổi này làm thơ để bạn đọc “rơi nước mắt” theo kiểu cải lương là hơi khó. Tập thơ “Làng bên phố” của Lê Viết Liệu giàu chất triết lí suy tư và nỗi niềm trăn trở trước hiện thực đời sống chứ không phải hay theo kiểu “rơi nước mắt” cải lương như ông Phạm Hiến thẩm định và bình luận.
Thứ ba, phần thẩm định và bình luận: Tôi xin trích nguyên một đoạn văn chỉ có 2 câu nhưng có tới 114 chữ. Riêng câu thứ 2 có tới 82 chữ, sử dụng hai lần dấu hai chấm (:) trong một câu. Ông Phạm Hiến viết sai ngữ pháp và diễn đạt hết sức rối rắm: “Sự hấp dẫn của tập thơ ngoài tính đa dạng của các mảng đề tài sáng tác, lối viết giàu hình ảnh, biểu cảm còn phong phú cả thể loại sáng tác. Người đọc dễ nhận diện những mảnh vỡ của cuộc đời hay nhát cắt của lịch sử gắn với từng số phận và khi xâu chuỗi những nội dung của tác phẩm chúng ta như có được một truyện kí sắp đặt bằng lộ trình thời gian là thước đo của cuộc đời: cũng có điểm xuất phát, sự trưởng thành và những mất mát đau thương, rồi tổng hợp tích lũy vốn sống: Lời mẹ; Tìm lại tuổi thơ; Ngày ấy; Xuân người; Cổng làng; Người chiến sĩ ra đi; Kỉ vật thời son trẻ; Hoài niệm chiến khu; Niềm tin theo Đảng; Tâm sự đêm tân hôn; Thơ tặng bạn già; Đời nghệ sĩ; Khinh đời; Thọ Trường cảm tác”…
Tôi không hiểu ý ông định nói gì. Thơ của Lê Viết Liệu là những tứ thơ và cảm xúc bất chợt chứ sao lại “xâu chuỗi những nội dung của tác phẩm chúng ta như có được một truyện kí sắp đặt bằng lộ trình thời gian là thước đo của cuộc đời”!(?)…
Thứ tư, thẩm định sai bản chất nội dung thơ: Ông Phạm Hiến viết: “Tình yêu cuộc sống trong thơ Lê Viết Liệu dạt dào, trữ tình, tự sự, ngoài sự trải nghiệm của tác giả còn có vốn hiểu biết rộng đa chiều, đa diện, đôi khi còn dí dỏm – hài hước để nói lên cái bi kịch… “Để anh hát ru em ngủ!/ Nuôi con không quản tháng ngày/ Muộn màng đôi lần sinh nở/ Dị hình, coi như trắng tay!”…
“Tình yêu cuộc sống trong thơ Lê Viết Liệu dạt dào” là đúng rồi, còn “trữ tình, tự sự” thuộc về phương pháp sáng tác không thể bổ nghĩa cho vế trên được. Cách diễn đạt trên cho thấy ông Phạm Hiến nhầm lẫn khái niệm, thiếu tri thức căn bản và khả năng thẩm định văn chương.
Về nội dung đoạn thơ trên mà ông bình là “dí dỏm – hài hước” ư!(?). Có lẽ các em học sinh tiểu học cũng thấy nỗi đau của tác giả trong bi kịch do hậu quả chất độc da cảm để lại: “Muộn màng đôi lần sinh nở/ Dị hình, coi như trắng tay!”…
Một bài viết như vậy mà Ban Biên tập đã cho in hai lần. Ngoài tạp chí Văn nghệ Bình Phước, bài này còn được đăng trong “Tuyển tập Văn học Bình Phước 2006 – 2011”.
Thôi ông Phạm Hiến ạ, nhà thơ Tú Xương đã dạy: “Yêu sông yêu núi thì trèo/ Yêu thơ xin chớ có trèo lên thơ” ông nhé! (Kì sau tiếp)
PGS,TS Mai Hảo

