Chủ Nhật, 24 tháng 11, 2024

KHÔNG ĐỀ _ TRẦN PHƯƠNG (QUY NHƠN)

Chả thèm làm mặt trời chói sáng (Nóng như nung chứ báu gì) Cứ làm con người yêu đương hôn hít nhau suốt đêm này tháng khác Đợi đến già lại thanh thản ra đi !

NGHĨ TỪ ĐẤT MŨI _ HỒ THANH NGÂN

NGHĨ TỪ ĐẤT MŨI Tôi đi ba bề núi Để đến ba bề biển Ôi bình nguyên lọt thỏm giữa miền Trung Và đồng bằng ở tận cùng mũi đất Sông Đốc chém anh một vết thương lòng Đến bao giờ nguôi Những kỉ niệm quê hương như bầy ngựa hoang Lồng lộn và dày vò anh Tôi đi từ một bờ biển biếc Để đến nơi có biển Đông biển Tây Để nhận ra ta bồng bột Để hiểu đời có luật trả vay Muốn trở thành mặt trời chói sáng Phải sống sót sau mũi tên Hậu Nghệ.

KHÔNG ĐỀ_ HOÀNG NGỌC ANH

Một mình đứng giữa ngả ba Phia nào cũng thấy có hoa trên đường Sợ mình chân ướt tay run Nhớ ngày xưa ấy chưa hun được nhiều

KHÔNG ĐỀ_ HỒ THANH NGÂN

Sợ chiều không đủ cơn mưa Sợ mình không đủ ngày xưa để buồn Chiều mưa gió rú qua truông Một mình đứng giữa con đường ngã ba

Thứ Bảy, 16 tháng 11, 2024

BÌNH THƠ TỈNH LẺ CỦA ĐÀO ĐỨC TUẤN _HỒ THANH NGÂN

TỈNH LẺ BÂNG KHUÂNG LỠ BƯỚC GIANG HỒ Bài thơ tỉnh lẻ của Đào Đức Tuấn ra đời những năm 90 của thế kỉ xx. Thời mà sống ở tỉnh lẻ cũng thiệt thòi hơn ở thành phố, thủ đô.Gần ba chục năm qua, thời mà tin tức cũng chậm chứ không như bây giờ internet thế giới phẳng. Báo cũng chậm mà lương cũng chậm Tỉnh lẻ mềm lòng tỉnh lẻ đìu hiu Khi vui thì hơn phồn hoa đô hội Nhà thơ Yến Lan viết: tỉnh lẻ cô em nằm xem kiếm hiệp. Ở đây cuộc đời cứ như giấc mơ Bạn bầu vô tư đằm thắm Ít khi nói chuyện thiệt hơn Ở tỉnh lẻ cũng như ở quê.không phải mua từ cây tăm xỉa răng. Không khí trong lành, rau sạch, sông biển trong xanh không bị ô nhiễm. Kinh tế thị trường chưa tác động nhiều đến đời sống." Cuộc đời cứ như giấc mơ" " vô tư đằm thắm" "ít thiệt hơn " Trời trong veo ý nghĩ trong veo Cỏ dậy hơn ở phố Con gái thì tươi, con trai thì lương thiện Sống trong môi trường chất phác con người thật thà tình cảm."ý nghĩ trong veo " "con gái tươi " " con trai lương thiện " thiên nhiên trong lành, khoáng đãng hơn" cỏ dậy hơn ở phố " Ngày đẩy đưa tỉnh lẻ lao xao Cứ chập chờn cứ trách mình tưng tửng Tỉnh lẻ bâng khuâng lỡ bước giang hồ Cuộc sống cơm áo gạo tiền có tác động đôi chút"tỉnh lẻ lao xao " cứ bằng lòng vậy cầm lòng vậy qua ngày tháng" ngày đẩy đưa " Cứ chập chờn cứ trách mình tưng tửng Vui nửa mùa buồn nửa mùa"tưng tửng" " chập chờn ". Lúc mới đăng báo anh viết. Cứ chập chờn cứ trách mình phận mỏng. Nghe bi quan nghe khóc lóc quá. Nên khi in sách anh sửa lại. Tỉnh lẻ bâng khuâng lỡ bước giang hồ Bon chen nơi đô hội thì khó quá.khó thích nghi, khó tồn tại. Mà cam phận ở tỉnh lẻ thì buồn quá. Trẻ trai mà an phận ở quê. Ở tỉnh lẻ thì không cam chịu , không đành lòng."bâng khuâng" "lỡ bước giang hồ" S đ 15/11/2024 TỈNH LẺ ĐÀO ĐỨC TUẤN Báo cũng chậm mà lương cũng chậm Tỉnh lẻ mềm lòng tỉnh lẻ đìu hiu Khi vui thì hơn phồn hoa đô hội Ở đây cuộc đời cứ như giấc mơ Bạn bầu vô tư đằm thắm Ít khi nói chuyện thiệt hơn Trời trong veo ý nghĩ trong veo Cỏ dậy hơn ở phố Con gái thì tươi, con trai thì lương thiện Ngày đẩy đưa tỉnh lẻ lao xao Cứ chập chờn cứ trách mình tưng tửng Tỉnh lẻ bâng khuâng lỡ bước giang hồ

THƠ HOÀNG NGỌC ANH

Gió Sông Ba lất pha lất phất Đất Tuy hoà làm gì có chấm phá Bazan Ngừ Ty quà quýt là quýt cam ra cam Không nói giọng nhão nhê Miền Tây Sông Đốc Cái đụt cái lờ mỗi nơi kiểu khác Bụng Phú yên thừa củ thừa khoai Xa xứ buồn nhưng vẫn cốc chai

Thứ Sáu, 15 tháng 11, 2024

HỒ THANH NGÂN PHÍA MÊNH MÔNG _ ĐÀO ĐỨC TUẤN

27. (Trích tùy bút thơ LẠC BƯỚC GIANG HỒ CHỮ trong cuốn thơ chọn LỐI TÌNH của ĐÀO ĐỨC TUẤN đang in tại NXB Hội Nhà văn). Mấy chục năm trước, cha Hồ Thanh Ngân làm cuốc xích lô miễn phí Xuân Diệu ngắm Tuy Hòa. Nên cả đời Ngân cứ chòng chành với con thuyền thơ. Chắt chiu đại học sư phạm ra không chạy được chỗ dạy, Ngân xách gói về Đất Mũi. Trường ca “Nhớ Phú Yên” của anh hay miên man. HỒ THANH NGÂN PHÍA MÊNH MÔNG gió từ Tuy Hòa thổi tràn Đất Mũi thi sĩ nghiêng phía mênh mông trai trường Nguyễn Huệ giáo học Quy Nhơn chiều buông buông góc trời quán nhớ Đà Rằng không chảy Sông Đốc ngóng Thạch Đà chưa tắt nắng sao hoàng hôn chén thơ mạn thuyền trả vay tất tả

Thứ Tư, 13 tháng 11, 2024

TUỆ SỸ TỰ TẠI ĐẾN ĐI _ TÂM NHIÊN

TUỆ SỸ TỰ TẠI ĐẾN ĐI Thi ca và tư tưởng có sức mạnh phi thường, vượt qua cả mấy triệu nghìn năm, song hành cùng Thi nhân, Đạo sỹ, Thiền sư từ muôn thuở, muôn nơi đi về trên mặt đất, trần gian này. Bằng cách vô công dụng hạnh, họ âm thầm, tha thiết chuyển hóa đủ loại trình độ, vô số căn cơ đang quờ quạng, rối mù, bao phủ trong bóng tối u minh, đang quằn quại, khổ đau trong sinh tử, luân hồi... Luân hồi, sinh tử trùng trùng của thập loại chúng sinh, biết vươn mình lên trên tuyệt đỉnh hồn tâm linh tỉnh thức. Tỉnh thức ngay bây giờ, ở đây để cùng về quê nhà, Cố quận, nơi chốn miền hoan hỷ địa trong tâm hồn, ngay giữa lòng trong trẻo, long lanh, lấp lánh nụ cười thanh tịnh của mỗi một người trong tất cả chúng ta. Thanh tịnh nụ cười trổ hoa, sau cuộc Hòa âm cùng Thiên lý độc hành với người thi sỹ kỳ tuyệt ấy, chúng ta quy hồi Cố quận, trở về Thực tại hiện tiền ngay bây giờ, ở đây, vì thấy được lẽ huyền vi của cuộc sống như Tuệ Sỹ thi nhân đã thấy diệu kỳ, mới lạ: “Đời sống tồn tại trong từng sát na và trong từng nguyên tử nhỏ bé, thường trực là cảnh giới huyền vi, bất tư nghì...” Bất khả tư nghì là không thể nghĩ bàn chi được về cuộc đời, cuộc đạo, về cuộc sống hay cuộc chết. Sống và chết giao thoa nhau trên cung cầm miên viễn, thiên thu. Thiên thu là Trí tuệ, là bản thể Vô sinh, bất diệt, chỉ cho Tự tánh thanh tịnh, Tánh Không, còn thân xác sống chết này là hiện tượng, như bọt nước nổi trôi trên đại dương bản thể kia. Vì thế, khi bọt nước vỡ tan thì nhập vào lại đại dương chứ chẳng mất đi đâu cả, như Tuệ Trung Thượng Sỹ cất tiếng ca Sống chết nhàn thôi vậy: “Tâm mà sanh chừ sanh tử sanh Tâm mà diệt chừ sanh tử diệt Sanh tử xưa nay vốn Tánh Không Thân hư dối này rồi cũng diệt Phiền não Bồ đề bỗng mất tiêu Địa ngục Thiên đường tự khô kiệt Lửa phỏng nước sôi thoắt mát liền Núi kiếm rừng đao chốc gãy hết Thanh văn ngồi thiền ta không ngồi Bồ tát nói pháp ta nói thiệt Chết là dối chết sanh dối sanh Bốn đại vốn không nương đâu dậy Chớ như hươu khát đuổi bóng nước Nắm đông bắt tây không ngớt chạy Pháp thân không lại cũng không qua Chân tánh chẳng phải cũng chẳng quấy Đến nhà thôi chớ hỏi đường chi Thấy nguyệt tìm gì ngón tay ấy Kẻ ngu sống chết mãi lo âu Người trí rõ thông nhàn thôi vậy" Kẻ mê vọng thì cứ mãi lo âu, sợ hãi chuyện sống chết, còn người trí tuệ có mắt sáng nên nhìn thấu suốt lẽ sinh tử nên cứ thản nhiên. Bài thơ này do Trúc Thiên dịch Việt quá tuyệt vời. Vời tuyệt hơn nữa, Lý Việt Dũng giảng giải đại ý: “Vì nhất thiết duy tâm tạo, cho nên khi vọng tâm khởi là sinh tử nẩy sinh, từ đó hình thành nhị kiến đối lập, nào là Bồ đề - phiền não, Thiên đường – địa ngục, chân vọng, nhưng thật ra tự tính của sinh tử cũng vốn là không. Do đó, khi vọng niệm dứt thì mọi mê tưởng cũng tan theo, mọi phiền não đương nhiên cũng không còn. Cho nên chỉ cần thấy Tánh mà không cần thuyết pháp tọa thiền, bởi vạn pháp vốn tự nhiên nhất như vô phân biệt. Lúc khởi tâm tìm cái Chân thì đã là Giả (hư vọng) rồi, vì chân vốn đang ở nơi cái đương xứ, tức ngay nơi sinh tử thấy ra thực tính là đã Vô sinh. Vậy người mê sợ sinh tử, luôn chạy đôn chạy đáo tìm liệu pháp đối trị, tìm cái Vô sinh, chẳng khác nào đang ở trong nhà mà lại cố tìm đường để về nhà. Đó chẳng qua chỉ là hành động hồ đồ của con hươu khát khô cổ, bôn ba chạy tìm bóng nước trong ánh nắng trên sa mạc, còn người giác coi thường sanh tử, vì trong sanh tử vốn đã đầy đủ Tính Chân...” Đó là cái thấy của hàng Bồ tát, bậc Thiền sư đã thấy được Chân Tánh, như cư sỹ Bàng Uẩn và cả gia đình vợ con ông đã tự tại trước cái chết, đến đi vô quái ngại liền. Một hôm đang cày ruộng, bất thình lình Bàng Uẩn nói với con gái: “Lát nữa cha đi nghe”. Linh Chiếu đang cuốc đất vừa nghe xong, cầm cuốc nhanh trí thị tịch trước, tiếp theo là mẹ, anh trai cũng vui vẻ, nhẹ nhàng đi, huống chi Tuệ Sỹ bậc Long Tượng vô úy: Bàng Uẩn hôm xưa đang cày ruộng Nói con gái biết: Cha quy thiên Buông cuốc Linh Chiếu dành đi trước Bàng Uẩn cười vang thị tịch liền Sống chết trùng trùng do duyên khởi Đó là con mắt của Tánh Không Tuệ nhãn thấy ra tường tận thế Nên đến hay đi cũng nhẹ lòng Lão cư sỹ ấy làm được vậy Huống gì Long Tượng bậc Thiền sư? Ứng thân thọ bệnh nhằm khai thị Cho kẻ phàm phu thấu đại từ Đại từ đại bi đại trí dũng Thì không bao giờ chết được đâu Chỉ ẩn chút thân gầy bèo bọt Còn trí tuệ kia vẫn nhiệm mầu Mầu nhiệm suốt cuộc sống như Thiền sư đã sống thì cũng nhiệm mầu khi cuộc chết đến, cho nên khi nghe tin Thầy Tuệ Sỹ bị bệnh, du sỹ có về thăm vào đầu xuân 2022 và gần đây nhất, tháng 7. 2023 cùng với Huỳnh Tấn Hạnh, Huỳnh Tấn Nghĩa đến vấn an Thầy đang an cư trong một tịnh cốc gần chùa Phật Ân ở Long Thành, Đồng Nai. Hỏi và đáp tuyệt nhiên không còn cần thiết nữa, lặng yên chỉ nhìn nụ cười “Năm tháng vẫn như nụ cười trong mộng” của “Hạc gầy đỉnh tuyết” là cũng đủ nghe ra cả trời thơ đất mộng, rung cảm tận đáy lòng. Thong thả, nhẹ nhàng, Thầy lộ vẻ thanh thản, an nhiên như không có bệnh tật gì. Biết là chút thân bèo bọt sắp bị tan rã thì cứ rã tan theo luật vô thường thế thôi. Hối tiếc gì, luyến lưu chi nữa giữa cuộc trăm năm thoáng chốc vèo qua như áng phù vân? Thật ra, Thầy Tuệ Sỹ bị bệnh cũng giống như Đức Phật bệnh hay Duy Ma Cật bệnh vậy thôi: Đều là một Bài Pháp sống động, không lời mà mỗi một người trong chúng ta phải thấu hiểu ngay bây giờ và ở đây. Hiểu thấu thì không cần phải cầu nguyện, cầu an chi nữa cả. Bởi lâu nay, chúng ta đã mặc nhiên tôn Thầy là bậc Thiền sư rồi mà Thiền sư thì tự tại, tự do trước lẽ còn mất, đến đi, sinh tử như Thầy đã từng nhắc nhở trên tinh thần vô úy: “Tất cả các bậc vô úy, không còn sợ hãi, chỉ có một con đường độc nhất phải đi là qua bên kia bờ của sự sống và sự chết. Qua bên kia bờ là chứng ngộ tính Tịch diệt của Niết bàn. Nơi đây chính là thế giới của cô liêu tuyệt đối…” Tuyệt đối cô liêu - “Hương vị cô liêu là hương vị của Chánh pháp” - Cô liêu chính là bước đi kỳ cùng của bậc thượng thừa, Sư tử hống. “Vô sở tòng lai diệc vô sở khứ” - Không từ đâu đến cũng chẳng đi về đâu. Không chỗ trụ, không sở đắc, chẳng mong cầu bất cứ điều gì thì còn sợ hãi chi nữa phải không? Đức Phật đúng 80 tuổi nhập Niết Bàn, còn Tuệ Sỹ năm nay cũng vừa độ 80 rồi. Hơn nửa thế kỷ đi qua cõi phù trần, đất bằng dậy sóng, đại dương sụp lở, núi sông tràn lấp ruộng đồng, cuồng phong sấm sét vỡ tan hoang, từng giáp mặt cận kề nhiều trận thập tử nhất sinh thật táng đởm kinh hồn... Thế mà nhà thơ đã vượt qua, vượt qua tất cả mọi chướng ngại, khó khăn, bằng chính nội lực, rực lửa hùng tâm tráng khí, phi thường. Thương yêu diệu dụng, bùng vỡ hết tâm can, thần lực, dốc cạn năng lượng suốt bình sinh, dịch giải Tam tạng kinh điển, thiết tha đại nguyện chuyển hóa, bừng trổ kỳ hoa dị thảo, ngát hương những đóa hồng thi ca và tư tưởng. Bước đi kỳ cùng cuộc lữ, đi và đi và đi bộ giữa nhật nguyệt viễn du, đầm đìa gió sương, mưa nắng phiêu bồng: “Bóng tối sập mưa rừng tuôn thác đổ Đường chênh vênh vách đá dọa nghiêng trời Ta lầm lũi bóng ma tròn thế kỷ Rủ nhau đi cùng tận cõi luân hồi Khắp phố thị ngày xưa ta ruổi ngựa Ngang qua đây ma quỷ khóc thành bầy Lên hay xuống mắt mù theo nước lũ Dẫm bàn chân lăn cát sỏi cùng trôi Rồi ngã xuống nghe suối tràn ngập máu Thân là thân cỏ lá gập ghềnh xuôi Chờ mưa tạnh ta trải trăng làm chiếu Nghìn năm sau hoa trắng trổ trên đồi” Ôi chao! Một bài thơ có nhiều hình ảnh đẹp kinh hồn. Nếu mai mốt, đột nhiên viên tịch thì Thầy vẫn bất tử với vẻ đẹp như thơ: “Chờ mưa tạnh ta trải trăng làm chiếu. Nghìn năm sau hoa trắng trổ trên đồi”. Trước cái chết, hầu hết đệ tử đều sợ sệt, hốt hoảng, lo âu, sầu bi lụy, nhưng Thầy vẫn điềm nhiên mỉm cười, sẵn sàng bắt tay với Tử Thần để qua chơi miền: “Thân sau ta vẫn bơ vơ bụi đường...” chứ không phải cõi Niết Bàn, Cực Lạc nào đâu. Mầu nhiệm là cõi thơ văn Tuệ Sỹ, một thi nhân vô tiền khoáng hậu, thấu đạt suốt kim cổ, sau xưa... Bữa đó, chúng tôi ngồi chờ Thầy quá đường xuống thì cũng gần 12 giờ trưa, giờ ngọ thiên rồi. Thầy phất tay áo nhẹ mỉm cười nói, nghỉ ngơi thôi. Giờ Ngọ là giờ Zarathurtra xuống núi nhưng lại là giờ Nagarjuna lên núi, giờ Siddhartha Gautama nhập đại định và Thiền sư Thi sỹ thì đi vào tịch mặc, vô ngôn. Vô ngôn như Triết gia Heidegger: “Trong tư tưởng, mọi sự trở thành cô liêu và lững thững...” Đứng bóng mặt trời, lặng im, lặng im, lặng im. Giờ phút im lặng nhất - “Trên tất cả đỉnh cao là lặng im” - Phạm Công Thiện đã nói như thế và du sỹ chợt bàng hoàng nhớ lại, từ năm 1967 mới 24 tuổi, khi viết tác phẩm đầu tay Đại cương Thiền quán, Tuệ Sỹ đã thấy và nghe được sự Im lặng kia rồi: “Chỉ có cái Im lặng mênh mang ấy mới chứa đựng được Thể LÀ – Nhưng Thể LÀ ấy bao giờ cũng trỏ vào Thực tại triển nở. Bởi thế, Im lặng là để nghe tiếng nói bàng bạc của Thực thể. Vậy muốn tiến sát đến bên Thực thể thì phải tập sống trong cái Im lặng trước đã. Bồ Đề Đạt Ma chín năm Im lặng nhìn vào vách.” Như vậy, phải chăng, Im lặng chính là bài học đầu tiên và cuối cùng mà bậc Đại sỹ muốn truyền cảm hứng lại cho cõi tồn sinh, sau mấy chục năm trời lênh đênh theo vận nước, theo heo hút muôn trùng cuộc lữ? “Từ nguyên sơ đã một lời không nói...” Tâm Nhiên