Khóc, cười ở Hội Văn học nghệ thuật Bình Phước

12/03/2014
Kì II: Ông Phạm Hiến thiếu kiến thức văn học và diễn đạt rối rắm
Ông Phạm Hiến còn có rất nhiều bài viết đăng trong Tạp chí Văn nghệ Bình Phước và “Tuyển tập Văn học Bình Phước 2006 – 2011”. Tất cả các bài này đều có cách diễn đạt rối rắm, không hiểu khái niệm và thiếu tri thức văn học. Một số bài của ông chỉ đọc tít tựa đã thấy sáo mòn và sai về ngữ nghĩa, cụ thể như trên Tạp chí Văn nghệ Bình Phước có các bài: “Một vài ghi nhận về kết quả hội viên dự trại sáng tác Nha Trang – Khánh Hòa” (số 9/2012). Nếu ghi nhận thì phải ghi nhận từ trại sáng tác chứ sao lại “ghi nhận về kết quả hội viên”? Lẽ ra phải viết: Một vài ghi nhận từ trại sáng tác Nha Trang – Khánh Hòa” mới đúng.
Bài “Đào Hoa Nữ – nghệ sĩ nhiếp ảnh tài hoa với “duyên” và “trải nghiệm” của khoảnh khắc sáng tác” (số 11/2013). Bạn đọc không hiểu “tài hoa với duyên” nghĩa là gì. Tôi xin biên tập lại: “Đào Hoa Nữ – nghệ sĩ nhiếp ảnh tài hoa” là đủ.
Bài “Nhà giáo ưu tú Nguyễn Ngọc Am với sự nghiệp giáo dục và đào tạo, khuyến học, khuyến tài” (số 11/2013). Lẽ ra phải viết “Nhà giáo ưu tú Nguyễn Ngọc Am với sự nghiệp giáo dục – đào tạo” còn “khuyến học, khuyến tài là phong trào”, không thể gọi là sự nghiệp khuyến học, khuyến tài mà phải gọi cho đúng là “Phong trào khuyến học, khuyến tài” (Ông Phạm Hiến đã nhầm lẫn khái niệm)…
Trong “Tuyển tập Văn học nghệ thuật Bình Phước 2006 – 2011” ông Phạm Hiến có 6 bài. Cả 6 bài viết đều hết sức rối rắm về cách diễn đạt và thiếu tri thức văn học. Có những bài chỉ là bài báo, không có nội dung văn học sao lại đưa vào tuyển tập văn học như: “Đồng Xoài đặt tên đường”, “Điểu Ong hay Điểu Ông”. Đặc biệt trong tuyển tập trên còn có bài “Vài suy nghĩ về tài năng và tiềm năng sáng tác”. Ông Phạm Hiến không hiểu khái niệm về tài năng nên diễn đạt rất rối và phi lô-gíc. Tài năng được gọi là “talent” như khả năng, năng lực của con người. Tài năng là năng lực ở mức độ cao, biểu thị sự hoàn thành một cách sáng tạo ở những hoạt động nào đó. Tài năng đó là sự kết hợp hoàn thiện nhất các loại tố chất, năng lực giúp cho con người hoàn thành một cách sáng tạo và thuận lợi cho hoạt động. Khái niệm tiềm năng có thể hiểu là năng lực tiềm tàng, những thế mạnh còn chưa được khai thác. Trong văn học, tiềm năng sáng tác cơ bản nằm sâu trong mỗi cá nhân cần được khơi dậy, định hướng và động viên họ sáng tác… Ông Phạm Hiến không hiểu cái gốc của tiềm năng sáng tác văn học chính là con người, nên ông bê cả một dự án của UBND tỉnh Bình Phước vào bài viết.
Bài “Văn nghệ” làm cuộc sống tươi đẹp hơn” (số Xuân Giáp Ngọ 2014) ông lại đặt một cái tít sáo mòn “biết rồi khổ lắm nói mãi”. Văn nghệ thì phải góp phần làm cuộc sống tươi đẹp hơn chứ là xấu đi thì ai cần đến văn nghệ nữa!
Điều đặc là lối viết lộn xộn; không chứng minh được tài năng của ông Nguyễn Kình là gì; sản phẩm trên các mặt nhiếp ảnh, thơ ca, hội họa như thế nào. Ông Phạm Hiến chỉ chụp hình ảnh quảng cáo toàn bộ gia đình ông Nguyễn Kình và ảnh chụp chung giữa ông Hiến với ông Kình. Bài của ông bộc lộ sự thiếu hiểu biết về văn nghệ. Ông hiểu văn nghệ đơn giản là “niềm vui tuổi già”. Trong khi đó các nhà văn lớn lại xem văn nghệ là một “ngôi đền thiêng” nếu không có văn hóa, học thuật, tri thức, thì không thể bước vào cánh của “ngôi đền” văn học được.
Ông cũng không hiểu những khái niệm đơn giản như “đa năng” là gì, vì thế trong một câu diễn đạt lủng củng ông hạ bút: “Bên cạnh những thành công về mĩ thuật ông còn biểu hiện đặc trưng từ đam mê văn nghệ đến đa năng, đa tài trong sáng tác”.  Nghĩa của từ đa năng là nhiều khả năng, năng lực. Nếu ghép với câu trên nghĩa là đam mê văn nghệ đến nhiều khả năng, năng lực thì không ổn. Người ta chỉ dùng từ đam mê đến mất ăn mất ngủ thôi ông ạ.
Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị nêu rõ “Văn học nghệ thuật là lĩnh vực rất quan trọng, đặc biệt tinh tế của văn hóa” rất đúng. Còn ông Phạm Hiến dạy người làm báo văn nghệ “cần có phong cách tinh tế về văn nghệ”. Tôi soi đèn tìm kiếm cái “phong cách tinh tế về văn nghệ” của ông Phạm Hiến để học tập nhưng chỉ thấy một cái vỏ ốc trôi nổi dập dềnh trên một biển cả chữ nghĩa hỗn độn, rối rắm. (Kì sau tiếp)
PGS,TS Mai Hảo