THANH TÙNG, TRÁNG SĨ THƠ CỦA THỜI HOA ĐỎ _ NGUYỄN VIỆT CHIẾN

"Mỗi mùa hoa đỏ về THANH TÙNG, TRÁNG SĨ THƠ CỦA THỜI HOA ĐỎ NGUYỄN VIỆT CHIẾN Trong thơ Việt Nam đương đại, bài thơ “Thời hoa đỏ” của cố nhà thơ Thanh Tùng được coi là một trong số ít các bài thơ tình hay nhất. Bài thơ này đã được nhạc sĩ Nguyễn Đình Bảng phổ nhạc và sau mấy chục năm, giai điệu của nó vẫn ngân vang tha thiết trong tâm hồn hang chục triệu người. Theo tôi, sở dĩ thơ Thanh Tùng có một sức sống ngôn ngữ giầu cảm xúc, giầu chiêm nghiệm và ý tưởng mới lạ trong thi ca là do phẩm chất thi sĩ khá đậm đặc, mãnh liệt mang dấu ấn phong cách của tài năng ông với những câu thơ đã chạm vào được mạch nguồn sâu sa và tươi mới của đời sống con người, đời sống thiên nhiên, đời sống quê hương. “Dưới màu hoa như lửa cháy khát khao/Anh nắm tay em bước dọc con đường vắng/Chỉ có tiếng ve sôi chẳng cho trưa hè yên tĩnh/Chẳng cho lòng ta nguôi/Anh mải mê về một màu mây xa/Về cánh buồm bay qua ô cửa nhỏ/Về cái vẻ thần kỳ của ngày qua/Em hát một câu thơ ngày cũ/Cái say mê một thời thiếu nữ/Mỗi mùa hoa đỏ về/Hoa như mưa rơi rơi/Cánh mỏng manh tan tác đỏ tươi/Như máu ứa một thời trai trẻ…”. Những câu thơ giản dị, trong suốt này ngân vang trong tâm tưởng người đọc những cung bậc tình yêu về một miền sống, miền thương yêu nơi mỗi chúng ta đã từng đi qua và luôn khát khao trở lại. Trong hành trình thơ của Thanh Tùng không thể không nói tới thơ tình, đây là một mảng thơ đặc biệt ghi dấu ấn sâu lắng và nồng nhiệt của một tâm hồn thi sĩ cháy bỏng yêu thương và luôn tụng ca cái đẹp nơi ông mà bài thơ “Thời hoa đỏ” đã đọng lại như một trong những bài thơ tình hay nhất của thi ca đương đại Việt Nam. MỖI NHÀ THƠ ĐỀU CÓ MỘT MIỀN ĐẤT KÝ THÁC VĂN CHƯƠNG Tôi nghĩ mỗi một nhà thơ đích thực, nổi tiếng đều tìm thấy miền đất ký thác của thơ mình trong cuộc đời sáng tạo của riêng họ dẫu hành trình thơ mở ra ở nhiều miền sống khác nhau, nhiều thể tài khác nhau, nhiều giai đoạn khác nhau, nhiều thi tầng khác nhau. Và, điều tôi muốn nói tới chính là chất thơ của những miền sống đã làm nên một đặc trưng phổ quát, một định hình ngôn thi, một đính tính phong cách…của miền thi ca ấy. Với tuyển thơ “Còn đây một thời hoa đỏ” của cố nhà thơ Thanh Tùng vừa được NXB Hội Nhà văn ấn hànhnăm 2019, qua 159 bài thơ trong tập, tôi cho rằng cái phong vận của người thơ tài hoa ấy có hai nét nổi bật đẫm chất thơ-chất sống Hải Phòng đó là sự phóng khoáng trong nhịp điệu thi ca và sự phiêu bạt trong cảm xúc và suy ngẫm. Trong đời thơ của mình, Thanh Tùng đi khá nhiều nơi, viết về nhiều miền đất khác nhau nhưng thành phố Hải Phòng của một ‘Thời hoa đỏ” vẫn là một miền thi ca giầu chất sống lãng mạn dữ dội và ký thác tâm tưởng nhiều nhất đối với ông. Trong bài thơ “Hải Phòng-muối của đời tôi” Thanh Tùng chia sẻ: “Tôi để lại Hải Phòng giầu có của tôi/ Bước ra cửa là rơi vào trái tim bè bạn/ Cùng ngọn gió tươi mặn chaát của biển khơi/ Với tôi ngày nào cũng Tết/Tôi đã mang thơ trải khắ p con đường// Thơ có máu của những ngày bom đạn/ Dồn lên cùng ngọn lửa lò nung/ Chắt ra từ giọt rượu đêm/Quán vắng bạn bè khật khưỡng…”. Rồi: “Tôi đã làm thơ từ sau xe bò chở gạch/ Đến quảng trường nổi gió lúc nửa đêm/ Tiếng ghi-ta ngập ngừng ven bờ sông Lấp/ Rồi bay lên sóng sánh ánh sao trời /Hải Phòng ơi ai cũng đã an ủi tôi/ Bằng cách yêu của thợ/ Đến vỉa hè cũng nóng lên mời gọi/Trong những ngày tưởng không đứng lên được nữa/Hải Phòng ơi tôi đã tan vào Người/ Trong ngổn ngang mãnh liệt/Để hôm nay dù ở nơi nào/Cũng không nhạt nhẽo/Vì Người là muối của đời tôi” (Hải Phòng-muối của đời tôi-Thơ Thanh Tùng) Qua những câu thơ như trên, có thể nói, thơ Thanh Tùng là thứ thơ đậm đặc chất sống, tươi rói chất sống mà cũng trầm luân chất sống, mặn mòi chất muối của Hải Phòng. Hơi thở đời sống cần lao nhọc nhằn, lấm láp của thành phố những tháng năm ấy cứ hiện lên trong thơ ông những nỗi niềm trở trăn, day dứt: “Thành phố gầy như ngực mẹ tôi/Tôi không dám mạnh chân sợ mặt đường long nhựa/ Không dám cả cười buông thả/ Sợ bao vết thương bom đạn vẫn chưa lành/ Bờ sông khúc khuỷu hoang sơ/ Nham nhở cỏ xanh tràn mép phố/Những em gái thập thò sau khung cửa/ Ánh mắt như màu rượu lâu ngày…(Trở về- Thơ Thanh Tùng). Đa phần những bài thơ trong tập “Còn đây một thời hoa đỏ” của nhà thơ Thanh Tùng đều nằm trong mạch chảy ngầm của những tiểu- tự - sự với giọng thơ trầm lắng, giầu chia sẻ, khơi gợi và gần gũi, thân thiết với con người. Thanh Tùng đã nâng nghệ thuật thi ca thành một cách viết tự thân giầu phẩm cách thi sĩ, nó giản dị, hồn nhiên và tươi nguyên như chính hơi thở đời sống xung quanh đã được ông đưa vào thơ theo cách giầu cảm xúc nội tâm nhất, điều mà không phải nhà thơ nào cũng có được. NGHỆ THUẬT THI CA GIẦU PHẨM CÁCH THI SĨ Có thể thấy Hải Phòng lưu dấu ký ức tháng năm trong trái tim Thanh Tùng không chỉ là “Tiếng búa khắc vào hồn phố nhỏ/Cùng mộng mơ lảng vảng cuối con đường” cùng với “Những giọt mồ hôi từng hát lên trong suốt/Những lưng thợ đã bết mãi vào nhau” mà thành phố quê hương còn thắp lên một tình yêu không bao giờ nguôi cũ trong đời thơ phiêu bạt ông: “Tôi có thể lại yêu thêm lần nữa/ Với trái tim nặng trĩu nhọc nhằn/ Bao nhiêu xanh tôi đã để lại cho màu liễu bên bờ hồ Tam Bạc/ Máu đã bừng lên mỗi sớm nơi đây/Tôi vẫn khát những mặt hè như cậu bé ngày xưa/Những tên phố rộn lên trong tôi niềm say lang bạt/Rồi mai đây ở bất cứ nơi nào/Tôi cũng chỉ thấy mình chen chân trên đường Cầu Đất/Hoa bằng lăng tím đến dại khờ ‘- (Hải Phòng lúc ra đi-Thơ Thanh Tùng) Có thể nói trái tim nhà thơ như một bảo tàng trữ tình của những ảnh hình kỷ niệm thân thương về một dĩ vãng Hải Phòng, cũng là nơi chất chứa những xúc động yếu đuối mà chân thành khi ông phải chia tay thành phố trước một chuyến đi rất xa về phương trời khác:“Mới biết mình yếu đuối nhường nào khi phải ra đi/ Nếu tôi không vội nghiến răng thì cơn gió cũng làm cho nhàu rối/Mới thèm làm sao những em thơ nhởn nhơ quanh những gốc bàng già điềm tĩnh/ Những cô gái nước đi như hôn lên mặt hè/ Cả những người thợ đang tất bật áo quần bê bết mỡ dầu/ Tất cả nhìn tôi với tự hào và thương hại/ Tôi hiểu từ đây tất cả là của họ từ nhành cây ngọn cỏ đến vệt mưa xám xịt đã cất giữ của tôi bao dĩ vãng”. Rồi sau những khoảnh khắc yếu đuối phút chia tay, Thanh Tùng chợt nhận ra trong cuộc đời phiêu dạt của mình những câu thơ xa xót, những câu thơ phiêu bạt của một người thơ luôn đau đáu một tình yêu máu thịt với thành phố quê hương với những liên tưởng đầy ám ảnh: “Chỉ lát nữa thôi tôi sẽ trắng tay/ Cái đồng hồ nhà ga như khuôn mặt viên quan tòa nghiêm khắc/ Những cánh cửa nhà ga cũng cương quyết mở ra rồi/ Tiếng còi tàu bàng hoàng như tiếng thét chính hồn tôi/ Tôi rối lên ôm vào tất cả/Hết thứ này lại thêm thứ nữa/Như người khuân vác tham lam/ Tôi xin xỏ, giằng co rồi thương lượng/ Để mai trên quê người không quá cô đơn”-(Ở ga Hải Phòng-Thơ Thanh Tùng) Có lẽ về mặt kỹ năng viết, Thanh Tùng là một trong những bậc thầy của thơ trữ tình tự do mà bài thơ “Thời hoa đỏ” là một dẫn liệu bên cạnh những bài thơ đặc sắc khác của ông. Ở những bài thơ như thế, nhịp điệu dài ngắn của câu thơ lại phụ thuộc vào nhạc điệu nội tại của những tâm sự mà nhà thơ muốn gửi gắm, muốn chuyển tải như trong một bài thơ viết về “Hà Nội ngày trở về” của ông đã được nhạc sĩ Phú Quang phổ nhạc:“Hà Nội ơi tôi đã cất giữ người cẩn thận/ Như dưới làn da kia dẫu đã héo nhầu máu vẫn âm thầm chảy/ Hà Nội ơi, nguồn mộng mơ dày như cỏ mùa xuân/ Mỗi khi tôi thấy mình xơ xác/ Tôi lại về đánh cắp/Dẫu một chút bóng đêm trên đường phố Khâm Thiên/ Dẫu một mảnh lá vàng còn ướt nước Hồ Gươm/ Tôi rung lên mỗi khi chạm tới bóng cửa ô/ Như được chạm vào vai gầy áo mẹ/Tôi bé nhỏ và tôi vẫn thế/ Trái tim luôn xao động/ Như bên trong đầy ắp sóng Hồ Tây/ Vội vã trở về, vội vã ra đi/ Chẳng kịp nhận ra từng mặt phố…-(Hà Nội-Thơ Thanh Tùng). Trong bài viết ngắn này về thơ Thanh Tùng, tôi muốn phác họa đôi nét cái chất sống-chất thơ Hải Phòng trong nhiều bài thơ của ông để thấy thành phố cảng của cần lao, phóng khoáng nơi ông sinh ra và lớn lên đã ngấm vào máu thịt, vào từng hơi thở của thi ca ông với nhiều nỗi đời, nỗi người trong gian khó, nhọc nhằn nhưng vẫn vượt lên bền bỉ một chất sống mãnh liệt của những con người không chịu cúi đầu, không chịu thua cuộc và luôn gắn bó, thủy chung với quê hương: Sau những năm dài đầy biến động và sống hết mình cho thi ca, một trong những bài thơ cuối cùng Thanh Tùng viết trước khi giã biệt cuộc đời gian truân và giầu mộng mơ thi sĩ của ông là bài “Khi nhà thơ đi xa” với những câu thơ dự cảm đầy tâm trạng: “Anh đã đi xa/Chỉ còn những câu thơ ở lại/Những câu thơ tê tái/Chạy như lá khô/Viền tang trên trán phố chiều nay”. Tôi như thấy trong bài thơ này, Thanh Tùng đã viết về chính mình, về một nhà thơ đã sống một cuộc sống không dễ dàng gì trong những tháng năm lao khổ đầy biến động cùng với bạn bè, với Thành phố Cảng quê hương. Thanh Tùng như một Tráng-sĩ-thơ giầu chất sống phóng khoáng, phiêu bạt và thấm đẫm chất Hải Phòng nơi thi ca ông.

Thứ Ba, 12 tháng 11, 2024

BẢO THỦ VÀ CHỦ QUAN _ THÍCH NHẤT HẠNH

BẢO THỦ VÀ CHỦ QUAN...!!! Con người ta thường thất bại thảm thương bởi những ý niệm này, vì họ cứ khư khư bảo vệ quan điểm, mà ko dựa trên những nguyên lí cơ bản. Sống& làm theo bản năng vốn có, họ chẳng muốn lắng nghe dù người khác có chân thành. Câu nói mà nhiều ng hay truyền tai nhau là.....ai nói gì nói, cứ hãy là chính mình...👌 Thấy bình thường đó, nhưng sẽ chẳng bình thường chút nào vs người ko hiểu thế nào là chánh kiến, thế nào là tà kiến...?? Và cứ thế mà họ càng phát huy bản năng vốn có, điều đó hiển nhiên trở thành tính nết của họ. Ai nói gì ko vừa ý, hoặc chẳng vừa lòng, họ sẵn sàng tỏ vẻ khó chịu& Giận..... Họ ko đủ kiên nhẫn để hiểu những thông điệp mà ng khác dành cho. Câu nói mà chúng ta thường thấy là.... Uh.....tính tui là vậy đó. Ah....tôi Biết rồi....nhưng biết chỉ để đó cho vui. Họ ko chịu quay về “quản” cái tính của mình. Vẫn ra sức bảo vệ cái tôi, rồi tự hào vs cá tính đó.... Chính tập khí sai lệch đã triệt tiêu hạt mầm thiện lành trong mỗi con người. Khi mang tâm ý Chủ Quan, cứ nghĩ là thời gian còn dài, còn rộng lắm. Nhưng ko phải ai cũng ngồi đó mà chờ mình, khi mình ko chịu đổi thay. Khi lòng chân thành ko đủ tác động đến một ai đó, họ sẽ chọn cách rời xa trong im lặng, xem như chẳng hữu duyên. Chủ quan rằng mình đủ thông minh, đủ bản lĩnh như 1 chiến binh bất bại, Chủ quan rằng mình đủ lớn, đủ già để hiểu am tuờng hết mọi thứ trên đời... Nhưng khi đối diện vs cái chết thì hoàn toàn vô định& ngơ ngác. Chỉ như đứa trẻ thơ bị giật viên kẹo ngọt khỏi tầm tay.....!! 🌻 Đức Phật đã dạy La Hầu La rằng... Nếu con đòi hỏi mọi ng phải trải chiếu cho mỗi bước chân của con đi, ( vì nghĩ mình là cháu của vua, con trai của Đức Phật). Thì thế gian này làm sao đủ chiếu& đủ người để phục vụ cho mong muốn của con...??? Thay vào điều đó, con hãy chọn cho mình 1 đôi giày vừa vặn, nó sẽ đồng hành cùng con đến bất cứ nơi nào con muốn. 🍀 Nếu người ko biết bơi, điều cần thiết là đi học bơi, chứ ko phải thay đổi cái hồ bơi. 🍀 Nếu muốn thay đổi thế giới, trước tiên hãy thay đổi chính mình trong chánh niệm. 🍀 Nếu vợ hoặc chồng ko hợp nhau, thì điều cần là thay đổi chính mình, chứ ko phải thay người khác. Bằng ko....sự đổi thay ko bao giờ là hồi kết& luôn để lại vết sẹo trong lòng mỗi người, kèm theo những hệ luỵ về sau. 🍀 Nếu cha mẹ muốn tạo ra những thiên thần, thì bản thân đừng là ác quỷ. Hãy tự nhận dạng chính mình, chứ đừng là người đồng loã của bản năng. 🍀 Nếu muốn mình dc trân quý hơn, hãy biết quay vào bên trong “quét rác” mỗi ngày và học hạnh lắng nghe. Thay đổi để chuyển hoá... Thay đổi để ko phải nói ....giá như. Thay đổi để bạn có tài sản, chứ ko phải là người vô sản khi rời khỏi cõi tạm này...☺️☺️☺️ Chúc người người dc thoát mê, khai ngộ. Cũng chính là đem lợi lạc đến cho mình& cho cả mọi người..🙏🙏🙏 #DiệuThanh 🌷🌷🌷🌷🌷🌷🌷🌷🌷🌷🌷