Khóc, cười ở Hội Văn học Nghệ thuật Bình Phước (Tiếp theo kì trước)

13/03/2014
Kì III: Duyệt đăng một số bài kích động, mô tả tình dục và đi ngược lại chính sách hòa giải dân tộc
Với trách nhiệm là Phó Tổng Biên tập Tạp chí Văn nghệ Bình Phước, ông Phạm Hiến đã tham mưu và duyệt các tác phẩm đặc biệt là mảng văn xuôi như thế nào?
1. Mô tả tình dục và tầm thường hóa người thương binh có công với nước:
Văn nghệ Bình Phước số 11/2003, ông Phạm Hiến và biên tập viên Duy Thơm cho đăng truyện ngắn “Giấc mộng đầu” của Nguyễn Thanh Hoàng, mô tả người thương binh như một con nghiện: “Mỗi lần lên cơn toàn thân Hùng cứ rung lên bần bật rồi anh lăn qua lăn lại trên chiếc giường cá nhân như một khúc gỗ làm chăn chiếu xê lệch. Mồ hôi toát ra đầm đìa, hai hố mắt trũng sâu nhướng lên. Quai hàm bạnh ra, miệng thở hổn hển. Nhung (cô hộ lí) hớt hải chạy tới ôm chặt lấy Hùng. Cô dùng thân mình đè lên người anh. Bàn tay mềm mại của người con gái liên tục vuốt lên mặt, lên ngực người thương binh. Giọng Nhung ngọt ngào dỗ dành: Anh Hùng! Anh Hùng… Nhung đây nè. Anh tỉnh lại đi đừng làm em sợ. Hùng vẫn giãy giụa trong cơn mê sảng”… “Với anh, Nhung không nề hà điều gì, những nơi kín nhất trên cơ thể người con trai của Hùng cũng do bàn tay Nhung chăm sóc tắm rửa. Nhiều lúc gương mặt Hùng cứ thần ra khi nghĩ đến những lần va chạm thân thể với Nhung, nhất là lúc bàn tay Nhung động chạm vào vùng nhạy cảm làm các tế bào thần kinh bừng tỉnh. Lúc đó người anh nóng bừng lên, cơ thể căng cứng làm anh nghẹt thở. Anh tự trách “Lúc bị thương sao cái của nợ ấy không mất quách đi” hoặc giả bị thương tích để đổi lại đôi mắt và đôi tay thì quý biết chứng nào, đằng này… nó lại còn nguyên vẹn lành lặn và ngời ngời sức sống”… Mô tả người thương binh một cách tự nhiên chủ nghĩa và lạnh lùng, nhẫn tâm: “…Với đôi mắt và đôi tay chân của anh đều bị nát bét đến gần sát người, cặp mắt cũng không nhìn thấy ánh sáng”… “Đôi chân, đôi tay Hùng bị cắt bỏ, Hùng giờ đây như một khúc gỗ trơ trụi”…
Những đoạn văn trên gây cảm giác ghê rợn về người thương binh và những đòi hỏi bản năng xác thịt. Còn đâu nữa hình ảnh người chiến sĩ với những trận đánh hào hùng, sẵn sàng hi sinh vì nền độc lập cho Tổ quốc? Tôi liên tưởng đến La Văn Cầu, Lê Mã Lương, Phạm Văn Hạng và bao người thương binh khác tràn đầy nghị lực vươn lên giữa đời thường. Tôi liên tưởng đến tấm gương Nick Vujicic không có chân tay nhưng luôn nỗ lực và không bao giờ từ bỏ ước mơ. Anh trở thành tấm gương sáng cho nhiều người học tập.
Văn nghệ Bình Phước (số 8/2012) ông Phạm Hiến và ông Duy Thơm còn cho đăng truyện ngắn “Chuyến hàng đêm” của Nguyễn Thanh Hoàng tiếp tục miêu tả tình dục: “Dưới ánh trăng lờ mờ trong ca-bin do pha đèn ô-tô dội lên, nhưng cũng đủ sáng để Đại ngắm nhìn khuôn mặt bầu bĩnh của ni cô đang ngửa đầu vào thành ghế ngủ. Hai chiếc cúc áo chéo từ nách lên tới cổ của ni cô đã bung ra từ lúc nào, để lộ vòm ngực trắng nõn, cặp hồng đào căng tròn cứ phập phồng theo nhịp thở, thỉnh thoảng lại cộm lên bởi những cú xóc nhẹ của xe. Đại cho xe chạy chậm. Cặp mắt đánh liên hồi về phía ngực của ni cô. Như có một ma lực cuốn hút, bản năng của người đàn ông trong Đại trỗi dậy, không thể kiềm chế được nữa. Anh đánh xe vào lề đường rồi tắt máy. Đại từ từ cúi xuống hôn vào má ni cô. Làn da của cô mát rượi, anh cảm nhận được sự ngọt ngào say đắm. Vẫn không thấy ni cô động tĩnh gì. Anh tiếp tục đưa tay mơn man xuống vùng ngực… Ni cô càng ra sức kháng cự, càng làm cho Đại cương quyết mạnh mẽ hơn. Rồi cô cũng buông xuôi”…
Không biết bao nhiêu đối tượng độc giả, trong đó có cả các em học sinh, sinh viên đọc được sẽ nghĩ gì về tờ tạp chí Văn nghệ của tỉnh? Chẳng lẽ đây là giáo dục nhân cách ư?
2. Lối viết kích động, chia rẽ, gây hận thù đi ngược lại chính sách hòa giải dân tộc
Ông Phạm Hiến và ông Duy Thơm còn duyệt đăng trên Văn nghệ Bình Phước (số 11/2013) truyện ngắn “Cuộc gặp ngoài ý muốn” của Nguyễn Văn Nhiên. Đây là câu chuyện với lối viết kích động gây chia rẽ, hận thù; đi ngược lại chính sách hòa giải dân tộc, tôi xin trích để bạn đọc tự bình luận: “…Thế là mình lại làm sui với gã phản dân, hại nước này à! Trớ trêu thật đấy chứ! Đúng là “ghét của nào trời trao của ấy!” Biết làm sao được bây giờ… Trong số những học viên có nhiều vấn đề nổi cộm nhất phải kể đến Phạm Thế Hòa (Ba Hòa) sinh năm 1946 nguyên Đại úy, Xã trưởng kiêm Đại đội trưởng Đại đội Phòng vệ dân sự… Hắn gốc gác ngoài Bắc, “đuổi Pháp quá đà” vào Nam năm 1954… Hắn có rất nhiều nợ máu với cách mạng. Thành tích diệt Cộng của hắn đã được tên Việt gian bán nước Nguyễn Văn Thiệu tâng bốc gắn chiến công bội tinh năm 1972 với phần thưởng 5 ngàn đồng… Hồi đó ông cứ tưởng chắc chắn rằng thế nào tụi Việt Cộng cũng sẽ có hàng loạt vụ tắm máu trả thù như hồi cụ Ngô sát cộng năm 1959 ấy chứ… Nếu như cuộc chiến tranh ấy phía Quốc gia và Huê Kì mà thắng thì… to chuyện lắm chứ chẳng chơi… Ba Hòa mập như một con heo hoạn, đi đứng khệnh khạng ra dáng con nhà võ, nói năng luôn pha trộn một vài tiếng Anh lơ lớ đến là khó nghe… Trước khi họ nhà trai đến, hắn vênh váo cái mặt như mẹt bánh đúc, lúc nào hắn cũng ngậm điếu xì gà xám xịt dài như một cái đũa trên môi”…
Đảng và Nhà nước ta đang thực hiện chủ trương hòa giải dân tộc, khép lại quá khứ, hướng đến tương lại; đổi mới, hội nhập để xây dựng đất nước. Hằng năm mỗi dịp Tết đến Xuân về chúng ta lại kêu gọi, chào đón Việt kiều về góp phần xây dựng quê hương. Trên thực tế hàng trăm doanh nhân Việt kiều đã xây dựng nhà máy, công trình, quyên góp từ thiện giúp đỡ nhân dân lúc hoạn nạn khó khăn…  Cách viết của truyện ngắn trên là gây chia rẽ, hận thù và làm ngược lại chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.(Còn nữa)
PGS,TS Mai Hảo

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

BÀI MỚI ĐẮNG

Truyện ngắn: BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN _ NGUYỄN HẢI ĐĂNG

Bên cánh gà chánh điện phần 1 BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN Xe dừng lại với tiếng xột xoạt trên mặt đường, như bao chuyến xe đã ghé qua từ thuở ...