BÁO OÁN HẠNH _ THÍCH THANH TỪ

BÁO OÁN HẠNH ( HẠNH TRẢ THÙ) Hòa Thượng Thích Thanh Từ ✨✨✨🙏🙏🙏✨✨✨ Thế nào là báo oán hạnh? Nghĩa là người tu hành khi gặp cảnh khổ phải tự nghĩ rằng: Ta từ xưa đến giờ ở trong vô số kiếp, bỏ cái gốc mà theo cái ngọn cho nên trôi lăn trong các cõi, nên phần nhiều khởi lòng oán ghét căm hận vô hạn (tức là lưu cái hại vô hạn). Đời nay tuy rằng không có phạm những tội lỗi ấy, nhưng thảy đều do cái họa ương đời trước. Cái nghiệp ác nó đã chín thì không phải trời, không phải người mà hay cùng thấy (cũng không phải do trời, không phải do người mà hay cùng thấy, tức là không phải trời cũng không phải người tạo ra cho mình). Như vậy thì phải cam nhận chịu, trọn không có oán trách. Kinh nói rằng: Gặp khổ mà chẳng buồn. Vì cớ sao? Khi cái tâm này sanh cùng với lý nó phù hợp. Vì cái thứ oán nó liền tiến đến đạo (tức là từ cái gốc oán thù mà khiến cho mình tiến được đến đạo). Cho nên gọi là “báo oán hạnh”. Điều này tất cả người tu cũng như người cư sĩ tại gia, chúng ta cần phải nhớ cái hạnh này thì hiện tại chúng ta mới hết khổ, cũng hết oán hờn. Hạnh này là hạnh báo oán, báo oán là những oan gia đời trước nó còn lưu lại thì sớm chầy gì nó cũng sẽ đến với mình. Chúng ta là người Phật tử hay là người xuất gia, hiện đời này chúng ta biết cái nào là tội chúng ta tránh, cái nào là phước chúng ta làm. Tuy đời này chúng ta không gây những nghiệp ác, nhưng mà những nghiệp ác của đời quá khứ chúng ta đâu có lường được. Biết bao nhiêu đời, biết bao nhiêu kiếp chúng ta đã tạo bao nhiêu cái đau khổ. Nếu thuở xưa mà chúng ta đã biết trở về nguồn chân, không để trôi theo dòng sanh tử thì bây giờ chúng ta đâu còn ở đây, phải vậy không? Sở dĩ bây giờ chúng ta còn ở đây là biết rằng: Chúng ta đời trước và đời trước bao nhiêu kiếp nữa còn ở trong cái mê lầm. Bởi hồi xưa ở trong mê lầm cho nên tạo nghiệp mà không thể lường được, vì tạo nghiệp không thể lường được cho nên đã bao nhiêu đời rồi, chúng ta đã gây những tai họa lưu lại không biết là bao nhiêu. Đời nay tuy là mình biết tu, không còn phạm nữa, nhưng mà cái họa ương của đời trước, cái nghiệp ác nó đã thuần thục, cái quả nó đã chín mùi rồi thì bây giờ phải chịu, thấy không? Bây giờ có những gì đau khổ nó đến là cái quả chín của đời trước, chớ không phải là cái tội ác của đời này. Không còn trách cứ ai hết. Biết như vậy rồi thì biết rằng cái quả khổ hiện giờ mình gánh chịu đây không phải do trời làm ra, cũng không phải người gây nên, chính là do cái nghiệp trước của mình đã tạo. Như vậy chỉ còn có một cách là cam tâm chịu thôi. Cái gì xảy tới với mình thì sẵn sàng cam tâm nhận chịu, không trách trời, không oán người, không phiền ai hết, vui vẻ nhận lấy, vì đó là cái nghiệp quá khứ của mình. Như vậy là mình không còn buồn khổ nữa. Cái khổ có đến với mình, mình không buồn. Do đó mình tự nhiên có cái gan dạ, chịu đựng tất cả cái khổ đến. Còn bây giờ chúng ta gặp cảnh khổ là kêu trời trách đất, nói tại sao đời này tôi ăn hiền ở lành, tôi cứu người này, tôi giúp người kia mà chính thân tôi khổ lắm vậy? Như vậy là mình cứ oán trách. Như vậy cái quả trước mình trả chưa hết mà bây giờ lại còn oán trách còn thêm tội nữa, phải vậy không? Chi bằng vui vẻ, cam nhận chịu, chúng ta sẵn sàng nhận lãnh tất cả những gì chúng ta đã tạo, như vậy mới là gan dạ chứ, thấy không? Can đảm nhận lãnh như thế rồi thì tự nhiên mình khổ mà tâm mình không khổ. Thân khổ hay cảnh khổ mà tâm không khổ vì mình chấp nhận mà, mình không sợ sệt gì hết. Người ta sở dĩ đau khổ là vì người ta sợ sệt, còn mình không sợ sệt cho nên tự nhiên khổ mà không khổ. Đó là điều mà tất cả chúng ta, nhất là lúc này, chúng ta phải tập cái hạnh đó cho nhiều mới được, đúng không? Chớ còn nếu trong thời này mà không tập được cái hạnh đó, thì sau này không sao tránh khỏi là trách người này, oán trời kia đủ thứ hết: Tại sao tôi hiền lành quá mà xảy ra chuyện này? Tôi tốt quá mà lại xảy đến cho tôi chuyện kia? Phải vậy không? Không có ai làm cho mình khổ mà chính là cái nghiệp quá khứ của mình còn lưu lại, đến giờ thì chín mùi rồi thì mình phải chịu. Như vậy, mình trách mà mình có hết khổ không? Chi bằng vui vẻ nhận lấy. Cho nên, chúng ta mà hiểu được lý nghiệp báo của thuở xưa thì chúng ta không còn cái yếu ớt, nhát hèn, kêu la than khổ như những người khác nữa. Chúng ta thấy có người nghèo mà họ vui, có người nghèo mà họ khổ. Tại sao nghèo mà vui? Tại sao nghèo mà khổ? Bởi vì có người nghèo, họ tự biết thân phận họ nghèo là tại họ vô phước cho nên nghèo, họ cam chịu, không trách hờn ai hết. Còn người nghèo mà cứ dòm người này, ngó người kia: ông đó làm ác, ổng gian tham quá mà sao ổng giàu còn mình sao nghèo? Rồi cứ thế mà trách người này, ghét người kia, thù người nọ, có phải tự mình chuốc khổ cho mình hay không? Như vậy, chúng ta ở trong cảnh khổ mà chỉ cần nhớ rằng: nếu không phải đời này chúng ta tạo, đó là do đời trước chúng ta gây nên. Đời này hay quá khứ cũng là mình tạo mình chịu, chớ có ai làm đâu? Mà mình tạo mình chịu còn oán hờn ai nữa? Không ai bỗng nhiên tới mà làm khổ mình, nó phải có lý do nào đó. Bây giờ mình nói theo lẽ công bằng mà nghe, thì hiện giờ chúng ta không ai buồn ai, không ai giận ai hết, thì có người nào nỡ lại chửi người không? Từ đó suy ra, mình chưa buồn người đó chút nào hết, không phiền không giận, không buồn mà mình dám lại chửi người ta không? Vậy ở đâu mà bây giờ có? Vậy bây giờ thấy mặt người đó là muốn chửi liền thì biết chuyện gì rồi, có căm hờn trong bụng rồi, thấy không? Chớ nếu không có căm hờn, làm sao vừa thấy mặt mình muốn chửi liền được? Vậy cái căm hờn đó, hoặc là mình mới tạo, hoặc mình đã tạo lâu rồi mà mình quên, phải không? Như vậy là lỗi tại mình chớ phải tại người ta đâu, mà cứ trách người ta hoài. Như bây giờ nhiều khi, người đó có điên khùng chửi ông, chửi cha mình hồi nào mà mình thấy mặt là ghét liền hà. Tại sao vậy? Tại vì mình đã sẵn ác cảm với họ. Còn có người chưa từng cho mình bữa cơm, bữa cháo nào mà tự nhiên thấy rồi thương. Như vậy là tại sao? Dĩ nhiên đó cũng là duyên trước của họ với mình đã có từ bao đời nào, cho nên bây giờ hiện đời tuy chưa có gì qua lại với nhau, mà khi gặp tự nhiên nó có cái gì, hoặc là dành sẵn cái tình cảm mến thương, hoặc dành sẵn cái ác cảm, oán ghét. Cái đó cũng là lỗi tại mình chớ không phải tại ai hết. Như vậy nếu chúng ta vô phước, sanh ra gặp ai cũng bắt ghét chúng ta hết thì lúc đó chúng ta cũng cười mà chịu: ờ tại mày hồi xưa mày dữ quá cho nên bây giờ để người ta phỉ nhổ trên đầu mày cũng đáng, thấy không? Vậy có trách ai chi? Còn nếu không như vậy thì cho rằng cái xã hội này đem tới toàn xấu xa, mình phải đạp đổ nó... Như vậy tức nhiên lòng căm thù của mình nó dấy lên, rồi cái nghiệp kia chưa trả hết, bây giờ cái nghiệp mới lại gây thêm. Như vậy thì đời đời oan gia không hết. Am hiểu được lẽ này thì chúng ta gan dạ chịu, không oán hờn ai hết. Giả sử bao nhiêu cái đau khổ dồn trên đầu chúng ta gánh chịu không muốn nổi đi nữa thì cũng phải ráng mà chịu, không nổi thì cứ nằm quẹp xuống đó chết luôn, chớ không có hờn trách ai hết, chớ đừng nói thôi để cho tôi ít ít. Có nhiều Phật tử cứ than van như vậy đó. “Nếu khi xưa tôi có tạo nghiệp ác, bây giờ có trả lại cho tôi thì trả từ từ, trả ít ít thì tôi chịu mới nổi, trả quá tôi không chịu nổi, tôi chịu không nổi thì tôi chết, chết thì thôi cũng là trả.” Như vậy thì chúng ta mới sẵn sàng, cái gì đã vay thì bây giờ sẵn sàng trả. Trả bao nhiêu cứ trả, hồi đó vay một triệu thì bây giờ trả một triệu, mà vay một trăm ngàn thì bây giờ trả một trăm ngàn, tùy theo sự vay nhiều ít, chớ còn không muốn để đời sau nữa, thấy không? Ngay đời này trả cho rồi, trả cho xong. Bây giờ chúng ta muốn dồn lại nợ trước cho hết để mà tự mình được giải thoát thì bao nhiêu nợ nần sẵn sàng trả hết, trả nhiều chừng nào mừng chừng nấy, cảm thấy hân hoan là lúc này mình trả rút, bao nhiêu trả hết. Như vậy là mừng chớ không có khổ. Còn nếu không hiểu như thế là thấy khổ, thấy tai họa nó dồn tới mình chừng nào, mình lại oán trách, rồi mình than phiền mình khổ. Nếu mình hiểu nó dồn nhiều chừng nào thì mình trả mau hết, thì tức nhiên mình mừng chớ không có gì hết. Còn bây giờ trả thưa thưa, trả một cách lâu lắc, chậm lắm, thấy không? Như vậy chúng ta nhớ cái báo oán hạnh này thì chúng ta không còn gì buồn khổ nữa. Bao nhiêu cái khổ tới thì sẵn sàng chấp nhận hết, vui vẻ chấp nhận chớ không có buồn hờn. Nếu trong xã hội này ai cũng có cái gan như vậy, thì xã hội này có ai oán trách ai đâu? Phải vậy không? Không buồn, không oán ai hết, sẵn sàng gan dạ. Chính người Phật tử chân chánh có cái gan dạ như vậy, nghĩa là gan dạ chịu chớ không có buồn. Còn mình không phải chân chánh cho nên mình mới buồn. Nếu khi nào mình oán trách, người ta biết mình là chưa phải chân chánh rồi đó. Chưa tin được lý nhân quả mà, thấy không? Chưa tin được lý nhân quả nên mới oán trách người, chớ còn tin lý nhân quả thì không có oán trách ai hết. Bây giờ tự kiểm lại lòng mình coi mình có tin nhân quả chưa? Cái lý mà nó gần nhất và phổ thông nhất của nhà Phật mà mình chưa tin, thì những cái cao làm sao mà tin nổi. Vì vậy cho nên tất cả chúng ta phải gan dạ, chịu đựng tất cả cái khổ nó đến với chúng ta, không oán, không hờn, không buồn, không phiền ai hết. Giả sử như người trong gia đình làm cho mình khổ thì mình cũng vẫn chịu, biết rằng chắc hồi trước mình cũng làm cho người đó khổ nhiều, bây giờ họ trả lại. Hoặc người bên ngoài làm cho mình khổ, mình cũng biết trước kia mình đã làm cho họ khổ nhiều bây giờ họ trả lại. Chuyện đó không có ngẫu nhiên mà đến với mình đâu. Hiểu như vậy rồi thì chúng ta an nhiên cam chịu, không oán hờn và không thù hận ai hết. Đó là cái hạnh thứ nhất. Trích sách: Sáu cửa vào động thiếu thất Cửa thứ ba: Nhị chủng nhập Tổ Bồ Đề Đạt Ma HT.Thích Thanh Từ dịch và giảng giải thuongchieu.net --- Con hiểu rằng với một kiếp người ngắn ngũi và mong manh chúng con không thể nào trả hết những vay mượn, những nợ nần trong vô số kiếp quá khứ, hiểu được nhân quả và sự công bằng trong vũ trụ, chúng con cố gắng tu hành mong có cơ hội đền trả lại những gì chúng con đã vay mượn Chúng con phước mỏng, nghiệp lại sâu dày nên luôn được nương nhờ vào tha lực của Phật, Bồ tát và kiên nhẫn vượt qua những khó khăn mang theo tâm nguyện lợi lạc cho đời Xin đức Từ Bi Thường Gia Hộ để đời kiếp chúng con luôn gặp Chánh Pháp, có cơ hộ phụng sự cho chúng sinh đền ơn chư Phật. Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Chủ Nhật, 10 tháng 11, 2024

THƠ LÊ HÀO PHÚ YÊN

❤️Viết về kí ức Tàu Không Số & Bến Vũng Rô thật khó! Mời bạn đọc và cảm nhận: 🌼MAI VÀNG TRÊN ĐỈNH NÚI ĐÁ BIA Nghe Chú Thạnh kể chuyện ngày nào tàu không số có mai vàng trên đỉnh mù sương Ngày ấy đạn găm như mưa đêm cú vọ săn mồi đèn pha loang loáng chiến sĩ ngụy trang xong tàu hàng lên núi cao ngắm cảnh Đá Bia sương phủ mờ mờ Trăng hạ huyền lung linh ca nước vối khói thuốc thành mây bay cành mai trên vai vừa hé nở súng ngửa cổ ngắm sao trời Đêm vuốt bàn chân vừa rớm máu gói ghém nụ cười tươi sau vành mũ tai bèo ngàn vì sao lấp lánh, bay theo những ánh nhìn hỏa châu lóe lên rồi tắt lịm chỉ còn những khuôn mặt sáng bừng trong đêm bầu trời đầy hoa cỏ Cành mai thắp lên niềm tin trên đỉnh núi nở ra từ ước vọng quê nghèo ... hoa vẫn xinh dù nhọc nhằn gian khổ trăng mọc lên từ mất mát đau thương Ngày ấy ... người đi, thành sóng biếc mai vàng còn nở trong tim (LH) 🌿TẢN MẠN VỀ MỘT CHUYẾN RA KHƠI Tàu cập vào Hòn Nưa lúc 10h sóng chầm chậm suy tư trời và nước yên bình anh nhìn sâu xuống mặt biển để thấy từng viên sỏi long lanh số phận Thủy triều em lên trong vắt không rửa sạch cho anh chút nào rong rêu bụi bặm còn vô số nỗi niềm chôn kín trong vỏ ốc vỏ sò sao em không biết ? Trải qua cả ngàn năm sóng mới hiểu thế nào là "mênh mông hữu hạn, quay đầu là bờ ..." Lòng tham không cần buông neo không cần bến đỗ chỉ có những giọt mồ hôi đôi khi là máu buông đầy biển khơi và những chú còng cứ lặng thầm xe hy vọng Ngày Mẹ Âu Cơ sinh con đau đớn cũng nhiều mà những hoài mong còn nhiều hơn nước biển rốn biển nơi đâu, rốn đảo nơi đâu, rốn em nơi đâu còn dấu vết cội nguồn ngàn năm hoang hoải sóng ...? 11h20 phút tàu nhổ neo đưa anh về Bãi Chùa thăm tàu không số sóng lặng thầm niềm đau sâu thẳm màu nước xanh trong như tâm hồn người thuở nào Em cứ buồn như biển khơi đừng ngại nước mắt cho ta làm người em hãy yêu nỗi lòng của đảo ...! Tình anh cập vào đất liền lúc 12h05 phút Bãi Môn là đây ngàn khơi xa rợp nắng quê em (LH) 🌺ĐÁ TRÊN THẠCH BI SƠN Chấp chới ánh vàng để biết mặt trời còn ngủ say bên kia sườn non đá nhấp nhô phận mình triệu năm còn thức Những mảng thời gian hóa thạch chồng chồng lên nhau mở lối sau ngàn gai góc là hoa mua nở đầy sau ngàn thông reo là vực thẳm Giang mùa này mọc dày hơn cỏ lác ? dũ dẻ và bù lặp cùng đơm quả vàng vàng không ranh giới nào vạch sẵn ... đát mọc lên từ khe đá buông xuống một tràng hạt từ bi rừng lâm râm kinh cầu Phủ đầy rêu xanh và dương xỉ từng tảng đá lặng nhìn bao phận đời trôi nhanh chìm khuất ... đá này là máu xương người mở cõi đá này là nỗi niềm chinh phu đá này là tình yêu, khát vọng lớp lớp trùng trùng vun cao thành ngọn núi Trên đỉnh núi là Thạch Bi hùng vĩ chữ viết còn trong mây nhắc về bổn phận người đời ... cúi đầu bên vách đá mới thấy sự bao la của hồn thiêng non nước (LH)

Thứ Năm, 7 tháng 11, 2024

THƠ LÊ HÀO PHÚ YÊN

💔Thơ & tranh vẽ về nỗi đau. Đôi khi không thể trốn được nỗi đau, nó có con mắt để tìm mình! 🥀CỎ VỪA THỨC GIẤC Đêm qua có con dế lạ tới làm quen mình ngủ quên trong tiếng dế mặt trời rọi vào chiêm bao Nắng đỏ rực núi trên cao vừa thức giấc trên lớp bùn đã vỡ nghe tiếng trâu ọ bản xa, tiếng gà quen đồng vọng đá lổm nhổm bò quanh thung lũng nằm vùi chăn phủ Nghe gió kêu than từ khoảng rừng đổ gục nghe kí ức réo quanh đây đá nhảy nước chảy? làng ơi… người ơi! Bàn chân nay mọc rễ làm sao đi tìm gia phả của người Bao đêm mình thức cùng đom đóm ngày đứng phất phơ canh giữ cho làng (LH -11/2024) * 🥀ĐÊM MƯA SÀI GÒN Từng giọt thấm trên da thịt của Sài Gòn mưa qua những con đường nằm co trong cơn sốt Ngọn đèn nhìn quanh, rơi nước mắt ánh sáng không soi vào tận cùng hơi thở không sưởi ấm được đôi bàn tay run run, con thơ không đủ sữa Mưa khoác một màu trắng tinh buồn cúi mặt... tiếng ho vịn vào mưa quỵ xuống hổn hển những cơn mơ khó thở Người đàn ông gầy gò vừa đi theo sợi khói nhẹ bay vào mùa thu về miền cố hương xa vắng đêm còi hụ thay tiếng chuông mưa giọt giọt gõ mõ, rơi trên khuôn mặt thiếu phụ Có phải mưa là nước mắt của những người ly hương thuở trước chảy qua mấy trăm năm? (LH 9/2021) 💔Nỗi đau. Tranh của Lê Hào. Sơn dầu trên vải. 50x70cm. 11/2024

Chủ Nhật, 3 tháng 11, 2024

BÌNH THƠ HUỲNH THÚY KIỀU _ NGUYỄN KIẾN THỌ

Thơ Huỳnh Thúy Kiều: Ngờm ngợp phù sa châu thổ . NGUYỄN KIẾN THỌ Miền Tây là một không gian văn hóa đặc trưng của đồng bằng châu thổ, nơi hợp lưu của chín nhánh Cửu Long; miền Tây cũng là một vùng thẩm mĩ trong thi ca, khơi gợi cảm hứng của biết bao thi sĩ. Viết về miền Tây, tựu trung, có hai kiểu loại tác giả: một là tha hương lữ thứ hoặc sắm vai tha hương lữ thứ, mang tâm thế kẻ ngao du thưởng ngoạn, say đắm mà sinh tình, rồi thề non hẹn biển, đắm đuối tơ duyên, giăng mắc lòng với phù sa châu thổ; một nữa, là người sinh ra và gắn bó máu thịt với mảnh đất này, viết về miền Tây như để tri ân, hoặc như để quảng bá cho đất đai và tình người phóng khoáng. Hai kiểu loại tác giả đều có những điểm mạnh đồng thời cũng bộc lộ những hạn chế nhất định. Loại thứ nhất thường trơn tru ráo hoảnh, nhắc đến Cửu Long như nhắc đến một đặc sản vùng miền. Nói ân tình mà cứ khơi khơi, nói nặng lòng mà như kiểu người qua đường ghé lại, đắm đuối chẳng qua là hiếu kì… Loại thứ hai thì thường thiếu men cảm xúc, một chỉ dấu của sự tỉnh táo, nên thơ kĩ mà không sâu, nhuyễn mà không gợi, hoặc nói quá lên, hoặc còn chưa tới… Thật may, đất Mũi Cà Mau có một Huỳnh Thúy Kiều, và rộng hơn, đồng bằng sông Cửu Long có một Huỳnh Thúy Kiều. Thơ chị ngờm ngợp phù sa châu thổ, vừa đậm đặc phong vị riêng của miệt vườn Nam Bộ, vừa có cái man mác, si mê, đa tình của một lữ khách viễn du. Say với cảnh quen, đắm trong tình cũ - đó là Huỳnh Thúy Kiều. Thơ Huỳnh Thúy Kiều gợi ra cái tâm thế của người thưởng ngoạn: anh muốn thử uống ngụm nước sông Hậu, sông Tiền/ nghe vị giác ngọt lừ qua thơ em gọi. Những khai mở, khám phá tạo nên mạch cảm xúc êm dịu và ngọt ngào: chiều tím lục bình với khăn rằn và áo bà ba em/ như thấy mẹ, thấy bà nhai trầu bỏm bẻm/ anh muốn biết cả con cá lia thia, chim quyên quầy và cây bình bát/ bàn chân anh đang đứng ở nhánh sông nào (Lỡ có yêu đồng bằng). Không phải sự ngợi ca đơn chiều thường thấy ở nhiều nhà thơ khi viết về mảnh đất nơi mình sinh ra, coi truyền thống lịch sử là báu vật tinh thần, Huỳnh Thúy Kiều thiên về những mảnh kí ức vụn lẻ mà đằm sâu, những cái bình thường làm nên phong vị của thôn quê đồng bằng châu thổ. Ở đó, có nhung nhớ luyến tiếc về một quá vãng xa xăm, có xót xa ân tình của một người thơ nhiều duyên nợ. Điều này nằm ngoài những sắc điệu cảm hứng thông thường của người đến với miền Tây, viết về miền Tây như một điểm trang cho từng trải cuộc đời. Phải chăng, đó cũng là lí do làm cho thơ chị thấm hơn, gợi những ám ảnh hơn từ phía người đọc: con rồng thiêng ngậm vầng trăng châu thổ hóa màu/ nhịp cầu tre tang tình chỉ còn âm ba nhói kí ức/ nương theo mái dầm với khăn rằn thả chéo cao chéo thấp/ thôn nữ ơi em có còn gội tóc nước tro không (Châu thổ). Thơ Huỳnh Thúy Kiều mang tâm thế cuộc viễn du của những giấc mơ, không phải từ những quan sát trải nghiệm mà thực ra nó là những hệ quả sâu xa từ những quan sát, trải nghiệm, để rồi, nó bật ra bởi sự thúc giục của những ám ảnh từ trong vô thức. Chất “phiêu” của thơ Huỳnh Thúy Kiều là vậy, vượt qua giới hạn của những quan sát phàm thường để cất cánh, để phiêu du. Có vậy mới nhìn ra được sự cựa quẫy của đất đai châu thổ, thấy “sông Tiền, sông Hậu gợn từng nốt phù sa quẫy căng lồng ngực”, thấy châu thổ có nghìn nấm mồ lấp kín nỗi đau/ có triệu niềm vui lăn tăn theo từng dòng mặn ngọt. Cũng chính vì vậy nên dù nhà thơ có khẳng định “chín nhánh Cửu Long, châu thổ không của riêng tôi”, ta vẫn cứ nhận ra cái giọng thơ rất riêng nơi chị. Hãy nghe lời mời mọc chân thành và tình tứ: mùa nước nổi mời bạn đến dầm trong bữa canh chua cá linh bông điên điển/ xới chén ân tình cơm rơi vàng lời hẹn/ kênh rạch buồn đuổi ngọn sóng lắng bể dâu (Châu thổ). Như dòng sông miệt mài lắng lại những phù sa, thơ Huỳnh Thúy Kiều làm lắng lại những xúc cảm tình yêu với đất và người miền Tây quê chị. Chỉ có yêu quê đến tận cùng thì mới thấm hiểu cái gian nan vất vả của con người miền Tây. Ngay cả trong niềm vui lúa đồng trĩu hạt vẫn đau đáu nỗi niềm của giọt mồ hôi: giữa hai bờ lúa là khoảng trời dệt nắng bình yên/ cúi xuống nhặt giùm em giọt mồ hôi cha rơi trong ngày giáp hạt/ hoa mận nở bung trời bầy ong ríu ran hút mật/ con chim chào mào ngúng nguẩy tắm cuối mùa trăng (Giữa hai bờ lúa). Quê hương miền Tây trong thơ Huỳnh Thúy Kiều đẹp mà buồn. Chị mang những ẩn ức của người nhận ra nơi ngờm ngợp phù sa châu thổ không phải là thiên đường, không phải là món quà vô lượng của Thượng đế, mà là công sức nhọc nhằn của bao thế hệ cha ông, của những người cha, người mẹ đã dấn thân trên mảnh đất này. Và thơ, với chị như là những nợ đời phải trả của một người con hiếu nghĩa: bài nhân nghĩa đầu đời con vừa kịp hiểu, thưa cha/ hạt gạo mẩy trên cánh đồng cha gieo cho con đong từng táo chữ/ mẹ cõng ấu thơ con bước qua luống cày sợi rơm quấn vàng bờ rạ/ nên tận bây giờ thơ con vẫn quen ngai ngái mùi bùn thơm (Thơ viết tặng cha). Viết về những gian khó nhọc nhằn, Huỳnh Thúy Kiều vẫn trong veo một niềm yêu như thể tâm hồn chị được kết tinh bằng tình quê đọng mật. Cái tâm thế của người cha “dắt đàn con qua khỏi ranh đói nghèo” mà vẫn cảm nhận được “thơm ngọn gió gieo neo rừng dừa quê nội”, “mùa líu ríu ngọt mật ong rừng tràm quê ngoại”… là tâm thế của một bản năng thi sĩ, yêu quê và nặng tình nặng nghĩa với quê. Như đã nói, thơ Huỳnh Thúy Kiều là trạng thái vong thân của “những giấc mơ bay”, nên khoảng cách giữa chủ thể và đối tượng trữ tình luôn được khúc xạ qua một lằn ranh là nỗi nhớ. Nhớ quê là tâm thức thường trực trong thơ của chị. Hơn một lần chị bộc bạch hay thú nhận: em lớn lên từ mùi thơm hương đất/ bàn chân xa vô tình đạp phải nỗi nhớ quê… Khi thì “giấc mơ dịch chuyển khỏi đồng bằng châu thổ”, khi thì tan vào ban mai/ nỗi nhớ chòng chành như khói/ giấc mơ châu thổ/ anh quáng quàng như đang thức dậy giữa sông Tiền sông Hậu và em (Ban mai em). Dĩ nhiên, nỗi nhớ ấy cũng phải được đo bằng một đại lượng đặc biệt - “nỗi nhớ đo bằng mông lung khoảng trời tơ nhện”. Đó là một “tiếng gọi xa”, “nỗi nhớ xa” nên cũng vì thế mà trở nên lung linh huyền ảo, không chỉ chân thật mà còn mãnh liệt hơn, thi vị hơn: anh gỡ mùa thu còn sót lại chút hương tàn trên lưng áo/ ảo ảnh em cầm bông điên điển vàng cấy sâu thương nhớ vào tim (Và châu thổ)… “Ngờm ngợp phù sa” trong thơ Huỳnh Thúy Kiều đồng nghĩa với ngờm ngợp những tín hiệu văn hóa đặc trưng của vùng sông nước miền Tây. Trước tiên, có lẽ là những “ngờm ngợp” câu chữ. Thơ Huỳnh Thúy Kiều mang một nét riêng khó trộn, nó rậm rạp chữ, sum suê chữ và mơn mởn chữ. Sức sống miền Tây nở tràn trong thơ chị, thăng hoa bằng những xúc cảm, khi thì ồn ào mãnh liệt, khi thì lặng lẽ trầm tư. Dễ dàng nhận thấy, Huỳnh Thúy Kiều không lên gân lên cốt cho câu chữ mà để nó buông thả tự nhiên theo mạch cảm xúc. Vì thế, thơ chị mộc mạc và gần gũi, mang giọng thủ thỉ tâm tình của người phụ nữ miền Tây, vừa dịu dàng vừa mạnh mẽ. Lại có lúc, người thơ ấy trở nên đa cảm, yếu mềm. Ấy là khi chị cắt nghĩa về Hà Nội theo cách của riêng mình: cũng phù sa đỏ giống nhau thôi/ cũng phơi mình bốn bề gió lộng/ chao chát bờ xa/ thoi loi tiếng gọi/ em cầm sông Hồng cho vơi nhớ Cửu Long. Một cảm nhận lạ và sâu: em đo nhớ đầy tay/ mỗi góc phố là một giấc mơ dày/ hoang hoải/ nhịp đa đoan thức dậy/ nghe trở dạ đồng bằng (Đánh thức sông Hồng). Có khi, đó là những trải nghiệm đa đoan của một người thơ luôn sống bằng nỗi nhớ, bằng những kí ức dịu êm của một thiếu nữ đăm đắm say trong những cuộc tình: rụng xuống mùa chiếc lá đơn côi/ đêm trống trải. Gió lùa thông thốc gió/ cuộc tình nào đi qua.../ ai đổ cạn buồn xuống phố/ rong ruổi bàn chân em ướm lên phía nhớ rất thừa (Rất Huế). Dằng dặc địa danh trong thơ Huỳnh Thúy Kiều không chỉ định vị những tên đất tên người miền Tây mà còn định vị những ân tình gợi nhớ. Đó có khi là bến Ninh Kiều vừa quen vừa lạ: đây Ninh Kiều/ đây Ba Láng, Vàm Xáng, Phong Điền/ giữa chợ nổi anh thấy mình như cây bẹo treo đêm (Nhớ miền Tây). “Thấy mình như cây bẹo treo đêm” chắc chắn không bao giờ là cảm nhận của bất kì du khách nào khi tới bến Ninh Kiều, mà đó phải là cảm nhận của một người thông thổ, làm cho những câu thơ trở nên lạ và duyên. Cũng có khi, đó lại là những liên tưởng hết sức lạ lùng: buông luống cày bưng trời uống hết mật nắng tháng tư/ tựa chín cửa sông mới hay mình nhỏ nhoi trước chiều châu thổ/ cây mù u khoác những chùm hoa trắng nõn/ bịt khăn tang khóc phận bạc dưới chân cầu (Châu thổ). Quan sát và trải nghiệm, đúng hơn là quan sát bằng trải nghiệm, tạo cho Huỳnh Thúy Kiều vốn sống và sức viết, sức nghĩ. Vốn sống để thấu hiểu những người dân miền Tây phong trần, phóng khoáng và đầy chất nghệ sĩ. Sức viết tạo ra những tứ thơ lạ, sức nghĩ mang lại những điểm nhìn lạ. Từ Kiều Mây (2008), Giấu anh vào cỏ xanh (2010) đến Ru giấc phù sa (2017) là những bước chuyển khá rõ trong hành trình thơ ca của chị. Nếu Kiều Mây chỉ là một Huỳnh Thúy Kiều trong veo mơ mộng với một lối thơ khá đơn giản thì Giấu anh vào cỏ xanh hiển hiện một Huỳnh Thúy Kiều trăn trở, suy tư và nặng lòng với cuộc sống, cùng với những đột phá bước đầu về cách thức biểu đạt. Đến Ru giấc phù sa đã định hình một bản thể thơ Huỳnh Thúy Kiều mang đầy bản năng thi sĩ. Một trong những điểm mạnh của thơ chị có lẽ là ở sự đặc sắc về mạch thơ và tiết tấu. Sự nhấn nhá buông thả hay cô nén câu chữ được chị tạo ra với những dụng ý nghệ thuật nhằm kiến tạo một nét riêng trong diễn ngôn thơ Huỳnh Thúy Kiều. Câu chữ đắm tình và đậm vị cuộc sống làm cho mỗi bài thơ của chị trở thành một câu chuyện đầy thi vị. (Điều đó cũng phần nào lí giải những thành công ban đầu của Huỳnh Thúy Kiều ở thể loại tản văn.) Nếu có một cảm giác “tiêng tiếc” nào đó thì có lẽ nó gắn với sự kì vọng về một/những bài thơ làm nên “thi hiệu” Huỳnh Thúy Kiều, những bài thơ đậm đặc chất miền Tây và đóng đinh vào nỗi nhớ của người đọc. Điều đó, nếu chưa kịp hiện hữu trong thơ chị thì sự kì vọng cũng hoàn toàn không là viển vông. Trái lại, nó sẽ gieo vào chúng ta một cuộc đợi chờ thú vị. Trên con đường định hình một cá tính viết, Huỳnh Thúy Kiều đã mang đến cho người đọc những khoái cảm thẩm mĩ từ những bài thơ mang hương vị lạ, độc đáo đặc sắc mà đằm thắm trữ tình. Những bài thơ được kết tinh từ tình đời nặng sâu và tình người trong trẻo. N.K.T Trại viết VNQĐ, Cần Thơ, tháng 6/2022

BÌNH THƠ HUỲNH VĂN ÚT _ NGUYỄN NGỌC TÂN

Thơ Huỳnh Văn Út dầm mình trong miên man đất nhớ Huỳnh Văn Út viết nhiều thể loại, anh có thế mạnh ở mảng phóng sự và bút kí, nhưng với thơ, anh vẫn mang một nét chân chất đậm đặc kiểu lối nói rất duyên trong bài ca vọng cổ. Bởi thế, những giai điệu dặt dìu thường được anh sử dụng trong nhiều bài thơ của mình. Điều ấy khiến thơ anh có những nét cuốn hút rất đáng yêu, nó không có dáng vút bay lên màu mè cầu kì chữ nghĩa mà mênh mang kiểu giai điệu vọng cổ đằm đắm dìu dịu xề xang líu cống. Nhà thơ Huỳnh Văn Út Do đó, chúng tôi thấy hai biện pháp nghệ thuật điệp ngữ và liệt kê thường xuất hiện trong thơ Huỳnh Văn Út. Ở bài thơ “Về nghe em” là một ví dụ điển hình. Điệp ngữ “về nghe em…” sau đó là biện pháp liệt kê (“đẩy mái chèo khuya”, “trăng lấp lánh”, “đêm Cà Mau tang tình câu vọng cổ”, “chan chén canh rau”, “có mưa nắng còng lưng cha gánh gạo”, “có tấm áo, mẹ sáng nay vá vội”, “có đàn trâu”, “nghe mái tranh xiêu”, “củi bếp reo kói lên mắt cay”, “đêm loang gió vách ai dừng buổi sớm”, “dây bí vàng bên hiên”, “nằm võng lót mo”, “mẹ giấc trưa đằm thắm”, “chị mớm sữa, trẻ say chiều ngả nắng”, “thềm xưa điệu ngọt ngào”, “vá áo cho nhau”, “miếng trầu xanh vôi đỏ”, “anh dạo đờn em ngân bài dạ cổ”, “đêm quê nghèo thương mấy nhịp song loan”) để nghe, để hiểu, để thấm, mà thương, mà sống, mà trưởng thành! Do vậy, “về nghe em” thủ thỉ mà da diết, đâu chỉ là mong “em” thôi, mà đó còn là sự khát khao đối với tất thảy chúng ta là hãy về với quê hương xứ sở, về với cội nguồn để thấm hơn sự giang tay ôm đỡ và che chở của cội nguồn văn hóa. Bởi thế cho nên, thơ Huỳnh Văn Út thường tròn vo về chữ và trong sáng về nghĩa. Câu chữ anh nền nã, gọn và giản dị. Tình cảm buồn vui nhẹ nhàng như hơi thở. Dễ hiểu dễ cảm, câu chữ anh rót trực tiếp vào lòng người. Nhiều khi con chữ Huỳnh Văn Út cất lên nồng nàn và đầm đẫm những chắt chiu: “Con cá trong tộ tí teo, Cọng rau dài ngoẵng… gieo neo tình người Bờ ao, cầu khỉ… đây rồi! Vẳng nghe em hát những lời trong veo” (Về quê) Đôi khi là những mong cầu trong thảng thốt: Biết đâu có những đêm nằm Trở mình, đứt ruột sáo thầm về qua?! (Ví dầu con sáo qua sông) Lắm lúc lại là những sợi nhớ thương ngơ ngẩn rất vô tư kiểu học trò, khi anh mượn những hình ảnh thơ nhân cách hóa để nói hộ nỗi lòng mình: Ngày em đi con đê sầu chênh vênh Ta ngẩn ngơ khi tàu quê rời bến Tiếng yêu đầu vụt xa như định mệnh Dòng sông buồn… hát khúc chờ mong! (Sợi dây hư vô) Đôi khi lại là những trách cứ vu vơ, nhưng vẫn đậm chất sẻ chia và cũng vụt lớn để mà thông cảm, an ủi: Hai mươi năm… làm sao quên cái tên? Trang giấy trắng cũng nát nhàu nét mực Thôi em hỡi, xin trả nhau về đời thực! Có sợi dây nào cột được hư không? (Sợi dây hư vô) Và nhiều khi câu chữ anh là một chuỗi những hình ảnh của kí ức đan cài. Tiếng nói trữ tình anh vang lên nặng trĩu những tâm tư ruộng đồng, ăm ắp những hơi thở miệt vườn. Nhân vật trữ tình trong thơ Huỳnh Văn Út thường mang mang những tâm tình đồng ruộng, bao nhiêu là tha thiết cứ rủ rỉ về một vùng quê nào đó xa thật xa mà cũng gần thật gần, rất tình và cũng rất gợi: “Về nghe em đẩy mái chèo khua/ Trăng lấp lánh gọi đò qua bến lở/ Đêm Cà Mau tang tình câu vọng cổ/ Con sáo qua sông… con sóng bạc đầu…!/ Về nghe em chan bát canh rau/ Có mưa nắng còng lưng cha gánh gạo/ Có tấm áo, mẹ sáng nay vá vội/ Có… đàn trâu còn hì hục đồng chiều/ Về nghe em để nghe mái tranh xiêu/ Đêm loang gió vách ai dừng buổi sớm/ Dây bí vàng bên hiên hoa vừa chớm/ Củi bếp reo khói lên mắt cay nhòe/ Về nghe em nằm võng lót mo/ Gió lay khẽ, mẹ giấc trưa đằm thắm/ Chị mớm sửa, trẻ say chiều ngã nắng/ Dưới thềm xưa vẫn điệu khẽ ngọt ngào/ Về nghe em để… vá áo cho nhau/ Têm dùm mẹ miếng trầu xanh vôi đỏ/ Anh dạo đờn em ngân bài dạ cổ/ Đêm quê nghèo thương mấy nhịp song loan…” (Về nghe em) Nhà phê bình Khang Quốc Ngọc Có lắm lúc, thơ Huỳnh Văn Út như là những khúc nghỉ tạm thời để lấy hơi mà vô câu cổ cho mùi thiệt mùi. Bởi thế, kí ức cứ mãi lung linh và trong veo veo: “Ta lại về qua một dòng sông/ Chợt nghe tiếng thì thầm em gần quá!/ Xóm rẫy nghèo, trên chiếc xe đạp vá/ Theo ta cùng mây trắng, với trời xanh…” (Có một dòng sông) Ở đó, có thấy cả bóng dáng triết lí tuy là thấp thoáng nhưng cũng rất đáng yêu bởi đẫm chất giọng học trò: “Chẳng có lâu đài nào vĩnh cửu phải không em?/ Tráng lệ, nguy nga cũng chôn vùi trong đất/ Ta yêu em một tình yêu rất thật/ Lâu đài ta xây trên cát có bền đâu?/ Hai mươi năm… làm sao quên cái tên?/ Trang giấy trắng nát nhàu nét mực/ Thôi ta hỡi, xin trả nhau về đời thực!/ Có sợi dây nào cột được hư không?” (Sợi dây hư vô). Thiên nhiên trong thơ anh cũng thật trong sáng và đẫm đặc chất kí ức: “Anh đưa em về nơi cuối sông quê/ Từ phía biển sóng xanh lên bờ bãi/ Nơi ta đó… có mối tình ngây dại/ Trăng hẹn thề e ấp bờ môi…/ Bao năm rồi sông của em – tôi/ Con sóng cũ lăn tăn chưa về bến/ Anh và em vẫn đôi bờ diệu viễn/ Khắc khoải mùa trăng cũ xa xăm…/ Anh đi rồi như cá biệt tăm/ Như chim biển bay hoài không nghỉ/ Em là em, vẫn một đời mộng mị/ Vẫn nẻo về lạc lõng giữa mê say”. Lắm khi, thơ anh là những tiếng yêu xôn sao và bỏng cháy “Xuân mang anh về ấm đôi bàn tay/ Môi khát bỏng, đã chờ từ đông ấy/ Siết chặt nghe em như đôi bờ ôm bãi/ Mặc cây đước già trước biển lao xao!” Để cuối cùng hướng tới một tiếng nói tình cảm lứa đôi hạnh phúc thủy chung bền đẹp: “Sông thì thầm với biển ngày sau/ Xin biển đừng mang sóng đi xa nữa/ Cùng sông hát lời tự tình thắp lửa/ Để nghìn đời ôm bờ bãi… yêu đương.” (Có một dòng sông) Gần đây, Huỳnh Văn Út cố ý mượn “Thiền” để giãi bày tâm cảm và sự trải nghiệm của mình. Do thế, ý thơ anh vụt sáng lên trong thi ảnh, lấp lánh tình người “Đôi khi gặp kẻ lầm đường/ Ta cầu giác ngộ vô thường… quy y”. Lúc ấy, thơ anh ngả vào “thiền” để giải thích và mong cầu: “Không có thiên đàng kiếp sau/ Cũng nên gieo hạt xanh màu yêu thương…/ An nhiên, duyên khởi… từ bi/ Không chấp ngã, sống vô vi đường trần/ Tâm trong thân – Tâm nghe thân/ Quán hơi thở nhẹ, nắng xuân tràn về”. (Thiền) Nói tóm lại, thơ Huỳnh Văn Út mang hơi hướng tài tử miệt vườn Nam bộ. Ở đó có bóng dáng anh năm chú ba ôm đàn xuống xề mùi thiệt mùi và cũng buồn thiệt buồn, song hết buồn thì vác cây phảng ra đồng, mệt chút lại dựng cây phảng kế bên, ngồi quấn điếu thuốc gò rồi cao hứng mần thêm vài câu vọng cổ nên cái chất nền nã Miền Tây nặng tình sông nước nó sền sệt trong thơ anh âu cũng là chuyện dễ hiểu. Sài Gòn, 27.02.2023 KHANG QUỐC NGỌC

Thứ Sáu, 1 tháng 11, 2024

THƠ LÊ HÀO (PHÚ YÊN)

❤️Cứ thơ & tranh vẽ như thế này, là cách thể hiện sự sống! Thú vị và an lành❓ 🌿CÁ NGỪ VỀ CẢNG Người câu cá ngừ trở về trong nắng vàng rực rỡ khuân trên vai những niềm mơ căng đầy trĩu nặng mang hương vị mặn mòi biển cả mang tình thương từ người đã khuất Khát vọng đổi đời đã tạo ra những kết nối miên man qua cảng cá Phú Lạc nối tận miền nam nối ra bên ngoài nối quá khứ với tương lai bằng ngọn gió mùa thu ùa vào trong cảng Ngọn đèn biển đưa ánh sáng cho tàu anh bắt gặp đủ ấm cho từng người gian lao trên biển đủ sáng để phân định chủ quyền đủ tầm cho một chuyến hải trình về mai sau rạng rỡ. Có đèn biển năm xưa ở Vũng Rô nhấp nháy bật tín hiệu cho lịch sử Nghe Bác Thạnh kể chuyện mà mường tượng cả dáng hình mường tượng ra giọt máu năm xưa và nước mắt của những người đàn bà Hoà Xuân, Hoà Hiệp. Mường tượng các anh nằm trong sóng biển chiều hôm sóng kể chuyện vui quê mình Em là con gái Thuỷ Thần nơi Bến Tàu Không Số xua bầy cá ngừ về cho dân biển miền trung? (LH – 19/5/2024) 🌿SOI BÓNG Nắng đổ về phía thung lũng đầy gió nơi làng quê và hồ nước trong veo có áng mây u hoài lặng thầm đổ bóng Ngày nghiêng nghiêng soi đi tìm niềm cũ? bóng của rừng soi xuống nghe hương thoảng mùa sau Chao nỗi nhớ bên bờ mà chạm tiếng hò ru từ xa thẳm điệu hò mang vị trầu cay bà têm Tình quê nương náu quanh hồ ghe lưới ủ, chắt chiu mùa giáp hạt dáo dác bầy chim lưu lạc ngẩn ngơ ngày lửa khói rưng rưng bát nước chè xanh bà đặt lên bàn thờ tổ tiên, ngày ông xa mãi Tình yêu trao xuống nơi này thành tâm hồn thành hy vọng mặt hồ như chiếc gương thiêng Bà ơi … ! cõi lòng bà cho làm sao nhìn thấy bóng bà in xuống. (LH 2024) 🌺Tranh minh hoạ: Lê Hào.

BÀI MỚI ĐẮNG

Truyện ngắn: BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN _ NGUYỄN HẢI ĐĂNG

Bên cánh gà chánh điện phần 1 BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN Xe dừng lại với tiếng xột xoạt trên mặt đường, như bao chuyến xe đã ghé qua từ thuở ...